id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
381
title
stringlengths
1
211
text
stringlengths
11
513k
19269620
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hang%20L%E1%BA%A1ng%20N%E1%BA%AFc
Hang Lạng Nắc
Hang Lạng Nắc còn có tên gọi khác là hang Miệng Hổ, hoặc người dân địa phương vẫn thường gọi là hang Pác Gảc, nằm sát km thứ 32 của Quốc lộ 1 cũ thuộc địa phận của xã Mai Sao, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Mặc dù là di tích được xếp hạng cấp quốc gia từ năm 2004 nhưng cho đến nay, di tích khảo cổ học Hang động Lạng Nắc (thuộc thôn Lạng Nắc, xã Mai Sao, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn) vẫn chưa thực sự được quan tâm, bảo vệ. Nhiều người dân địa phương còn không hề biết đến sự tồn tại của di tích này. Tìm hiểu chung Hang Lạng Nắc nằm ở độ cao khoảng 100m so với mặt thung lũng, cửa hang rộng 18m, cao 16m, hướng về phía đông. Dưới chân núi hang Lạng Nắc có con suối Mai Sao, là nơi đầu nguồn của sông Thương. Di tích này nằm trong một hệ sinh thái đa dạng, có núi đá, núi đất, đồi, thung lũng, sông suối... Hang Lạng Nắc được nhân dân địa phương phát hiện và thông báo với Ty văn hóa Lạng Sơn, nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Viện khảo cổ học Việt Nam vào năm 1968. Từ tháng 7 năm 1970, Viện khảo cổ học Việt Nam và Ty văn hóa Lạng Sơn đã thực hiện thám sát hang Lạng Nắc lần đầu tiên. Tham khảo Du lịch Lạng Sơn Danh lam thắng cảnh Hang động Việt Nam
2917819
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eulepidotis%20aglaura
Eulepidotis aglaura
Eulepidotis aglaura là một loài bướm đêm trong họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Eulepidotis
3234036
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xiongguanlong
Xiongguanlong
Xiongguanlong là một chi khủng long, được Li D. Q. Norell Gao K. N. D. Smith & Makovicky mô tả khoa học năm 2009. Xem thêm Danh sách khủng long Chú thích Khủng long Xiongguanlong Động vật tuyệt chủng Động vật được mô tả năm 2009 Khủng long kỷ Phấn Trắng Khủng long châu Á Liên họ Khủng long bạo chúa Dự án Khủng long/Theo dõi
14379482
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B4n%20nh%C3%A2n%20c%C3%B9ng%20gi%E1%BB%9Bi%20%E1%BB%9F%20Puebla
Hôn nhân cùng giới ở Puebla
Hôn nhân cùng giới đã trở thành hợp pháp tại bang Puebla của México vào ngày 1 tháng 8 năm 2017, với phán quyết của Tòa án Công lý Tối cao Quốc gia (Tòa án Tối cao Mexico) giáng xuống Điều 300 của Bộ luật Dân sự, giới hạn kết hôn với một người đàn ông và một người phụ nữ và Điều 294, trong đó tuyên bố rằng hôn nhân tồn tại chỉ với mục đích sinh sản. SCJN tiếp tục loại bỏ yêu cầu đối với các cá nhân để có được một amparo (lệnh cấm) cho hôn nhân cùng giới ở tiểu bang, đồng tình với Ủy ban Nhân quyền Quốc gia (tiếng Tây Ban Nha: Comisión Nacional de los Derechos Humanos) mà Bộ luật Dân sự đã vi phạm quyền tự quyết của công dân LGBTI. Lịch sử Pháp luật Vào ngày 7 tháng 12 năm 2006, một dự luật kết hợp dân sự tương tự với Thành phố Mexico đã được đề xuất ở Puebla, nhưng nó đã vấp phải sự phản đối và chỉ trích mạnh mẽ từ các đại biểu của Đảng Cách mạng Thể chế (PRI) và Đảng Hành động Quốc gia (PAN), người đã tuyên bố rằng" gia đình truyền thống là mô hình xã hội duy nhất và không thể có một mô hình khác. " Vào ngày 15 tháng 3 năm 2011, Ley de Sociedad de Convivencia đã được đề xuất một lần nữa. Sau năm đánh giá trong những năm tiếp theo, vào ngày 8 tháng 6 năm 2014, luật pháp đã bị hoãn lại cho đến phiên họp sau đó. Vào ngày 29 tháng 9 năm 2014, Cơ quan lập pháp tuyên bố rằng sẽ không có cuộc thảo luận nào trong điều khoản lập pháp đó. Vào ngày 7 tháng 3 năm 2013, một nhóm các nhà hoạt động đã trình bày trước Quốc hội của Puebla một đề xuất, "Luật Agnès Torres", nhằm sửa đổi các Điều 831, 931, 932 và 935 của Bộ luật Dân sự của Puebla và Điều 751 của Bộ luật Thủ tục tố tụng dân sự cho phép các tài liệu nhận dạng hợp pháp phù hợp với tính cách và giới tính của sự lựa chọn cá nhân và bảo vệ công dân LGBT khỏi sự phân biệt đối xử. Vào ngày 8 tháng 11 năm 2014, một cuộc tuần hành đã được tổ chức bởi các nhà hoạt động và những người ủng hộ, kêu gọi Quốc hội thông qua luật để bảo vệ bản sắc giới và phê duyệt hôn nhân cùng giới. Đại hội đã từ chối một dự luật đoàn thể dân sự vào tháng 12 năm 2014. PRD, người ủng hộ dự luật liên minh dân sự, tuyên bố ý định giới thiệu lại dự luật vào năm 2015. Vào ngày 11 tháng 6 năm 2015, một thành viên của PRD đã gửi một dự luật kết hôn thay vì trích dẫn các quyết định của tòa án quốc gia có lợi cho các cặp cùng giới muốn kết hôn. Vào ngày 18 tháng 6 năm 2015, thông báo rằng đề xuất kết hôn sẽ được xem xét vào tháng 10, giúp các đại biểu có thời gian để được giáo dục về đề xuất này trước khi nó được đệ trình để phân tích. Vào tháng 6 năm 2016, đại diện của Quốc hội Puebla tuyên bố rằng họ sẽ không hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới, ít nhất là cho đến khi Tòa án Tối cao Mexico quy định về hành động vi hiến được đệ trình vào đầu tháng 5. Vào tháng 10 năm 2018, Phó PRI Rocío García Olmedo đã giới thiệu một dự luật trước Quốc hội nhằm tìm cách mã hóa hôn nhân cùng giới trong Bộ luật Dân sự của tiểu bang. Tham khảo Puebla Hôn nhân cùng giới ở México
2915621
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ercheia%20polychroma
Ercheia polychroma
Ercheia polychroma là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Ercheia
2610287
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eulithis%20paradoxa
Eulithis paradoxa
Eulithis paradoxa là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Tham khảo Eulithis
2758880
https://vi.wikipedia.org/wiki/Linnaemya%20pallidohirta
Linnaemya pallidohirta
Linnaemya pallidohirta là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Linnaemya
2650370
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sauris%20nigrifusalis
Sauris nigrifusalis
Sauris nigrifusalis là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Sauris
2576819
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amata%20rubritincta
Amata rubritincta
Amata rubritincta là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài R
3244128
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90o%C3%A0n%20V%C4%83n%20Th%C3%B4ng
Đoàn Văn Thông
Đoàn Văn Thông  (?-?), người huyện Quảng Đức (nay thuộc phường Đồng Xuân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), trú quán xã Lương Xá huyện Lương Tài (nay thuộc xã Phú Lương huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh). Ông đỗ đệ tam giáp, đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân mùi, niên hiệu Hồng Thuận năm thứ ba 1511. Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Lễ . Ghi chú Người Hà Nội Người Bắc Ninh Tiến sĩ nhà Hậu Lê Quan lại nhà Lê sơ
2749455
https://vi.wikipedia.org/wiki/Actia%20nigra
Actia nigra
Actia nigra là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Actia
2941019
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trogocraspia%20cassida
Trogocraspia cassida
Trogocraspia cassida là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Trogocraspia
2939354
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thalerastria%20atribasalis
Thalerastria atribasalis
Thalerastria atribasalis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Thalerastria
2701868
https://vi.wikipedia.org/wiki/Classeya%20quadricuspis
Classeya quadricuspis
Classeya quadricuspis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Classeya
2655655
https://vi.wikipedia.org/wiki/Semiothisa%20agrammata
Semiothisa agrammata
Semiothisa agrammata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài A
2925700
https://vi.wikipedia.org/wiki/Homolocha%20novoguineae
Homolocha novoguineae
Homolocha novoguineae là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Homolocha
3567754
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7y%20%C4%91i%E1%BB%87n%20%C4%90%C4%83k%20L%C3%B4
Thủy điện Đăk Lô
Thủy điện Đăk Lô là thủy điện xây dựng trên dòng Đăk Lô trên vùng đất xã Ngok Tem huyện Kon Plông tỉnh Kon Tum, Việt Nam . Thủy điện Đăk Lô có tổng công suất lắp máy 22 MW với 3 bậc, 6 tổ máy, sản lượng điện hàng năm 92,1 triệu KWh, khởi công tháng 2/2012 hoàn thành tháng 1/2016 . Các bậc thủy điện có: Thủy điện Đăk Lô 1 có công suất lắp đặt 6 MW. Thủy điện Đăk Lô 2 có công suất lắp đặt 6 MW. Thủy điện Đăk Lô 3 có công suất lắp đặt 10 MW. Tác động môi trường dân sinh Việc đặt đường ống áp lực bằng thép nổi trên mặt dẫn đến đường Trường Sơn Đông bị sạt lở khi mưa lũ đầu tháng 01/2016 . Đầu tháng 12/2016 sạt lở lại xảy ra . Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Đăk Lô Đăk Lô
19480640
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lee%20Hunter%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
Lee Hunter (cầu thủ bóng đá)
Lee Hunter (sinh ngày 5 tháng 10 năm 1969) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở Football League ở vị trí tiền vệ cánh cho Colchester United. Sự nghiệp Sinh ra ở Oldham, Hunter kí hợp đồng với Colchester United khi học việc tại đội trẻ của câu lạc bộ, có trận ra mắt đội một tại Layer Road ngày 6 tháng 5 năm 1988 trong trận hòa 0-0 với Tranmere Rovers, trận đấu mà ông được đá chính. Ông có 9 lần ra sân cho câu lạc bộ ở Football League, đá chính 5 trận và 4 lần vào sân từ dự bị. Ông chơi trận cuối cùng cho câu lạc bộ vào ngày 21 tháng 4 năm 1989 trong trận hòa 1-1 trên sân nhà với Carlisle United, vào sân thay cho Stuart Hicks. Sau đó ông còn thi đấu cho các đội Wivenhoe Town, Wigan Athletic, Hendon, Chelmsford City, Boreham Wood, Braintree Town, Braintree Town, Clacton Town và Maldon Town. Tham khảo Sinh năm 1969 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá từ Oldham Cầu thủ bóng đá Anh Tiền vệ cánh bóng đá Cầu thủ bóng đá Colchester United F.C. Cầu thủ bóng đá Wivenhoe Town F.C. Cầu thủ bóng đá Wigan Athletic F.C. Cầu thủ bóng đá Hendon F.C. Cầu thủ bóng đá Chelmsford City F.C. Cầu thủ bóng đá Boreham Wood F.C. Cầu thủ bóng đá Braintree Town F.C. Cầu thủ bóng đá Diss Town F.C. Cầu thủ bóng đá F.C. Clacton Cầu thủ bóng đá Maldon & Tiptree F.C. Cầu thủ bóng đá English Football League
2793091
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diadromus%20tenax
Diadromus tenax
Diadromus tenax là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Diadromus
14606903
https://vi.wikipedia.org/wiki/Josephine%20Chukwunonye
Josephine Chukwunonye
Josephine Chukwunonye (sinh ngày 19 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Nigeria chơi cho Asarums IF ở giải Divison 1, và cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria. Trước đây cô từng chơi cho đội bóng trong tại quê nhà Nigeria là Rivers Angels trong bảy năm và cho Washington Spirit trong Giải bóng đá nữ quốc gia. Câu lạc bộ sự nghiệp Sau bảy năm chơi cho Rivers Angels thuộc Giải vô địch nữ Nigeria, vào tháng 6 năm 2015, Chukwunonye có cơ hội tham gia giải đấu Liên đoàn bóng đá nữ quốc gia thông qua việc đầu quân cho đội bóng Washington Spirit. Cô được ký hợp đồng với Hayley Raso. Chukwunonye chia sẻ vào thời điểm đó: "Tôi rất hào hứng được gia nhập gia đình Washington Spirit, đó là một niềm vui và giấc mơ trở thành sự thật với tôi, tôi thích chơi với những cầu thủ tuyệt vời như Crystal Dunn, người tôi đã đối mặt ở World Cup U20 năm 2012 Tôi rất hào hứng khi được làm việc với huấn luyện viên Parsons vì tôi biết anh ấy sẽ mang đến những điều tốt nhất cho tôi. " Chukwunonye là người quốc tế Nigeria thứ hai trong đội hình, gia nhập Francisca Ordega. Sau khi chơi hai trận cho đội, cô được giải thoát hợp đồng và trở thành cầu thủ tự do vào tháng 12 năm 2015. Vào tháng 3 năm 2016, cả Chukwynonye và đồng nghiệp đồng hương Ngozi Okobi được ký kết bởi phía Thụy Điển Vittsjö GIK. Trước đây, họ đã chơi cùng nhau trong đội hình của Washington Spirit, và khi chuyển đến Vittsjö GIK, họ tham gia thi đấu cùng với hai đồng hương Nigeria khác là Nkem Ezurike và Ifeoma Dieke. Chukwynonye nói: "Tôi rất hào hứng được gia nhập gia đình Vittsjo; đó là một niềm vui và một giấc mơ trở thành sự thật với tôi, tôi rất muốn chứng tỏ bản thân và cống hiến hết sức mình để đưa câu lạc bộ đến vinh quang". Sự nghiệp quốc tế Cô đại diện cho Nigeria tham gia giải đấu ở cấp độ trẻ tại World Cup FIFA U-17 dành cho nữ 2008 và World Cup FIFA U-20 dành cho nữ 2012. Ở cấp độ đội tuyển quốc gia, cô là thành viên của đội tuyển Nigeria tham gia các giải đấu FIFA World Cup 2011 và 2015 cũng như Giải vô địch nữ châu Phi trong các lần tổ chức vào các năm 2010, 2012 và 2014, chiến thắng giải đấu này hai lần (2010 và 2014). Tham khảo Sinh năm 1992 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nữ Nigeria
15277121
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stegastes%20rocasensis
Stegastes rocasensis
Stegastes rocasensis, thường được gọi là cá thia Rocas, là một loài cá biển thuộc chi Stegastes trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1972. Phân bố và môi trường sống S. rocasensis có phạm vi phân bố ở Tây Đại Tây Dương, và chỉ được tìm thấy ngoài khơi Brazil, bao gồm cả quần đảo São Pedro và São Paulo. Chúng sống xung quanh các rạn san hô ngoài khơi và trong các đầm phá ở độ sâu khoảng 2 – 10 m. Mô tả S. rocasensis trưởng thành có chiều dài tối đa là khoảng 8,5 cm. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc những quả trứng. Số gai ở vây lưng: 12; Số tia vây mềm ở vây lưng: 13 - 16; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây mềm ở vây hậu môn: 13. Chú thích Stegastes Động vật được mô tả năm 1972
15099482
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tell%20Kifji
Tell Kifji
Tell Kifji (), còn được gọi là Liwan (), là một ngôi làng gần Tell Tamer ở phía tây tỉnh al-Hasakah, đông bắc Syria. Về mặt hành chính, nó thuộc về Nahiya Tell Tamer. Ngôi làng có người Assyria thuộc Giáo hội Assyria ở phía Đông. Tại cuộc điều tra dân số năm 2004, nó có dân số là 181. Xem thêm Người Assyria ở Syria Danh sách các khu định cư của người Assyria Tấn công Al-Hasakah (Tháng 2, tháng 3 năm 2015) Tham khảo
13630174
https://vi.wikipedia.org/wiki/Garfagnina
Garfagnina
Garfagnina hay Garfagnana là một giống dê bản địa của vùng núi Garfagnana phía bắc của Lucca, ở Tuscany ở miền trung nước Ý, từ đó nó lấy tên theo địa danh này. Giống dê này được nuôi dưỡng trong khu vực đó, và nó là sự kết hợp của các giống dê Camporgiano, Careggine, Castelnuovo di Garfagnana, Fosciandora, Minucciano, Pieve Fosciana, Vergemoli và Villa Collemandina; trong các cộng đồng chăn nuôi gia súc của Bagni di Lucca, Barga, Coreglia Antelminelli và Fabbriche di Vallico trong Media Valle del Serchio; và trong khu vực lịch sử của Controneria, về phía đông bắc Bagni di Lucca. Nó cũng có thể được gọi là Capra della Media Valle del Serchio hoặc Capra della Controneria. Nó có lẽ là tàn dư cuối cùng của loại dê Apennine của Emilia, Liguria và Tuscany. Garfagnina là một trong bốn mươi ba giống dê của Ý phân bố hạn chế, trong đó một cuốn sách gia phả được lưu giữ bởi Associazione Nazionale della Pastorizia, hiệp hội chăn nuôi cừu và dê quốc gia Ý. Loài này trong quá khứ nhiều hơn rất nhiều; tổng số cá thể ước tính giảm từ khoảng 5000 đến 2500 giữa năm 1989 và 2006. Vào cuối năm 2013, số đăng ký là 354. Năng suất sữa trung bình của Garfagnina là 215 lít trong 195 ngày. Sữa trung bình có 3,97% chất béo và 3,32% protein. Dê non bị giết mổ khoảng 40 ngày, khi chúng nặng khoảng 11 kg. Ghi chú Giống dê
2920665
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cardiestra%20eremistis
Cardiestra eremistis
Cardiestra eremistis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Cardiestra
2587002
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gorgonidia%20harterti
Gorgonidia harterti
Gorgonidia harterti là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Gorgonidia
11502774
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%E1%BB%91i%20lo%E1%BA%A1n%20th%C3%B4ng%20kh%C3%AD%20ph%E1%BB%95i
Rối loạn thông khí phổi
Thông khí là một trong bốn giai đoạn của quá trình hô hấp bao gồm: thông khí, khuếch tán, vận chuyển oxy và hô hấp tế bào. Thông khí được định nghĩa là sự trao đổi luồng khí giữa phổi và môi trường bên ngoài để làm mới nguồn cung oxy cho cơ thể. Rối loạn thông khí chính là những rối loạn dẫn tới giảm sự trao đổi đó. Rối loạn thông khí được chia làm hai loại: rối loạn thông khí hạn chế và rối loạn thông khí tắc nghẽn. Rối loạn thông khí hạn chế Chủ yếu do những nguyên nhân sau: Giảm số lượng phế nang thật sự Do teo phổi ở người già, cắt phổi sau phẫu thuật, xẹp phổi do có khối u hay do thiếu chất Surfactant bẩm sinh (thường gặp ở trẻ sinh non) làm mất một số nhu mô phổi làm giảm khả năng trao đổi khí của phổi. Suy giảm chức năng phổi Tổn thương cột sống, xương sườn, xương ức,... làm giảm khả năng giãn nở của phổi đồng thời gây đau cho bệnh nhân dẫn đến xu hướng không dám hít thở mạnh để lấy đủ oxy Bệnh lý ở nhu mô phổi: viêm phổi, xơ phổi, abcess phổi,... Bệnh lý ngoài hệ hô hấp: xơ gan cổ chướng, ứ hơi dạ dày cản trở cơ hoành di động làm giảm khả năng dãn nỡ của phổi dẫn đến giảm trao đổi khí hay do sự thay đổi thành phần, áp suất không khí. Rối loạn thông khí tắc nghẽn Xảy ra do có sự bít hẹp đường dẫn khí Đường dẫn khí cao (thanh quản, khí quản): u thanh quản,bạch hầu, thắt cổ, nghẽn dị vật lớn,... Đường dẫn khí sụn (phế quản): tắc nghẽn do dị vật, khối u... Đường dẫn khí màng (tiểu phế quản tận, phế nang): hen phế quản, ngộ độc khói thuốc lá,... Một số bệnh lý điển hình Bệnh núi cao thực nghiệm Khi lên cao, thành phần không khí không đổi nhưng áp suất riêng phần từng chất khí sẽ thay đổi. Ban đầu, áp suất oxy giảm thấp kích thích trung tâm hô hấp tăng hít vào để bù oxy nuôi mô, thở nhanh và sâu. Nhưng sự tăng hít vào lại làm ứ đọng O2 gây ra kiềm hô hấp, cơ thể đáp ứng bằng cách giảm hô hấp lại, dẫn đến thở chậm và yếu. Lên cao 3000-4000m đã bắt đầu biểu hiện các triệu chứng, đến 6000m bắt buộc phải được cung cấp oxy và trên 10.000m thì sự cung cấp oxy cũng không còn tác dụng. Tuy nhiên, bệnh lý này có được sự thích nghi. Những người sống trên núi cao lâu ngày sẽ cải thiện được khả năng hô hấp tốt hơn. Tổn thương lồng ngực Các tổn thương ở lồng ngực rất đa dạng, chẳng hạn như mảng sườn di động gặp trong gãy xương sườn ở 2 vị trí dẫn đến đảo ngược hô hấp: khi hít vào mảng sườn áp sát vào phổi làm thể tích lồng ngực giảm xuống, khi thở ra thì ngược lại. Những người có tình trạng này rất dễ rơi vào suy hô hấp cấp dẫn tới tử vong nhanh. Hen phế quản Là tình trạng phản ứng của cơ thể đối với một tác nhân lạ xâm nhập vào đường hô hấp như lông thú, phấn hoa, bụi,... làm co thắt các cơ ressessen (cơ trơn) gây co hẹp đường thở. Diễn tiến gồm 2 giai đoạn: + Giai đoạn sớm: thường sau 30 phút,chỉ có sự co thắt các cơ trơn để đáp ứng với các tác nhân kích thích gây co hẹp đường hô hấp + Giai đoạn muộn: thường từ 4-8 tiếng, niêm mạc bắt đầu phù nề, quá trình viêm diễn ra, tăng tiết dịch gây ứ tắc trong lòng các đường dẫn khí Ngạt Xảy ra ở chỗ đông người, trong phòng kín, nhiều khói, dưới hầm sâu,..., do giảm tỷ lệ oxy trong thành phần không khí xuống dưới 14%, tăng tỷ lệ CO2 lên 8%. Diễn tiến qua 3 giai đoạn: + Hưng phấn: phân áp oxy giảm kích thích trung tâm hô hấp gây tăng hít vào để lấy thêm oxy, đồng thời kích thích trung tâm vận mạch tăng cung lượng tim, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp. Về sau, do có cả sự ứ CO2 nên tăng cả thì thải ra + Ức chế: các trung tâm hô hấp, vận mạch không đủ khả năng bù trừ, nhịp tim nhanh, nhỏ, khó bắt, thở nhanh nông. Não bắt đầu tổn thương do thiếu oxy cung cấp, có thể xảy ra tình trạng co giật, kích thích, tiêu tiểu không tự chủ, da niêm tím tái,... + Suy sụp toàn thân: tổn thương não không hồi phục, bệnh nhân rơi vào hôn mê với những nhát thở ngáp cá, lâu dần rồi tử vong. Tham khảo
19511521
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20t%C3%A0ng%20Khu%20v%E1%BB%B1c%20%E1%BB%9F%20Wola%20Osowi%C5%84ska
Bảo tàng Khu vực ở Wola Osowińska
Bảo tàng Khu vực ở Wola Osowińska (tiếng Ba Lan: Muzeum Regionalne w Woli Osowińskiej) là một bảo tàng tọa lạc tại Phố 22 tháng 7, làng Wola Osowińska, xã Borki, huyện Radzyński, tỉnh Lubelskie, Ba Lan. Mục tiêu hoạt động của Bảo tàng là thu thập và triển lãm các hiện vật và kỷ vật có liên quan đến lịch sử của Wola Osowińska và lối sống của cư dân vùng nông thôn và khu vực xung quanh. Lịch sử hình thành Bảo tàng Khu vực ở Wola Osowińska được thành lập vào năm 1977 theo khởi xướng của Wacław Tuwalski - chủ tịch lúc bấy giờ của Hội Khu vực ở Wola Osowińska. Trụ sở của Bảo tàng Khu vực là một tòa nhà được xây dựng vào hai năm 1934 và 1935. Từ khi xây dựng đến nay, tòa nhà này lần lượt được dùng làm trụ sở của Trường Tổng hợp ở Wola Osowikaska (hoạt động ở đây cho đến năm 1949), Hội đồng Quốc gia Gromadzka (từ thập niên 1950 đến nửa cuối thập niên 1960), Trung tâm Văn hóa Thành phố và Câu lạc bộ Nông dân (từ năm 1976 đến đầu những năm 2000). Hiện tại, chỉ có Bảo tàng Khu vực hoạt động tại đây. Triển lãm Các bộ sưu tập của Bảo tàng Khu vực ở Wola Osowińska chiếm sáu phòng của tòa nhà trụ sở, bao gồm: công cụ dùng trong nông nghiệp, dụng cụ nhà bếp cũ, đồ nội thất cũ, bản ghi âm những bài hát cổ của Wola Osowińska và khu vực lân cận, bản chép lại những câu chuyện được những cư dân lớn tuổi kể về cuộc sống trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc sống làm việc trong trang viên và các nghi lễ dân gian. Tham khảo Bảo tàng Ba Lan
2940403
https://vi.wikipedia.org/wiki/Orthosia%20macona
Orthosia macona
Orthosia macona là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Orthosia (chi bướm)
3163596
https://vi.wikipedia.org/wiki/Welcome%20to%20New%20York%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29
Welcome to New York (bài hát)
"Welcome to New York" là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm sáng tác người Mỹ Taylor Swift. Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn quảng bá thứ hai trích từ album phòng thu thứ năm của cô, 1989, vào ngày 20 tháng 10 năm 2014. Welcome to New York nhận được hầu hết là các đánh giá tiêu cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc, khi họ chỉ trích phần lời nhạc rập khuôn và buồn tẻ, trong khi nhiều người khác lại gọi bài hát này bắt tai và là "một kiểu bài hát thánh ca bình đẳng mới". Swift quyên góp toàn bộ lợi nhuận của đĩa đơn này cho New York City Department of Education. Bối cảnh sáng tác, phát hành và kết cấu Trong khi bàn bạc về bài hát này cùng E! Online, Swift khẳng định "việc lấy cảm hứng từ một thành phố là điều mà tôi khó có thể diễn tả và so sánh với bất kì nguồn cảm hứng nào mà tôi đã từng trải nghiệm." Cô cũng đồng thời chia sẻ, "Tôi chuyển đến đó cùng với tâm trạng lạc quan và nhìn nhận nó như là nơi có vô số tiềm năng và khả năng. Bạn có thể nghe được điều đó phảng phất trong bài hát này." Cô còn chia sẻ về việc xếp bài hát này đầu tiên trong album "bởi vì New York là nơi quan trọng mà cuộc sống tôi diễn ra trong vòng vài năm trở lại đây. Bạn biết đấy, tôi mơ về việc sống ở New York, tôi bị ám ảnh việc chuyển đến New York và rồi tôi đã thực hiện được điều đó". Câu hát "And you can want who you want/Boys and boys and girls and girls" được xem như là cách mà Swift ủng hộ quyền bình đẳng của cộng đồng LGBT. "Welcome to New York" là một bản synthpop được sáng tác bởi Swift và Ryan Tedder, và được sản xuất bởi chính Swift, Tedder và Noel Zancanella. Bài hát dài 3 phút 32 giây (3:32). Bài hát được phát hành dưới dạng tải nhạc số trên hệ thống iTunes vào ngày 20 tháng 10 năm 2014. Trước lần phát hành kĩ thuật số chính thức, Swift từng hé lộ 30 giây nhạc mẫu của bài hát này trên YouTube. Đánh giá chuyên môn "Welcome to New York" ban đầu nhận được nhiều đánh giá tiêu cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc. Jim Farber từ New York Daily News chỉ trích bài hát này khi cho rằng "Khác với các bài hát ca ngợi thành phố ta trước đây, bài hát của Swift lại thiếu tính đại chúng và phản biện của những bài hát khác bởi Sinatra, Billy Joel hay Alicia Keys/Jay Z." Jen Carlson từ Gothamist gọi đây là "bài ca về NYC tồi nhất mọi thời đại." Trên tờ Headline Planet, Brian Cantor chỉ trích gay gắt bài hát này vì tính "nhạt nhẽo, rời rạc, sáng tác sáo rỗng... chỉ rập khuôn nói về cuộc sống nơi phố thị." Tạp chí Music Times cho rằng "Bài hát này quá rực rỡ và lạc quan, gần như không vì lý do gì cả. Swift, người từng được biết đến bởi chiều sâu cá nhân trong việc sáng tác, nay lại tỏ ra hào nhoáng trước những chuyện tình tan vỡ hay những bất đồng trước đây để bước chân đến New York." Trên Mic Music, Tom Barnes cho rằng bài hát có "phần ca từ thật điên rồ, còn phần nhạc thì buồn tẻ." Julianne Escobedo Shepherd từ Jezebel cảm thấy Swift như đang "đùa cợt vào thời điểm này." Esther Zuckerman của Entertainment Weekly chỉ ra rằng bài hát "ca tụng cả thành phố... nhưng chỉ lướt qua bề mặt." Dù vậy, bài hát nhận được nhiều phản hồi khả quan hơn trong tuần lễ phát hành album. Forrest Wickman từ Slant Magazine nhìn nhận bài hát như "một bản thánh ca synth-pop cao vút mà bạn có thể tưởng tượng được hát bởi Katy Perry." Trong khi Daniel D’Addario từ Time khẳng định đây là "một kiểu bài hát thánh ca bình đẳng mới", thì Nate Scott từ USA Today tiếp tục ca ngợi bài hát là "bản thánh ca New York tiếp theo". Jason Lipshutz từ Billboard cho bài hát 3/5 sao và đề cao tính "tự nhiên" của bài hát, đồng thời so sánh nó với các bài hát mở đầu album trước đây của Swift. Diễn biến thương mại Bài hát đạt đến vị trí thứ 48 trên Billboard Hot 100, trở thành bài hát thứ 62 của Swift tại đó. Tại Hot Digital Songs, bài hát đạt vị trí thứ 5 với 84,000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu phát hành. Tại khu vực châu Âu, bài hát có nhiều tín hiệu khả quan hơn, khi đạt đến vị trí thư 6 tại New Zealand, thứ 16 tại Hungary, thứ 19 trên Canadian Hot 100, thứ 21 tại Tây Ban Nha, thứ 23 tại Úc, thứ 27 tại Đan Mạch và vị trí thứ 39 tại Anh Quốc. Những người thực hiện Đội ngũ tham gia sản xuất 1989 dựa trên phần bìa ghi chú. Taylor Swift – hát chính, người viết bài hát, nhà sản xuất Ryan Tedder - nhà sản xuất, thu âm, người viết bài hát, giọng nền, dương cầm, juno Noel Zancanella - nhà sản xuất, lập trình trống, bộ tổng hợp Smith Carlson - thu âm Eric Eylands - trợ lý thu âm Matthew Tryba - trợ lý thu âm Serban Ghenea – phối khí John Hanes – trợ lý phối khí Tom Coyne – chủ nhiệm Xếp hạng Lịch sử phát hành Tham khảo Liên kết ngoài Bài hát năm 2014 Bài hát về New York Bài hát sản xuất bởi Noel Zancanella Bài hát sản xuất bởi Ryan Tedder Bài hát viết bởi Ryan Tedder Bài hát viết bởi Taylor Swift Bài hát của Taylor Swift Bài hát về Hoa Kỳ Bài hát synthpop
2839028
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trathala%20ocala
Trathala ocala
Trathala ocala là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Trathala
19522457
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C4%83n%20d%E1%BA%AFt
Chăn dắt
Chăn dắt (Herding) là hành động tập hợp các vật nuôi (thông thường là gia súc/mục súc) riêng lẻ lại với nhau thành một nhóm (bầy đàn), duy trì nhóm và di chuyển nhóm từ nơi này sang nơi khác hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của chúng. Việc chăn dắt gia súc có thể đề cập đến quá trình các loài động vật hình thành bầy đàn trong tự nhiên hoặc sự can thiệp của con người tạo thành bầy đàn trong đó con người là chủ, là thủ lĩnh và dẫn đàn vì một số mục đích quản lý của con người trong các hoạt động chăn thả. Trong khi giáo dân mộ đạo sử dụng thuật ngữ "chăn dắt" hay chăn chiên để mô tả sự can thiệp này của con người để dẫn dắt, hướng đạo cho con người. Đại cương Một số loài động vật tụ tập thành đàn theo bản năng. Một nhóm động vật chạy trốn kẻ săn mồi sẽ thể hiện hành vi bầy đàn để được bảo vệ cho từng cá thể, trong khi một số động vật ăn thịt, chẳng hạn như chó sói và chó có khả năng quây, lùa gia súc theo bản năng bắt nguồn từ bản năng săn mồi nguyên thủy của chún. Bản năng ở chó chăn gia súc (Herding dog) và khả năng huấn luyện có thể được đo lường ở các bài kiểm tra chăn nuôi không cạnh tranh. Những con chó thể hiện bản năng chăn gia súc cơ bản có thể được huấn luyện để hỗ trợ việc chăn gia súc và cạnh tranh trong các cuộc thử nghiệm chăn gia súc và thả giống chó. Cá nhà táng cũng đã được quan sát thấy hợp sức để quây con mồi lại trong một hành vi phối hợp săn mồi. Chăn dắt được sử dụng trong chăn nuôi và chăn thả trong ngành nông nghiệp để quản lý động vật đã được thuần hóa. Việc chăn dắt gia súc có thể được thực hiện bởi người hoặc động vật được huấn luyện như chó chăn gia súc (chó chăn cừu/chó chăn bò) điều khiển sự di chuyển của gia súc dưới sự chỉ đạo của con người. Những người có nghề nghiệp chăn nuôi hoặc thuần khiển động vật thường được thêm đàn vào tên của động vật mà họ đang chăn để mô tả nghề nghiệp của họ (chăn cừu, chăn ngựa, chăn bò, chăn trâu). Một môn thể thao cạnh tranh đã phát triển ở một số quốc gia nơi kỹ năng kết hợp của con người và con chó chăn gia súc được kiểm tra và đánh giá trong một "thử nghiệm", chẳng hạn như thử nghiệm chó chăn cừu. Các loài động vật như cừu, lạc đà, bò yak và dê chủ yếu được nuôi để cung cấp sữa, thịt và các sản phẩm khác cho những người chăn nuôi và gia đình của họ và đây cũng là những con vật thường xuyên được chăn dắt trong các đàn lớn. Di chuyển đàn thú hay thả rông và dẫn đàn thú di chuyển là hoạt động dắt gia súc đi trên một quãng đường dài, thường là đi bộ và thường có sự trợ giúp của chó đã có một lịch sử rất lâu đời ở Thế giới Cổ đại. Truy tầm vật nuôi là quá trình thu thập vật nuôi bị thất lạc, lạc bầy thường liên quan đến gia súc, cừu hoặc ngựa, nhưng cũng có thể bao gồm dê, lạc đà, trâu hoặc các động vật khác, du canh và du mục, một trào lưu chăn nuôi theo mùa giữa đồng cỏ cố định vào mùa hè và mùa đông. Ở các vùng núi nó ngụ ý sự di chuyển giữa các đồng cỏ cao hơn vào mùa hè và các thung lũng thấp hơn vào mùa đông. Tham khảo Malone, John William. An Album of the American Cowboy. New York: Franklin Watts, Inc., 1971. Allmendinger, Blake. The Cowboy: Representations of Labor in an American Work Culture. (1992). 213 pp. Alonzo, Armando C. Tejano Legacy: Rancheros and Settlers in South Texas, 1734–1900 (1998) online edition Atherton, Lewis E. The Cattle Kings (1961), influential interpretive study Carlson, Paul H., ed. The Cowboy Way: An Exploration of History and Culture. (2000). 236 pp. online edition Carlson, Paul Howard, ed. The Cowboy Way: An Exploration of History and Culture (2000) excerpt and text search Cattle Raisers Association of Texas. History of the Cattlemen of Texas. (1914, reprint 1991). 350 pp. Clayton, Lawrence; Hoy, Jim; and Underwood, Jerald. Vaqueros, Cowboys, and Buckaroos. (2001) 274 pp. Collins, Hubert E. Storm and Stampede on the Chisholm (1928, reprint 1998) online edition Corkin, Stanley. "Cowboys and Free Markets: Post-World War II Westerns and U.S. Hegemony," Cinema Journal, Vol. 39, No. 3 (Spring, 2000), pp. 66–91, focus on Howard Hawks's "Red River" (a cattle drive) and John Ford's "My Darling Clementine" (on Tombstone); in JSTOR Corkin, Stanley. Cowboys as Cold Warriors: The Western and U.S. History. (2004). 273 pp. Dale E. E. The Range Cattle Industry (1930) Dary, David. Cowboy Culture: A Saga of Five Centuries. (1981). 336 pp. excerpt and text search Dippie, Brian W., ed. Charlie Russell Roundup: Essays on America's Favorite Cowboy Artist. (1999). 328 pp. Dobie, J. Frank Cow People (1964) excerpt and text search Draper, Robert. "21st -Century Cowboys: Why the Spirit Endures." National Geographic, December 2007, pp. 114–135 Dykstra, Robert R., and Jo Ann Manfra. "The Circle Dot Cowboys at Dodge City: History and Imagination in Andy Adams's The Log of a Cowboy," Western Historical Quarterly 33 (2002): 19–40, Evans, Simon; Carter, Sarah; and Yeo, Bill, eds. Cowboys, Ranchers, and the Cattle Business: Cross-Border Perspectives on Ranching History. (2000). 232 pp. Frantz, Joe B., and Julian E. Choate. The American Cowboy, The Myth and the Reality (1955) Gard, Wayne. The Chisholm Trail (1969), the standard scholarly history Hawks, Howard, director. Red River (1948), influential Hollywood film starring John Wayne and Montgomery Clift Iverson, Peter. When Indians Became Cowboys: Native Peoples and Cattle Ranching in the American West (1997) excerpt and text search Jordan, Terry. North American Cattle-Ranching Frontiers: Origins, Diffusion, and Differentiation (1993) online edition Jordan, Terry. Trails to Texas: Southern Roots of Western Cattle Ranching (1981) Keese, G. Pomeroy. "Beef," Harper's new monthly magazine. July 1884 vol. 69, Issue 410 pp. 292–302 online, strong on economic themes Lanning, Jim and Lanning, Judy, eds. Texas Cowboys: Memories of the Early Days. (1984). 233 pp. Logsdon, Guy, ed. "The Whorehouse Bells Were Ringing" and Other Songs Cowboys Sing. (1989). 388 pp. Massey, Sara R. Texas Women on the Cattle Trails (2006) excerpt and text search Massey, Sara R., ed. Black Cowboys of Texas. (2000). 361 pp. excerpt and text search McCoy, Joseph G. Historic Sketches of the Cattle Trade of the West and Southwest (1874, reprint 1940). McCoy opened the first railhead to large shipments of Texas cattle in 1867. Osgood, E. S. The Day of the Cattleman. (1929) excerpt and text search Ridings, S.P. Chisholm Trail (1936) Rollins, Philip Ashton. The Cowboy: An Unconventional History of Civilization on the Old-Time Cattle Range. (1922, reprint 1997). 402 pp. Rossel, John. "The Chisholm Trail," Kansas Historical Quarterly (1936) Vol. 5, No. 1 pp 3–14 online edition Saunders, George W. et al. The Trail Drivers of Texas, ed. by J. Marvin Hunter (1925, reprint 1985), by far the most valuable source for individual experiences on the long drives. excerpts and text search Savage, William W., Jr. The Cowboy Hero: His Image in American History and Culture. (1979). 179 pp. Skaggs, Jimmy. The Cattle Trailing Industry: Between Supply and Demand, 1866–1890 (1973), pathbreaking economic study Slatta, Richard W. Comparing Cowboys and Frontiers. (1997). excerpt and text search Slatta, Richard W. Cowboys of the Americas. (1990). Smith, Andrew Brodie. Shooting Cowboys and Indians: Silent Western Films, American Culture, and the Birth of Hollywood. (2003). 230 pp. Stanley, David and Thatcher, Elaine, eds. Cowboy Poets and Cowboy Poetry. (2000) Tompkins, Jane. West of Everything: The Inner Life of Westerns. (1992). Vernam, Glenn R. Man on Horseback New York: Harper & Row 1964 Walker, Don D. Clio's Cowboys: Studies in the Historiography of the Cattle Trade. (1981). Webb, Walter P. The Great Plains (1931); Study Guide Hartnagle-Taylor, Jeanne Joy; Taylor, Ty (2010). Stockdog Savvy. Alpine Publications. ISBN 978-1-57779-106-5. Perkins, Sid (ngày 23 tháng 2 năm 2010). "Sperm whales may team up to herd prey". Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2016. Renna, Christine Hartnagle (2009). Herding Dogs. Kennel Club Books. ISBN 978-1-59378-737-0. Beattie, William A., Beef Cattle Breeding & Management, Popular Books, 1990, ISBN 0-7301-0040-5 Coupe, Sheena (ed.), Frontier Country, Vol. 1, Weldon Russell Publishing, Willoughby, 1989, ISBN 1-875202-01-3 Andersen, John, Bagmen Millionaires, Viking O'Neil, Ringwood, 1983, ISBN 0-670-90062-1 Verite Ryily Collins, page 33, Drovers' Dogs, 999 and other working dogs, WSN, 2005. ISBN 1858290643 Gray, Robert N (2003). The Sixties: Expansion, Exploration and Polarization. Dougherty Press. ASIN B0029YEAGA. Michael Pearson; Jane Lennon (2010). Pastoral Australia: Fortunes, Failures and Hard Yakka: A Historical Overview 1788–1967. CSIRO publishing. p. 104. ISBN 9780643096998. Hartley, Marie; Ingilby, Joan (1968). Life and Tradition in the Yorkshire Dales. London: J. M. Dent & Sons Ltd. ISBN 0-498-07668-7. Jones, Schuyler. "Transhumance Reconsidered". Journal of the Royal Anthropological Institute, London, 2005. Jones, Schuyler. Men of Influence: Social Control & Dispute Settlement in Waigal Valley, Afghanistan. Seminar Press, London & New York, 1974. Liên kết ngoài U.S. Department of Agriculture Discussion on Asia U.S. Department of Agriculture Discussion on Africa Transhumance and 'The Waiting Zone' in North Africa Limited traditional transhumance in Australia Pastoralism Short mention of transhumance in North America Swiss land registry of alpine pastures (German) La transhumancia in Madrid Spain The transhumance from Schnals Valley (Italy) to Ötz Valley (Austria) Interview with Lionel Martorell, one of the last transhumant pastors in Eastern Spain Encyclopedia of Oklahoma History and Culture – Cattle Drives Illinois Cattle Drives Shawnee Trail Oklahoma Digital Maps: Digital Collections of Oklahoma and Indian Territory Chăn nuôi Động vật di trú Chăn thả
2637812
https://vi.wikipedia.org/wiki/Osteosema%20praeampla
Osteosema praeampla
Osteosema praeampla là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Eucyclodes
2940629
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trichoptya%20pallida
Trichoptya pallida
Trichoptya pallida là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Trichoptya
2840095
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anomiopus%20foveicollis
Anomiopus foveicollis
Anomiopus foveicollis là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae). Chú thích Liên kết ngoài Anomiopus
2931680
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudohadena%20immunis
Pseudohadena immunis
Pseudohadena immunis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Pseudohadena
2623017
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hydriomena%20polyxena
Hydriomena polyxena
Hydriomena polyxena là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Hydriomena
14348438
https://vi.wikipedia.org/wiki/Machino%20Shuto
Machino Shuto
Shuto Machino (sinh ngày 30 tháng 9 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Sự nghiệp câu lạc bộ Shuto Machino đã từng chơi cho Yokohama F. Marinos. Tham khảo Sinh năm 1999 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản Cầu thủ bóng đá Giravanz Kitakyushu Cầu thủ bóng đá Yokohama F. Marinos Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
14183782
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tetsuto%20Hiroshi
Tetsuto Hiroshi
Hiroshi Tetsuto (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1982) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Sự nghiệp câu lạc bộ Hiroshi Tetsuto đã từng chơi cho Saga Nanyo, Sagan Tosu và Matsumoto Yamaga FC. Tham khảo Sinh năm 1982 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
13621939
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matsushita%20Yuki
Matsushita Yuki
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản thi đấu cho Thespakusatsu Gunma. Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ Cập nhật đến ngày 23 tháng 2 năm 2018. Tham khảo Liên kết ngoài Profile at Thespakusatsu Gunma Sinh năm 1981 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản Cầu thủ bóng đá J1 League Cầu thủ bóng đá J2 League Cầu thủ bóng đá Sanfrecce Hiroshima Cầu thủ bóng đá Avispa Fukuoka Cầu thủ bóng đá Kawasaki Frontale Cầu thủ bóng đá Thespakusatsu Gunma Cầu thủ bóng đá Yokohama FC Tiền vệ bóng đá
19673599
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chinnarat%20Siriphongchawalit
Chinnarat Siriphongchawalit
Chinnarat Siriphongchawalit (tiếng Thái: ชินรัฐ สิริพงษ์ชวลิต, sinh ngày 28 tháng 11 năm 1993) còn có nghệ danh là Mike (ไมค์), là một diễn viên người Thái Lan. Anh bắt đầu được biết đến qua vai phụ Toey trong phim Our Skyy (2018), một bộ phim truyền hình được sản xuất bởi GMMTV. Tiểu sử Chinnarat Siriphongchawalit sinh ngày 28 tháng 11 năm 1993 tại Bangkok, Thái Lan. Anh tốt nghiệp Đại học Kasetsart khoa kinh tế. Năm 2018, anh bắt đầu sự nghiệp diễn xuất và ra mắt làng giải trí Thái Lan lần đầu tiên với vai diễn phụ trong phim Our Skyy (2018). Sau đó, Mike đã ký hợp đồng với GMMTV. Anh dần nhận được sự quan tâm của khán giả khi góp mặt trong một số phim BL nổi tiếng như Theory of Love (2019) và 2gether: The Series (2021). Hiện nay, anh đang hoạt động dưới sự quản lý của GMMTV. Chương trình tham gia Phim truyền hình Điện ảnh Truyền hình thực tế Video âm nhạc Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1993 Nhân vật còn sống Người Thái Lan Nam diễn viên Thái Lan Nghệ sĩ GMMTV
2805377
https://vi.wikipedia.org/wiki/Homaspis%20kraussei
Homaspis kraussei
Homaspis kraussei là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Homaspis
2838472
https://vi.wikipedia.org/wiki/Syrphoctonus%20flavidus
Syrphoctonus flavidus
Syrphoctonus flavidus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Syrphoctonus
2669641
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xanthorhoe%20infumata
Xanthorhoe infumata
Xanthorhoe infumata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Xanthorhoe
3376543
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%B4%20Vi%E1%BA%BFt%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20%28C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20Donetsk%29
Xô Viết Nhân dân (Cộng hòa Nhân dân Donetsk)
Xô Viết Nhân dân (Народный Совет), tên cũ là Xô Viết tối cao hoặc Hội đồng Cộng hòa là cơ quan lập pháp của nước Cộng hòa Nhân dân Donetsk. Xô Viết Nhân dân bao gồm 100 ghế đại biểu, được bầu lại cứ 4 năm một lần. Danh sách Chủ tịch Xô Viết Nhân dân Chú thích Lập pháp độc viện
2916496
https://vi.wikipedia.org/wiki/Autographa%20obsoleta
Autographa obsoleta
Autographa obsoleta là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Autographa
14270202
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anand%20%28phim%29
Anand (phim)
Anand  là một phim điện ảnh chính kịch được lên kịch bản và đạo diễn bởi Hrishikesh Mukherjee cùng phần lời thoại do Gulzar viết. Phim có sự xuất hiện của Rajesh Khanna cùng một số diễn viên phụ như Amitabh Bachchan, Sumita Sanyal, Ramesh Deo and Seema Deo. Phim dành được một số giải thưởng lớn, bao gồm giải Filmfare Award cho Phim hay nhất vào năm 1972. Vào năm 2013, phim được xuất hiện trong cuốn sách 100 Films Phải xem trước khi chết của nhà phê bình điện ảnh Ấn Độ Anupama Chopra. Đây là một trong số 17 phim thành công của diễn viên Rajesh Khanna từ 1969 đến 1971. Đây cũng là thành công nổi bật đầu tiên của diễn viên Amitabh Bachchan. Anand có nét ảnh hưởng từ một phim của đạo diễn người Nhật Akira Kurosawa tên Ikiru (1952). Vào năm 1998 Anand đã được làm lại bẳng Tiếng Malayalam với tên Chitrashalabham. Cốt truyện Phin mở đầu với một buổi ăn mừng của Dr. Bhaskar, một bác sĩ vừa hoàn thành và xuất bản thành công quyển sách nhan đề Anand. Ông là một chuyên gia ung thư và sau phần diễn văn chúc mừng, ông tiết lộ quyển sách không phải là một tác phẩm văn học mà là một quyển nhật kí ghi nhận lại những trải nghiệm với một người thật tên là Anand. Những thước phim đưa hồi ức của người bác sĩ về với hình ảnh của một nhà ung thư học trẻ tuổi, cố gắng chữa trị không công cho người nghèo nhưng anh thường nản lòng vì sự thật rằng anh không thể cứu chữa toàn bộ những căn bệnh trên thế giới.Anh dần trở nên bi quan khi nhìn những sự đau đớn, bệnh tật và nghèo túng xung quanh anh. Anh là một người thẳng thắn và không bao giờ chịu chữa người giàu. Kulkarni bạn anh lại chọn con đường khác. Anh đi chữa trị những kẻ giàu có, hoang tưởng mình mắc những căn bệnh lạ, rồi anh lấy tiền giúp người nghèo. Một ngày Kulkarni giới thiệu Bhaskar tới Anand, một người bị ung thư bạch huyết. Anand là người luôn tươi vui và dù biết rằng mình không thể sống được quá sáu tháng, anh vẫn mang trong mình một thái độ lãnh đạm và luôn khiến những người xung quanh vui vẻ. Bản tính tích cực của Anand đã xoa dịu đi bản tính tương phản của Bhaskar và họ trở thành bạn thân. Diễn viên Rajesh Khanna vai Anand Sehgal, một bệnh nhân ung thư không còn sống được bao lâu nhưng vẫn lạc quan và sẵn sàng trước cái chết. Amitabh Bachchan vai Dr. Bhaskar Banerjee (còn gọi là Babu Moshai), một bác sĩ và là bạn của Anand, người bi quan với bệnh tình của Anand, không hiểu vì sao Anand có thể tươi vui dù biết đã cận kề cái chết. Sumita Sanyal vai Renu, bệnh nhân trước đây và là người yêu của Bhaskar Ramesh Deo vai Dr. Prakash Kulkarni Seema Deo vai Suman Kulkarni Lalita Pawar vai Matron Durga Khote vai Renu's mother Johnny Walker vai Isa Bhai Asit Sen vai Bhaskar's patient Dara Singh vai Pahelwan Brahm Bhardwaj vai Mauni Baba Giải thưởng Giải thưởng Điện ảnh Quốc gia 1971 Phim bằng tiếng Hindi hay nhất: Hrishikesh Mukherjee, N.C. Sippy Giải thưởng Filmfare 1972: Phim hay nhất: Hrishikesh Mukherjee, N.C. Sippy 1972: Diễn viên nam chính xuất sắc nhất: Rajesh Khanna 1972: Diễn viên phụ nam xuất sắc nhất: Amitabh Bachchan 1972: Lời thoại hay nhất: Gulzar 1972: Chỉnh sửa hay nhất: Hrishikesh Mukherjee 1972: Biên kịch xuất sắc nhất: Hrishikesh Mukherjee Tham khảo Phim năm 1971 Phim về bệnh ung thư Phim Ấn Độ
19478308
https://vi.wikipedia.org/wiki/SSAK3
SSAK3
SSAK3 (Hangul: 싹쓰리, Romaja: ssagsseuli, cách điệu SSAK3) là một nhóm nhạc nam nữ dự án mùa hè được sản xuất bởi chương trình thực tế Hangout with Yoo của MBC. Họ bao gồm 3 thành viên có sử dụng nghệ danh lần lượt là Yoo Jae-suk (U-Doragon), Lee Hyo-ri (Linda G) và Bi Rain (B-Ryong). Họ chính thức ra mắt trên chương trình Show! Music Core vào ngày 25 tháng 7 năm 2020 cho đến khi thông báo kết thúc nhóm nhạc dự án vào ngày 15 tháng 8 năm 2020. Lịch sử Năm 2020, chương trình thực tế Hangout with Yoo của MBC cho ra mắt một nhóm nhạc hỗn hợp nam nữ mang tên SSAK3 do Yoo Jae-suk thành lập (với Lee Hyori và Rain). Vào ngày 31 tháng 7 năm 2020, MBC đã tuyên bố rằng số tiền thu được từ việc bán album của SSAK3 sẽ được quyên góp cho các tổ chức từ thiện. Thành viên Tham khảo Nhóm nhạc nam nữ Hàn Quốc
2928519
https://vi.wikipedia.org/wiki/Platysenta%20imitata
Platysenta imitata
Platysenta imitata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Platysenta
2798327
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eridolius%20curtisii
Eridolius curtisii
Eridolius curtisii là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Eridolius
19167847
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andr%C3%A9s%20Cano
Andrés Cano
Andrés Cano là một chính khách người Mỹ, người được bầu vào Hạ viện Arizona trong cuộc bầu cử lập pháp bang 2018 Ông đại diện cho khu vực 3 là thành viên Đảng Dân chủ. Bầu cử Cano là người có số phiếu cao nhất trong cuộc bầu cử sơ bộ Dân chủ vào ngày 28 tháng 8 năm 2018, mở đường cho ứng cử viên của ông là một ứng cử viên cho một trong hai ghế mở trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 11. Hạ viện Arizona Nhiệm vụ của Ủy ban của Cano bao gồm Ủy ban Cách thức và Phương tiện Nhà, và Ủy ban Tài nguyên, Năng lượng và Nước. Tham khảo Liên kết ngoài Chính khách đồng tính nam Chính khách Mỹ thế kỷ 21
2573071
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pterolophia%20detersa
Pterolophia detersa
Pterolophia detersa là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Pterolophia
19763243
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ali%20Adde
Ali Adde
Ali Adde (, ) là một thị trấn ở Djibouti. Nó nằm cách thủ đô Djibouti 69 km về phía nam với độ cao 530 mét so với mực nước biển. Thị trấn có một trung tâm của UNHCR với 12.363 trại tị nạn tính đến năm 2015. Nó nằm trên một bồn địa rộng được bao quanh bởi những ngọn núi granit ở một số phía. Trung tâm được điều hành bởi UNHCR và hoạt động của nó được tài trợ bởi các nhà tài trợ nước ngoài. Tổng quan Thị trấn nằm trên Quốc lộ 5. Các thị trấn và làng mạc gần đó bao gồm Ali Sabieh, Holhol, Dewele, Assamo và Guisti. Lịch sử Khu định cư Ali Adde có từ vài thế kỷ trước, và là một trong những thị trấn lâu đời nhất ở Djibouti sau Tadjoura và Obock. Tên gọi của nó theo nghĩa đen có nghĩa là "nơi trắng hoặc trong" trong ngôn ngữ Phi-Á Somali. Theo một truyền thuyết cũ, khu vực ngày nay là Ali Adde được bao phủ bởi cây cối, với một wadi băng qua khu vực này. Ban đầu là một khu định cư nhỏ, thị trấn phát triển dưới thời trị vì của Vương quốc Hồi giáo Ifat và Vương quốc Hồi giáo Adal. Sau đó, nó trở thành một phần của chính quyền bảo hộ Somaliland thuộc Pháp vào nửa đầu thế kỷ 20. Vào tháng 12 năm 1942, khoảng 1.000 quân Anh và Pháp Tự do đã chiếm đóng thị trấn. Ali Adde có một pháo đài cổ gần Wadi Danan, được xây dựng bởi Quân đội Pháp vào thế kỷ 19. Khí hậu Ali Adde có khí hậu khô hạn nóng (BWh) theo hệ thống Köppen-Geiger. Nhân khẩu Tính đến năm 2018, dân số của Ali Adde được ước tính là 3.400 người. Cư dân thị trấn thuộc nhiều nhóm dân tộc chủ yếu nói các ngôn ngữ Phi-Á, với bộ tộc Somali Issa chiếm đa số. Trước khi trại UNHCR được mở cửa, người dân địa phương bao gồm những người chăn nuôi du mục, chủ yếu chăn nuôi lạc đà và dê. Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, một làn sóng người tị nạn đã làm thay đổi nhân khẩu học của khu vực một cách đáng kể. Tham khảo Khu dân cư ở Djibouti Vùng Ali Sabieh Liên kết ngoài ‘Ali‘adde, Djibouti
3196402
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20chim%20khoang
Cá chim khoang
Cá chim khoang hay cá cánh dơi bạc, cá chim dơi bạc (Danh pháp khoa học: Monodactylus argenteus) là một loài cá trong họ Monodactylidae. Nó còn có tên gọi khác là cá chim trắng, cá chim dơi vàng, cá chim dơi bạc, cá kim xương, cá ngân xương. Chú thích Tham khảo Riehl R. & Baensch H. A. Mergus Aquarien Atlas, tr. 804 (2002) 14. edt. A Động vật được mô tả năm 1758 Họ Cá chim khoang Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên
2763450
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phorocerostoma%20setiventre
Phorocerostoma setiventre
Phorocerostoma setiventre là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Phorocerostoma
2844095
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onthophagus%20lunatus
Onthophagus lunatus
Onthophagus lunatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae). Chú thích Liên kết ngoài L
19350519
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%AD%20Chasles%20%28%C4%91%E1%BB%99ng%20h%E1%BB%8Dc%29
Định lí Chasles (động học)
Trong động học, định lý Chasles, hay định lý Mozzi-Chasles, phát biểu rằng chuyển động tổng quát của vật thể rắn có thể được phân tích bởi một chuyển động tịnh tiến dọc theo một đường thẳng (được gọi là trục vít hoặc trục Mozzi) cộng với một chuyển động quay xung quanh một trục song song hoặc trùng với đường thẳng đó. Lịch sử Phép chứng minh rằng chuyển động trong không gian có thể được phân tích thành một chuyển động quay xung quanh và một chuyển động trượt dọc theo một đường thẳng được cho là bởi nhà thiên văn học và toán học Giulio Mozzi (1763), thực tế, trục vít được gọi là asse di Mozzi ở Ý. Tuy nhiên, hầu hết các sách giáo khoa lại đều đề cập đến một công trình tương tự sau đó bởi Michel Chasles từ năm 1830. Một số người đương thời với M. Chasles đã thu được kết quả tương đương hoặc tương tự trong khoảng thời gian đó, bao gồm G. Giorgini, Cauchy, Poinsot, Poisson và Rodrigues. Một ghi chép về phép chứng minh năm 1763 của Giulio Mozzi và đôi điều về lịch sử của nó có thể được tìm thấy ở đây. Chứng minh Mozzi để ý thấy rằng một vật rắn đang trải qua trước tiên là một chuyển động quay quanh một trục đi qua khối tâm và sau đó là một chuyển động tịnh tiến D theo hướng tùy ý. Bất kỳ chuyển động vật rắn nào cũng có thể được thực hiện theo cách này do một định lý bởi Euler về sự tồn tại của một trục quay. Chuyển động D của khối tâm có thể được phân tích thành các thành phần song song và vuông góc với trục. Thành phần vuông góc (và song song) tác động lên tất cả các điểm của vật rắn nhưng Mozzi cho thấy đối với một số điểm, chuyển động quay trước đó tác dụng lên nó chính xác trực đối với thành phần vuông góc, vì vậy những điểm đó được dịch song song với trục quay. Những điểm này nằm trên trục Mozzi mà qua đó chuyển động vật rắn có thể được thực hiện thông qua một chuyển động xoắn vít. Một chứng minh cơ bản khác về định lí Mozzi-Chasles đã được đưa ra bởi ET Whittaker vào năm 1904. Giả sử A được biến thành B. Whittaker gợi ý rằng đường AK được chọn song song với trục của chuyển động quay đã cho, với K là chân đường vuông góc với B. Chuyển động xoắn vít thích hợp phải có một trục song song với AK sao cho K được di chuyển đến B. Phương pháp này tương ứng với hình học phẳng Euclide trong đó một tổ hợp của phép quay và tịnh tiến có thể được thay thế bằng cách xoay quanh một tâm thích hợp. Theo cách nói của Whittaker, "Một chuyển động quay quanh bất kỳ trục nào thì tương đương với một chuyển động quay qua cùng một góc quanh bất kỳ trục nào song song với nó, cộng với một chuyển động tịnh tiến thuần túy theo hướng vuông góc với trục." Tham khảo Đọc thêm Benjamin Peirce (1872) A System of Analytical Mechanics, III. Combined Motions of Rotation and Translation, especially § 32 and § 39, David van Nostrand & Company, link from Internet Archive Hình học không gian Chuyển động học Định lý toán học
3245122
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BA%BFu%20Trang%20Du%E1%BB%87%20Ho%C3%A0ng%20h%E1%BA%ADu
Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu
Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là Từ Ý Hoàng thái hậu (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là đích mẫu của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Minh Anh Tông, chồng bà được hậu thế đánh giá là một vị vua chung thủy, có tình nghĩa, nhất là đối với người vợ đầu tiên của mình. Dù sau này bà có trở nên bệnh tật, tàn phế nhưng Minh Anh Tông vẫn giữ ngôi Hoàng hậu cho bà và đối xử với bà càng thâm tình. Thậm chí, trước khi ra đi ông còn hạ lệnh hợp táng cùng bà trong cùng một lăng mộ. Tuy mang thân phận đích chánh cung tối cao, nhưng bà không hạ sinh được một Hoàng tử nào để kế vị, cũng là Hoàng hậu đầu tiên của nhà Minh không sinh hạ được Hoàng tự. Tiểu sử Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu mang họ Tiền (錢氏), sinh ngày 29 tháng 6 (âm lịch) năm đầu Tuyên Đức, nguyên quán ở Hải Châu. Tuy ghi chép gia cảnh hàn vi, nhưng "hàn vi" của nhà quan trường so với nhà bình dân học vụ thì cũng rất khác biệt. Ông cố nội là Tiền Chỉnh (钱整), phục vụ Minh Thành Tổ khi còn là Yên vương, nhậm "Yên Sơn hộ vệ Phó thiên hộ", ông nội Tiền Thông (钱通) làm quan đến "Kim Ngô Hữu vệ Chỉ huy sứ", cha bà là Đô đốc đồng tri Tiền Quý (錢貴), một tước quan võ hàng Chính nhị phẩm, từng nhiều lần cùng Thành Tổ và Minh Tuyên Tông tòng giá Bắc chinh. Vào thời điểm Tiền hậu trưởng thành thì Tiền Quý đã là "Trung phủ Đô đốc đồng tri". Năm Chính Thống thứ 7 (1442), mùa xuân, Tiền thị thông qua tuyển mỹ nhập cung, được Trương Thái hoàng thái hậu chọn làm Hoàng hậu. Khi đó Anh Tông 15 tuổi, còn Tiền thị 16 tuổi. Minh Anh Tông là Hoàng đế đầu tiên của nhà Minh đăng cơ khi tuổi còn nhỏ, khi chỉ vừa 9 tuổi. Do vậy, vị thê tử nguyên phối của ông chính là Hoàng hậu chính thức đầu tiên, không phải do sách phong từ vị trí Thái tử phi hay Vương phi hoặc tần phi. Bà nội của Anh Tông, Trương Thái hoàng thái hậu là một người phụ nữ kiệt xuất, khi bà giúp chồng Minh Nhân Tông Chu Cao Sí giữ vững vị trí Thái tử, phò trợ con trai Minh Tuyên Tông và giờ là cháu trai. Từ vị trí của mình, bà biết rõ vị trí Hoàng hậu có ảnh hưởng đến thế nào đối với Hoàng đế, vì vậy việc tuyển chọn cháu dâu do đó cũng rất tỉ mỉ. Ngày 3 tháng 5, Anh quốc công Trương Phụ làm "Chính sử", Thiếu sư Binh Bộ thượng thư, kiêm Hoa Cái điện Đại học sĩ Dương Sĩ Kì (杨士奇) làm "Phó sử", cầm tiết đến Tiền phủ hành Nạp thái và Vấn danh lễ. Ngày 7 tháng 5, Thành quốc công Chu Dũng (朱勇) làm "Chính sử", Thiếu bảo Lễ bộ Thượng thư kiêm Võ Anh điện Đại học sĩ Dương Phổ (杨溥), Lại bộ thượng thư Quách Lạt làm "Phó sử", cầm tiết lại đến Tiền phủ hành Nạp cát, Nạp huy, Cáo kỳ lễ. Ngày 19 tháng 5, Anh quốc công Trương Phụ làm "Chính sử", Thiếu sư Binh Bộ thượng thư, kiêm Hoa Cái điện Đại học sĩ Dương Sĩ Kì, Hộ bộ Thượng thư Vương Tá (王佐) làm "Phó sử", suất lĩnh nghi trượng đại nhạc đặt sách bảo Hoàng hậu tại Long đình trước mặt văn võ bá quan, lại đến Tiền phủ hành phụng nghênh lễ. Tại một buổi lễ long trọng, nơi văn võ bá quan và nội ngoại mệnh phụ đang khấu đầu, Tiền thị thân vận "Cửu long Tứ phượng quan", thân vận "Hồng đại tụ y y", "Hồng la trường quần", vai khoác "Hồng bối tử hồng hà bí", nghiễm nhiên nhập Tử cấm thành trở thành Hoàng hậu. Hoàng hậu được sủng ái Minh Anh Tông có được người vợ thông tuệ, hết mực nết na thì rất vui sướng. Hai người sống những ngày tháng tân hôn vô cùng hạnh phúc và vui vẻ, Tiền Hoàng hậu cũng tránh được hoàn cảnh của nhiều Hoàng hậu thông thường, bị chồng mình ghẻ lạnh. Một lần, Minh Anh Tông chợt để ý rằng gia tộc của Hoàng hậu đều chỉ giữ những chức quan khá tầm thường, không quan trọng. Thế nên ông muốn cất nhắc, phong tước một số người trong gia tộc Tiền thị để Hoàng hậu được nở mày nở mặt. Thế nhưng khi nhà vua đề cập việc này với Hoàng hậu thì Hoàng hậu tuy thương cha nhưng vì lợi ích của nhà vua nên ngay lập tức từ chối, vì vậy đây là gia tộc Hoàng hậu duy nhất của triều Minh không có phong tước ngoại thích. Bà nói rằng, trong gia tộc, chưa ai có công lao, đóng góp to lớn trong triều đình hoặc có tài năng xuất chúng để xứng đáng được phong tước cả. Về sau, nhà vua cũng nhắc lại việc này thêm vài lần nữa và lần nào Hoàng hậu cũng một mực khước từ, qua đó mà Anh Tông càng hiểu thêm về tấm lòng và tính cách công bằng, chính trực của bà. Bà cũng rất thông cảm chuyện nạp phi, nên không bao giờ ngăn cản Anh Tông sủng hạnh phi tử, do vậy số con cái của Anh Tông khai chi tán diệp cũng không tệ. Tình cảm Đế - Hậu từ đó mà càng trở nên sâu nặng, thắm thiết. Chỉ có một điều đáng tiếc, đó là dù nhà vua hết mực sủng ái và rất mong chờ, tuy nhiên trong suốt thời gian sinh sống cùng nhau, Tiền Hoàng hậu vẫn không thể sinh cho ông một vị hoàng tử nào, trong khi các phi tần khác đều liên tục sinh nở. Khác với Minh Tuyên Tông, Anh Tông đối với người vợ này rất có tình cảm, nên vẫn luôn muốn Hoàng hậu sinh hạ Đích tử, vì Anh Tông sợ rằng nếu truyền ngôi vị cho Hoàng thứ tử, thì sinh mẫu sẽ lạm quyền, ức hiếp Tiền hoàng hậu như Hồ Thiện Tường từng bị phế trước đây. Sự biến Thổ Mộc Bảo Năm Chính Thống thứ 14 (1449), xảy ra Sự biến Thổ Mộc bảo, Minh Anh Tông bị quân Mông Cổ bắt đi, giữ làm con tin. Ngày 18 tháng 8, tin tức Anh Tông bị bắt lan đến kinh thành. Trong triều chấn động, Tôn Thái hậu mệnh Thành vương Chu Kỳ Ngọc giám quốc, lại huy động các quan công khanh vơ vét tài sản để chuộc Hoàng đế. Tiền hoàng hậu bán hết tài sản riêng, cốt để mong Ngõa Lạt thả Anh Tông. Nhưng Dã Tiên (也先) lại thấy có thể lấy Anh Tông uy hiếp nhà Minh, vừa có thể mượn sức nhà Minh hoàn thành việc thống nhất Mông Cổ, lại có thể uy hiếp đến Bắc Kinh. Trước tình thế đó, ngày 6 tháng 9, Tôn Thái hậu gấp gáp khuyên mời Thành vương Chu Kỳ Ngọc lên ngôi, tức Minh Đại Tông còn Anh Tông trở thành Thái thượng hoàng nhằm ổn định tình hình, tổ chức đánh trả quân Mông Cổ. Nhận được hung tin chồng bị bắt làm tù binh, anh trai Tiền Khâm (錢欽) và em trai Tiền Chung (錢鐘) cũng tử trận trong Sự biến thổ Mộc Bảo. Điều duy nhất mà Tiền hậu có thể làm đó là ngày ngày quỳ gối trước Phật, thành tâm khẩn cầu hy vọng trượng phu có thể bình an trở về. Minh sử chính thức ghi lại khi mùa đông năm đó đến, Tiền Hoàng hậu vẫn ngày ngày quỳ lạy, ngày ngày hy vọng Anh Tông bình an. Sức khỏe của bà suy giảm đến mức giờ đây hoàng hậu đã chẳng thể tự đứng dậy được. Thế nhưng chưa một ngày nào mà bà ngừng quỳ trước Phật để cầu nguyện. Cứ như vậy, một con mắt và một bên chân của bà trở nên yếu đi và cuối cùng là tật nguyền vĩnh viễn. Năm đầu Cảnh Thái (1450), ngày 3 tháng 8, Minh Anh Tông từ Mạc Bắc trở về kinh, được tôn làm Thái thượng hoàng và bị giam lỏng ở Nam Cung. Thế là Tiền Hoàng hậu lại tiếp tục dọn đến Nam Cung. Bà sống cùng trượng phu thêm vài năm gian khó, thậm chí phải có lúc bán đồ thêu để có tiền sinh sống qua ngày. Phục vị Năm Cảnh Thái thứ 8 (1457), tháng giêng, Minh Đại Tông bạo bệnh qua đời. Ngày 17 tháng ấy, Võ Thanh hầu Thạch Hanh (石亨), Ngự sử Từ Hựu Trinh (徐有貞), Đô đốc Trương Nguyệt (張軏),Thái giám Tào Cát Tường nhảy vào Nam cung, ủng hộ Anh Tông phục vị. Khi đó, Thái thượng hoàng bị giam cầm suốt 7 năm cuối cùng trở lại Hoàng vị. Thái thượng hoàng phục bích, vì vậy cần sắc phong một vị Hoàng hậu mới. Mọi người đều nghĩ Chu Quý phi, người đã sinh ra trưởng tử Chu Kiến Thâm sẽ ngồi lên ngôi vị Hoàng hậu. Thành thật mà nói, so với Tiền thị tàn tật, không sinh cho nhà vua một đứa con nào thì quý phi Chu thị có ưu thế hơn hẳn: không những có nhan sắc mà lại sinh cho nhà vua đến ba hoàng tử, trong đó con trai của Chu Quý phi là Chu Kiến Thâm đã được phong làm Hoàng thái tử. Bản thân Chu Quý phi sinh hạ Hoàng thái tử nên cũng nôn nóng muốn trở thành Hoàng hậu. Thật mau, có thái giám tên Tưởng Miện nói nhỏ to với Tôn Thái hậu: ["Tiền hoàng hậu không con lại tàn phế, không thích hợp đảm đương vị trí Hoàng hậu. Chi bằng thay lập Chu phi làm Hoàng hậu, như vậy mới không làm mất mặt mũi Đại Minh vương triều"]. Minh Anh Tông nghe được đại nộ trách mắng, bà vẫn là Hoàng hậu như cũ. Với ông, tình nghĩa sâu nặng và tấm lòng sắt son của Tiền thị vượt lên trên tất thảy những tính toán thông thường. Dù rằng bà không có con nhưng sự trân quý của nhà vua dành cho bà chưa khi nào suy chuyển. Chu Quý phi tham vọng cũng vì thế tiêu tan. Gia đình họ Tiền sau sự biến tiêu tan gần sạch, chỉ còn có vợ của Tiền Chung khi đó mang thai, sinh ra một con trai tên Tiền Hùng (钱雄). Minh Anh Tông đặc biệt quan tâm đứa cháu bên vợ, thăng đến Đô đốc Đồng tri. Để tăng thêm phần long trọng, Anh Tông còn muốn truy phong cho hai anh em của Tiền hậu, để Tiền Hùng trở thành chân chính Quý thích, nhưng Tiền hậu vẫn mãi chối từ. Hoàng thái hậu Năm Thiên Thuận thứ 8 (1464), tháng 12, Minh Anh Tông đã mắc bệnh. Đến ngày 6 tháng giêng, đã không thể thượng triều, phải truyền Thái tử đến Văn Hoa điện xử lý quốc sự. Ngày 16 tháng ấy, Minh Anh Tông trước mặt bá quan công bố di chiếu, rồi băng hà. Di chiếu cho Hoàng thái tử Chu Kiến Thâm kế vị, tức Minh Hiến Tông. Minh Anh Tông đối với việc Phế lập Tiền hậu khi trước, sớm đã không vừa mắt Chu Quý phi, nhưng vì địa vị của Thái tử mà bỏ qua không so đo, cũng một phần vì không nghĩ mình sẽ qua đời sớm. Vào lúc này, Anh Tông sợ mình băng hà thì Chu phi sẽ gây khó dễ Tiền hậu, nên trước khi lâm chung đã nói với Thái tử: "Hoàng hậu danh vị đã định, phải tẫn hiếu thiên niên.". Nhưng Anh Tông chính là không yên tâm Chu phi sẽ tác oai tác oái, khiến Thái tử sợ mẹ mà làm bậy, bèn quyết định kéo tay Đại học sĩ Lý Hiền mà dặn dò: "Sau khi Tiền hoàng hậu thiên thu, phải cùng Trẫm hợp táng!". Đại học sĩ Lý Hiền khóc không thành tiếng, cũng lấy lời này viết lên di chiếu. Mặc cho di chiếu của Anh Tông rất rõ ràng, theo lời mách của các thái giám nịnh nọt, Minh Hiến Tông định chỉ duy nhất một Hoàng thái hậu là Chu phi, còn Tiền hậu sẽ bị gạt qua một bên. Bản thân Chu phi cũng sai người đến phòng Nội các phủ dụ: "Tiền hoàng hậu tàn phế, lại không con, làm gì có tư cách làm Hoàng thái hậu? Chi bằng chỉ nên tôn lập Chu Quý phi, còn Tiền hậu nên theo lệ Tuyên Tông Hồ hoàng hậu trước đây mà phế bỏ." Các Đại học sĩ trong triều, đứng đầu là Lý Hiền ra sức phản đối, lấy lý do Anh Tông đã phủ dụ trên di chức tôn Tiền hoàng hậu làm Hoàng thái hậu. Đại học sĩ Bành Thời (彭時) cảm thán: "Liệt tổ liệt tông cùng thiên địa thần linh ở trên trời nhìn xem, Hoàng thượng đã lấy hiếu trị thiên hạ, há chỉ có tôn mẹ đẻ không tôn mẹ cả”. Do vậy, dưới áp lực của triều thần, Chu Quý phi bèn khóc lóc đến con trai là Hiến Tông để ra mặt, nhưng bản thân Hiến Tông cũng cảm thấy các đại thần có lý. Chu phi bèn tức tối, miễn cưỡng chấp nhận. Đối với việc Chu Quý phi quá quắt, ỷ mình là sinh mẫu mà đòi phế Tiền hậu, trong khi Tiền hậu do Anh Tông qua đời mà không tiếc ăn uống, không màng thế sự, còn Chu Quý phi chưa gì đã nhanh nhẹn muốn tranh vị, các đại thần trở nên bất mãn. Đại học sĩ Bành Thời nhanh chóng nói: ["Lưỡng cung đồng tôn Hoàng thái hậu, e rằng sẽ khó phân biệt. Nên tôn huy hiệu riêng cho Tiền hậu để phá lệ hơn thấp"]. Do vậy, các đại thần để phân biệt giữa Đích Thái hậu (Tiền thị) và Thứ Thái hậu (Chu thị), Đại học sĩ Lý Hiền kiến nghị chỉ tôn phong hiệu cho Tiền hậu. Năm Thành Hóa nguyên niên (1465), tháng 3, tức 2 tháng sau khi Anh Tông băng hà, triều thần tôn Tiền hoàng hậu là Hoàng thái hậu, gọi là Từ Ý hoàng thái hậu (慈懿皇太后), còn Chu Quý phi chỉ là Hoàng thái hậu, mà không có tôn hiệu, như mẹ của Minh Đại Tông là Ngô Hiền phi trước đây. Cùng năm ấy, vào ngày 21 tháng 7 (âm lịch), theo di chiếu của Anh Tông, Hiến Tông cử hành đại hôn với Ngô thị, con dâu do chính Anh Tông tuyển chọn khi còn tại thế. Ngô hoàng hậu phẩm hạnh hiền huệ, nhưng Hiến Tông lại say mê cung tì Vạn Trinh Nhi hơn đến mười mấy tuổi. Vạn thị tính tình xảo quyệt, vu hãm Ngô hoàng hậu khiến Hiến Tông bất mãn Hoàng hậu, bèn quyết định phế truất Ngô hậu. Đối với ý định này, Tiền Thái hậu rất phản đối, còn Chu Thái hậu cực lực ủng hộ ý kiến này của Hiến Tông. Theo dã sử, Chu Thái hậu căn bản không hề thấy Ngô hoàng hậu phạm lỗi đáng bị phế, nhưng khi nghe Tiền Thái hậu bảo vệ Ngô thị, bà ta lại trở mặt quay ra ủng hộ phế truất Ngô hậu. Như vậy, hai mẹ con Hiến Tông kể sướng người họa, căn bản khiến Tiền Thái hậu không thể bảo vệ thành công cô con dâu do Minh Anh Tông tuyển chọn. Ngô hoàng hậu tại vị chưa được 1 tháng, do vậy bị phế truất biếm vào Tây cung. Do xích mích này, Tiền Thái hậu đối với Hiến Tông lạnh nhạt, còn Hiến Tông đối với mẹ cả cũng không khách khí. Năm Thành Hóa thứ 3 (1467), Hiến Tông phong cho anh trai Chu Thái hậu là Chu Thọ làm Khánh Vân bá, mà không đả động gì tới việc phong tước hiệu cho nhà họ Tiền. Tình trạng của Tiền Thái hậu do vậy trở nên quẫn bách. Qua đời Năm Thành Hóa thứ 4 (1468), 26 tháng 6 (âm lịch), Tiền Thái hậu qua đời, thọ 42 tuổi. Theo di chiếu cũng như quy tắc đích-thứ, Tiền Thái hậu là người duy nhất có thể ["hợp song táng"] cùng Anh Tông vào Dụ lăng. Nhưng quyền lợi đáng có này của Tiền Thái hậu khiến Chu Thái hậu tức giận, yêu cầu Hiến Tông xây chỗ khác mà an táng Tiền Thái hậu, chỉ một mình Chu Thái hậu tương lai có thể hợp táng với Anh Tông. Hiến Tông răm rắp nghe theo mẹ đẻ, tìm đủ loại lý do để không theo di chiếu của Tiên hoàng. Khi triệu quần thần đến bàn việc mai táng Tiền Thái hậu, Đại học sĩ Bành Thời lập tức lên tiếng: ["Đại Hành Từ Ý Hoàng thái hậu hợp táng cùng Tiên Hoàng đế, cùng phụ thờ Thái miếu, đấy là sự tình đã định trước rồi, còn cần nghị luận gì nữa?"]. Hiến Tông gián đoạn hội nghị, hôm sau khi triệu quần thần, Bành Thời vẫn tiếp tục chủ trương như vậy khiến Hiến Tông khó xử, bèn nói: ["Khanh nói thế há Trẫm không biết sao? Nhưng nếu phụ táng Tiền Thái hậu cùng Hoàng khảo, thì tương lai Mẫu hậu của Trẫm biết táng ở đâu?"]. Đại học sĩ Bành Thời bất mãn trước thái độ cúi mình của Hiến Tông trước mẹ đẻ mà đang tâm phá hoại lễ nghi, bèn nói: ["Hoàng thượng phụng hiếu Lưỡng cung Thái hậu, sớm đã có tiếng Thánh đức. Mà muốn hoàn thành mỹ đức, ắt phải tuân thủ lễ nghi"]. Nội các đại thần Thượng Lộ (商辂) cũng nói: "Nếu không hợp táng Đại Hành Hoàng thái hậu vào Dụ lăng, thì về sau sẽ tổn hại thánh danh của hoàng thượng"]. Đại học sĩ Lưu Định Chi (刘定之) cũng góp lời: ["Đạo hiếu thuận quý ở đại nghĩa, mà không nghe theo cái nhất thời của thân thích"]. Đến lúc triều thần quá ép buộc, Hiến Tông bèn xuống nước: ["Yêu cầu của mẹ ruột không thể hoàn thành, liệu còn có thể xem là hiếu tử sao?"]. Bành Thời liền kiến nghị: ["Có thể táng Đại Hành Hoàng thái hậu bên trái Tiên đế, còn chỗ bên phải tương lai sẽ dành cho Hoàng thái hậu"]. Liền lập tức, các đại thần hơn 99 người, đứng đầu là Đại học sĩ Bành Thời liền thượng tấu về chuyện lăng miếu. Lược viết bằng bạch thoại, đại ý như sau: Minh Hiến Tông khổ sở giãi bày: ["Các khanh lời nói đều có lý, nhưng các khanh cũng nên thương cảm trẫm. Trẫm nhiều lần đến mẫu hậu khuyên giải, nhưng mẫu hậu đều không thuận theo. Nếu không làm theo đại lễ thì trẫm bất hiếu, nếu không nghe theo mẫu hậu cũng là bất hiếu. Làm thế nào cho phải?"]. Công khanh đại thần đối với "sự hiếu đạo không có lập trường" của Hiến Tông mà bất mãn. Ngày hôm sau, Chiêm sự Kha Tiềm (柯潜), Chấp sự trung Ngụy Nguyên (魏元) cùng Lễ bộ thượng thư Diêu Quỳ (姚夔) lãnh đạo các đại thần, hơn 450 tấu sớ dâng lên yêu cầu hợp táng Tiền Thái hậu vào Dụ lăng. Chu Thái hậu biết tin này cực kỳ phẫn nộ. Đối với hành động trắng trợn quái ác của Chu Thái hậu, Chấp sự trung Ngụy Nguyên cùng đồng liêu hơn 39 người, Ngự sử Khang Doãn Thiều (康允韶) cùng đồng liêu hơn 41 người quyết định đòi lại công đạo cho Tiền Thái hậu, ngay khi hạ triều liền ở ngoài Văn Hoa điện quỳ khóc. Bắt đầu một chiến dịch đình công trong triều đình để buộc Chu Thái hậu đồng ý việc hợp táng của Tiền Thái hậu. Đó là tháng 6 âm lịch, trời Bắc Kinh nắng hạ, quần thần 99 người quỳ từ giờ Tỵ (tức 9 giờ đến 11 giờ buổi sáng) đến giờ Thân (tức khoảng 5 giờ chiều), khóc lóc thảm thiết bao trùm toàn bộ hậu cung. Chu Thái hậu nhiều lần bắt Hiến Tông buộc quần thần thoái lui, nhưng họ kiêng quyết: "Không có ý chỉ hợp táng Tiền Thái hậu thì không dám lui". Chu Thái hậu không ngờ một Tiền thị tàn phế lại có thể khiến các đại thần đồng lòng đòi công đạo, nên cảm thấy ức chế nhưng vẫn không còn cách nào khác gật đầu việc hợp táng của Tiền Thái hậu. Tháng 7 năm đó, Minh Hiến Tông chính thức dâng thụy hiệu cho Tiền Thái hậu, là Hiếu Trang Hiến Mục Hoằng Huệ Hiển Nhân Cung Thiên Khâm Thánh Duệ hoàng hậu (孝莊獻穆弘惠顯仁恭天欽聖睿皇后). Tháng 9 năm đó, Tiền Thái hậu được hợp táng cùng Anh Tông Duệ hoàng đế, đưa vào địa lăng bên trái. Hầm mộ bị bịt Dù cuối cùng Tiền Thái hậu đã được đưa vào Dụ lăng hợp táng với Minh Anh Tông, song Chu Thái hậu vẫn uất ức. Do khi xây dựng Dụ lăng không có dự lưu việc sẽ an táng thêm 1 Hoàng hậu nữa, nên không thiết kế thích hợp cho trường hợp đồng táng ["Nhất đế Nhị hậu"]. Để hợp táng Tiền Thái hậu, và tương lai là Chu Thái hậu, triều đình lại lần nữa thi công, đào thông một đường hầm từ phần mộ Tiền Thái hậu đến phần mộ của Anh Tông. Chu Thái hậu lúc này ra tay, bà mua chuộc thái giám làm việc đào mộ, không chỉ khiến đường hầm đi chệch so với mộ của Anh Tông mười mấy trượng, mà giữa đường còn lấy đất đá chèn ngăn lại. Còn phần mộ tương lai của Chu Thái hậu thì thẳng tắp đến mộ của Anh Tông, lối mộ cũng rộng rãi thoáng đãng. Ngoài ra, mỗi dịp có hiến tế trong Phụng Tiên điện, Chu Thái hậu còn không cho phép bày bức họa của Tiền Thái hậu cùng thần vị. Đến sau khi Chu Thái hậu qua đời vào thời Minh Hiếu Tông, Hoàng đế theo lệ mở Dụ lăng để đưa bà nội của mình vào, thì kinh ngạc phát hiện sự tình mà bà nội mình làm năm xưa. Biết sự việc đã rồi, Minh Hiếu Tông đã có ý cho sửa lại đường thông, triệu tập các Đại học sĩ bàn nghị một cuộc họp rất lớn, muốn vì Tiền Thái hậu mà khai thông đường hầm. Nhưng những vị Âm dương sư và các quan viên của Khâm thiên giám không tán đồng vì ảnh hưởng phong thủy, sự việc bèn thôi. Đường thông của Tiền Thái hậu mãi mãi bị ngăn lấp, không thông được với mộ phần của Minh Anh Tông. Xem thêm Nữ quan nhà Minh Nhà Minh Hồ Thiện Tường Tham khảo Minh sử Tư trị thông giám Người Giang Tô Hoàng hậu nhà Minh Hoàng thái hậu nhà Minh Sinh năm 1426 Mất năm 1468
2921813
https://vi.wikipedia.org/wiki/Galleridia%20atrisigna
Galleridia atrisigna
Galleridia atrisigna là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Galleridia
2915583
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ercheia%20diversipennis
Ercheia diversipennis
Ercheia diversipennis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Ercheia
15028155
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gliese%203470%20b
Gliese 3470 b
Gliese 3470 b, được viết tắt là GJ3470b, là một ngoại hành tinh quay quanh ngôi sao Gliese 3470, và cả hai ngôi sao này đều nằm trong chòm sao Cự Giải. Với khối lượng chỉ dưới 14 lần khối lượng Trái Đất và bán kính xấp xỉ 4,3 lần so với Trái Đất, rất có khả năng nó giống với một Sao Hải Vương nhỏ bất chấp niềm tin mạnh mẽ ban đầu rằng hành tinh này không bị bao phủ trong những đám mây như những hành tinh khí mà chúng rất quen thuộc trong Hệ Mặt Trời của chúng ta. Bầu khí quyển của ngoại hành tinh lần đầu tiên được quan sát bởi các nhà nghiên cứu Akihiko Fukui, Norio Narita và Kenji Kuroda tại Đại học Tokyo vào năm 2013, và sau đó, Fukui nhận xét: "Giả sử bầu khí quyển của nó bao gồm hydro và heli, khối lượng của khí quyển sẽ là 5-20 % tổng khối lượng của hành tinh. So sánh với thực tế rằng khối lượng khí quyển của Trái Đất chiếm khoảng một phần mười phần trăm (0,0001%) tổng khối lượng của Trái Đất, hành tinh này có bầu khí quyển dày đáng kể. " Gần đây vào năm 2015, một nhóm sử dụng mạng Kính viễn vọng Toàn cầu (LCOGT) của đài thiên văn Las Cumbres đã báo cáo phát hiện của họ về sự tán xạ Rayleigh trong bầu khí quyển của hành tinh này. Trong bài báo của các nhà nghiên cứu Las Cumbres được công bố trên Tạp chí Vật lý thiên văn, họ kết luận rằng lời giải thích hợp lý nhất cho hiệu ứng tán xạ là một bầu khí quyển chủ yếu là hydro và heli, khiến ngoại hành tinh bị che khuất bởi những đám mây và hiểm họa dày đặc. Người ta cho rằng hành tinh sẽ xuất hiện màu xanh đối với mắt người do sự tán xạ của nó. Tính đến thời điểm hiện tại, GJ3470b là ngoại hành tinh duy nhất quay quanh ngôi sao Gliese 3470 đã được các nhà thiên văn học và vật lý thiên văn quan sát và phân tích. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2018, các nhà thiên văn học đã phát hiện ra rằng bầu khí quyển của hành tinh này đang bốc hơi. Lý do tại sao các nhà thiên văn học nghĩ rằng hành tinh này đang bốc hơi là vì hành tinh được dự đoán sẽ ở gần 90% so với ngôi sao Gliese 3470 ở khoảng cách so với khoảng cách của hành tinh Sao Thủy với Mặt Trời trong Hệ Mặt trời của chúng ta. Do đó, nhiệt độ dự đoán của hành tinh mà nó đang bốc hơi đi được cho là vào khoảng 1700F. Tốc độ bay hơi dự đoán cũng được lý thuyết là "nhanh hơn 3 lần so với tốc độ bay hơi cuối cùng được phát hiện". Người ta cũng dự đoán rằng nếu có bất kỳ hơi lỏng nào có trong bầu khí quyển thì chúng sẽ sôi lên. Một khi bầu khí quyển bị bốc hơi, lõi đá có thể của nó sẽ vẫn còn. Ảnh Chú thích Hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời
3423681
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%20Adventures%20of%20Ichabod%20and%20Mr.%20Toad
The Adventures of Ichabod and Mr. Toad
Cuộc phiêu lưu của Ichabod và Lão Cóc () là một bộ phim hoạt hình ca nhạc vào năm 1949 sản xuất bởi Walt Disney và phát hành bởi RKO Radio Pictures. Đây là bộ phim thứ 11 trong loạt hoạt hình cổ điển Walt Disney. Chú thích Liên kết ngoài Phim của Walt Disney Animation Studios Phim của Walt Disney Pictures Phim hoạt hình Mỹ Phim thiếu nhi Mỹ Phim Mỹ Phim tưởng tượng dành cho trẻ em Phim về động vật Phim dựa theo sách thiếu nhi Phim với các sự vật được nhân hoá Phim lấy bối cảnh năm 1908 Phim lấy bối cảnh ở Luân Đôn
19567066
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0nh%20tinh%20h%E1%BB%97n%20lo%E1%BA%A1n
Hành tinh hỗn loạn
Hành tinh hỗn loạn (tên gốc tiếng Anh: Chaos Walking) là một bộ phim hành động, khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 2021 do Doug Liman đạo diễn theo kịch bản phim của Patrick Ness và Christopher Ford. Phim dựa trên bộ ba cuốn sách khoa học viễn tưởng Hỗn mang, chuyển thể từ cuốn sách đầu tiên mang tên Hỗn mang 1: Đừng bao giờ buông dao ra mắt năm 2008. Phim có sự tham gia gồm Daisy Ridley và Tom Holland, cùng với Mads Mikkelsen, Demián Bichir, Cynthia Erivo, Nick Jonas và David Oyelowo, và phim kể về một người đàn ông trẻ tuổi sống trong một thế giới hỗn loạn nơi không có phụ nữ và tất cả các sinh vật sống có thể nghe thấy suy nghĩ của nhau bởi một thế lực gọi là "Tiếng ồn". Khi một người phụ nữ rơi xuống hành tinh, anh phải giúp cô ấy thoát khỏi nguy hiểm. Được công bố vào năm 2011, bộ phim đã nhiều lần viết lại từ bản thảo kịch bản đầu tiên do Charlie Kaufman viết, với Jamie Linden, John Lee Hancock, Gary Spinelli, Lindsey Beer, Christopher Ford và Ness sửa đổi thêm kịch bản. Liman sau đó được công bố là đạo diễn vào năm 2016, với công việc chụp ảnh chính bắt đầu từ năm 2017. Ban đầu được dự kiến ​​phát hành vào ngày 1 tháng 3 năm 2019, bộ phim đã bị loại khỏi lịch trình để phù hợp với các bộ phim được khởi chiếu lại vào tháng 4 năm 2019 sau những ý kiến tiêu cực từ buổi chiếu thử nghiệm. Hành tinh hỗn loạn được phát hành tại các rạp chiếu của Hàn Quốc từ ngày 24 tháng 2 năm 2021 và tại Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 3 năm 2021. Tại Việt Nam, phim được khởi chiếu từ ngày 19 tháng 3 năm 2021. Tác phẩm nhận về nhiều ý kiến tiêu cực từ giới chuyên môn, trở thành một quả bom xịt điện ảnh với doanh thu toàn cầu chỉ đạt hơn 21 triệu USD so với kinh phí làm phim lên tới 100 triệu USD, dẫn đến việc hãng phim phải xóa sổ. Diễn viên Daisy Ridley vai Viola Eade, một người phụ nữ không có tiếng ồn, người là chìa khóa để mở ra những bí mật cho Tân Thế giới. Tom Holland trong vai Todd Hewitt, một cậu bé sống trên hành tinh xa xôi của Thế giới mới. Mads Mikkelsen vai David Prentiss, Thị trưởng của Prentisstown. Demián Bichir vai Ben Moore, một trong những người cha nuôi của Todd. Cynthia Erivo vai Hildy Black, thủ lĩnh của Farbranch, một khu định cư hòa bình ở Tân Thế giới chống lại Thị trưởng Prentiss và quân đội của ông ta. Nick Jonas vai David "Davy" Prentiss Jr., con trai của Thị trưởng và một người lính. David Oyelowo trong vai Aaron, một nhà thuyết giáo cấp tiến ở Prentisstown. Kurt Sutter vai Cillian Boyd, một trong những người cha nuôi của Todd. Ray McKinnon vai Matthew, một cư dân Farbranch từng đến từ Prentisstown. Phát hành Phim được phát hành rạp tại Úc vào ngày 4 tháng 3 năm 2021, Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 3 năm 2021, với một bản phát hành IMAX bổ sung, sau bản phát hành tại rạp ở Hàn Quốc vào ngày 24 tháng 2 năm 2021. Trước đó phim đã được lên kế hoạch phát hành vào ngày 1 tháng 3 năm 2019, nhưng đã bị trì hoãn để phù hợp với việc khởi chiếu lại của bộ phim. Sau đó lại lên kế hoạch phát hành vào ngày 22 tháng 1 năm 2021, nhưng lại bị trì hoãn đến tháng 3 do đại dịch COVID-19. Đón nhận Doanh thu phòng vé Tính đến ngày 16 tháng 3 năm 2021, Chaos Walking đã thu về 7,3 triệu USD ở Hoa Kỳ và Canada, và 5 triệu đô la ở các lãnh thổ khác, với tổng số tiền trên toàn thế giới là 12,3 triệu đô la, lỗ hơn với kinh phí sản xuất là 100 triệu đô la. Tại Hoa Kỳ và Canada, bộ phim đã thu về 1,3 triệu USD từ 1.980 rạp chiếu trong ngày đầu tiên công chiếu. Bộ phim tiếp tục ra mắt với 3,7 triệu đô la, đứng thứ ba tại phòng vé. Tờ báo điện tử Deadline Hollywood viết rằng bộ phim đã "sẵn sàng thua lỗ" cho Lionsgate và "hãng phim đã bù lỗ" về điều đó. Phim kiếm được 2,3 triệu đô la (giảm –40%) trong tuần thứ hai, còn ở vị trí thứ ba. Tại Hàn Quốc, bộ phim đã thu về 503 nghìn đô la trong tuần đầu công chiếu, đứng thứ 5 tại phòng vé. Đánh giá chuyên môn Các bài đánh giá về bộ phim thừa nhận tiềm năng của bộ phim, nhưng lại chỉ trích bộ phim vì "cách làm việc kém và các nhân vật bình thường, kém xây dựng phát triển." Các trang web đánh giá Rotten Tomatoes báo cáo rằng 21% trong số 96 nhà phê bình đã đánh giá tích cực về bộ phim, với xếp hạng điểm trung bình là 4,6 trên 10. Sự đồng thuận của các nhà phê bình trên trang web viết: "Hành tinh hỗn loạn đặt ra một con đường thú vị tiềm tàng, nhưng cuộc phiêu lưu lạc hậu này làm hỏng tiền đề của nó và khập khiễng khi đi về đích." Theo Metacritic, bộ phim đã cho điểm trung bình có trọng số là 39 trên trong số 100 dựa trên 28 nhà phê bình, bộ phim nhận được "đánh giá chung là không thuận lợi". Khán giả được thăm dò bởi CinemaScore đã cho điểm trung bình của bộ phim là "B" trên thang điểm A+ đến F, trong khi PostTrak báo cáo 70% khán giả cho điểm tích cực, với 43% nói rằng họ chắc chắn sẽ giới thiệu bộ phim. Tham khảo Phim Mỹ Phim tiếng Anh Phim dựa trên tiểu thuyết Mỹ Phim dựa trên tiểu thuyết Vương quốc Liên hiệp Anh Phim dựa trên tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Phim lấy bối cảnh ở tương lai Phim quay tại Atlanta Phim quay tại Iceland Phim của hãng Lionsgate
2583863
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dinia%20puniceocincta
Dinia puniceocincta
Dinia puniceocincta là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Dinia
14186198
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bt%20Elizabeth
Vịt Elizabeth
Vịt Elizabeth là một giống vịt nhà, có nguồn gốc từ Úc. Chúng được phát triển thành một giống vịt lấy thịt có kích thước nhỏ phát triển nhanh vào năm 1972 bởi Lance Ruting ở Merrylands, New South Wales và được đặt theo tên vợ của ông, Ann Elizabeth Ruting. Chúng hiện được nuôi ở Úc và New Zealand, nhưng không dễ dàng mua được và được phân loại là nguy cơ tuyệt chủng theo tổ chức Quỹ giống hiếm Úc. Vịt giống này chỉ có một màu và chúng được mô tả là nhỏ nhắn, với ngực rộng và khá bầu, chân hơi ngắn và đầu tròn. Con đực có đầu màu xanh lá cây bóng loáng, kết thúc bằng một "chiếc nhẫn trắng". Lông của vịt giống này có loại lông vũ màu xám và viền bên trong kem, lông dưới màu trắng, lông màu xám than trên lưng cũng được khoanh tròn với phần thân màu trắng, đen và đuôi nâu đen. Vịt cái có màu nâu vàng, với các dấu màu nâu ở phần giữa của mỗi sợi lông trên phần lớn cơ thể. Đối với cả hai giới tính, chúng có mỏ màu xám, mắt màu nâu sẫm và chân màu đồng. Vịt giống này được báo cáo là có thể đẻ 100 - 150 quả trứng mỗi năm. Theo The Backyard Duck Book, phả hệ và tình trạng của giống vịt này gây tranh cãi, chính vì thế giống này đôi khi không được đề cập đến. Tuy nhiên, vịt Elizabeth có thể là giống lai thuần dưỡng của vịt Rouen Clair và vịt Mallard. Tham khảo Giống vịt
3520281
https://vi.wikipedia.org/wiki/Deinostigma%20cicatricosa
Deinostigma cicatricosa
Deinostigma cicatricosa là một loài thực vật có hoa trong họ Tai voi (Gesneriaceae). D. Wood (1974) gộp cả mẫu vật thu được từ Đông Hưng, phía nam tỉnh Quảng Tây (ông viết là Quảng Đông) vào loài mới Chirita minutihamata có ở Việt Nam (tỉnh Kon Tum). Sau này, Wang (1981) đã mô tả loài Chirita cicatricosa từ Quảng Tây mà không thể hiện rõ ràng là có gộp các hồ sơ tài liệu Trung Quốc về C. minutihamata hoặc là nhắc tới loài đó hay không. Wang (1985), Wang et al. (1990) và Wang et al. (1998) đặt Chirita cicatricosa làm danh pháp đồng nghĩa của C. minutihamata, đề cập tới các địa điểm tương ứng với địa điểm điển hình của C. cicatricosa và tài liệu mà Wood (1972) đã trích dẫn. Các tài liệu Trung Quốc và Việt Nam cho thấy quả thực chúng rất giống nhau, nhưng vẫn có những khác biệt giữa chúng. Cụ thể là quả dài hơn, mảnh dẻ hơn, cong lưỡi liềm hơn, hoa hơi lớn hơn của các mẫu cây Trung Quốc, cùng với sự phân bố rời rạc có khoảng cách lớn giữa Quảng Tây và Kon Tum nên năm 2016 Möller et al. cho rằng chúng có thể là các loài khác biệt và đặt nó vào chi Deinostigma với danh pháp Deinostigma cicatricosa. Chú thích Liên kết ngoài C Thực vật được mô tả năm 1981
12430110
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lust%20for%20Life%20%28album%20c%E1%BB%A7a%20Lana%20Del%20Rey%29
Lust for Life (album của Lana Del Rey)
Lust for Life (Dục vọng đời tư) là album phòng thu thứ năm và sản phẩm thu âm thứ tư thuộc hãng đĩa lớn của ca sĩ người Mỹ Lana Del Rey, phát hành ngày 21 tháng 7 năm 2017. Đĩa đơn chính, Love phát hành toàn cầu vào ngày 18 tháng 2 năm 2017, và tựa đề album được công bố ngày 29 tháng 3 năm 2017 thông qua một trailer trên một kênh Vevo chính thức của Del Rey trên Youtube. Bài hát mang tựa đề album có góp giọng của ca sĩ người Canada The Weeknd, là đĩa đơn thứ hai được phát hành ngày 19 tháng 4. Album cũng có một số khách mời góp giọng từ ASAP Rocky, Stevie Nicks, Sean Lennon và Playboi Carti. Tại lễ trao giải Grammy lần thứ 60, Lust for Life đã giành một đề cử giải Grammy ở hạng mục Album giọng pop xuất sắc nhất. Đây cũng là đề cử thứ hai của Del Rey ở hạng mục này. Bối cảnh và phát hành Lana Del Rey lần đầu bàn luận về album kế tiếp của cô sau Honeymoon trong một buổi phỏng vấn với tạp chí NME vào tháng 12 năm 2015. Khi được hỏi về nơi sáng tác album và thời gian nó phát hành, cô trả lời, "Tôi có những suy nghĩ đầu tiên về thứ tôi muốn làm với nó. Hãng đĩa của tôi, Interscope khá linh động và để mở cho sản phẩm của tôi phát hành bất cứ lúc nào, vì vậy tôi không có áp lực đó. Tôi chỉ hạnh phúc khi có thể tiếp tục sáng tác thứ âm nhạc mà tôi có thể đứng đằng sau. Đối với tôi đó là đủ rồi." Ngày 18 tháng 2 năm 2017, đĩa đơn chính của album là "Love" được phát hành. Ngày 18 tháng 4, trong buổi phỏng vấn với Courtney Love cho tờ Dazed, Del Rey xác nhận sẽ lần lượt hợp tác với The Weeknd cho ca khúc "Lust for Life" và hợp tác với Sean Lennon cho ca khúc "Tomorrow Never Came". Cô cũng xác nhận làm việc với Max Martin cho track chủ đề, lấy cảm hứng từ âm nhạc của The Shangri-Las. Một bài hát khác hợp tác với Stevie Nicks là "Beautiful People, Beautiful Problems" cũng được xác nhận góp mặt trong album. Đánh giá chuyên môn Trên Metacritic, dựa trên phép tính điểm trung bình cộng trên thang điểm 100 cho đến những bài đánh giá từ các ấn phẩm chính, album nhận được số điểm trung bình, album nhận được 77 điểm, dựa trên 26 bài đánh giá. Giải thưởng {|class="sortable wikitable" |- ! Ấn phẩm ! Giải thưởng ! Xếp hạng ! class="unsortable"| |- | Billboard | 50 album hay nhất năm 2017 | | |- | Complex | Top 50 Album của năm 2017 | | |- | Cosmopolitan | Album hay nhất năm 2017 | | |- | Crack Magazine| Top 100 album của 2017 | | |- | Drowned in Sound| Album yêu thích của năm 2017 | | |- | The Independent| 30 album hay nhất năm 2017 | | |- | NME| Album của năm | | |- | Noisey| 100 album hay nhất năm 2017 | | |- | Pitchfork| 50 album hay nhất năm 2017 | | |- | Pitchfork| 20 album Pop và R&B hay nhất năm 2017 | | |- | PopMatters| 60 album hay nhất năm 2017 | | |- | Rolling Stone| 50 album hay nhất năm 2017 | | |- | Rolling Stone| 20 album pop hay nhất năm 2017 | | |} Danh sách bài hát Ghi chú chỉ nhà sản xuất bổ sung "13 Beaches" chứa một đoạn âm thanh từ bộ phim Carnival of Souls'' biểu diễn bởi Candace Hilligoss Xếp hạng Xếp hạng tuần Xếp hạng năm Chứng nhận Xem thêm Danh sách album quán quân năm 2017 (Mỹ) Tham khảo Liên kết ngoài Lust for Life tại lanadelrey.com Album năm 2017 Album của Interscope Records Album của Lana Del Rey Album của Polydor Records Album sản xuất bởi Benny Blanco Album sản xuất bởi Emile Haynie Album sản xuất bởi Rick Nowels
2928754
https://vi.wikipedia.org/wiki/Plecoptera%20fletcherana
Plecoptera fletcherana
Plecoptera fletcherana là một loài bướm đêm trong họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Plecoptera
13477689
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C4%83ng%20Tu%E1%BA%A5n%20H%C3%A2n
Tăng Tuấn Hân
Tăng Tuấn Hân (; sinh ngày ngày 8 tháng 8 năm 2001) là vận động viên quần vợt người Trung Hoa Đài Bắc Tuấn Hân có vị trí bảng xếp hạng đơn ATP cao nhất là 1340 đạt vào ngày 30 tháng 10 năm 2017. Tuấn Hân có vị trí bảng xếp hạng đơn nam trẻ ITF đứng thứ 3 đạt được vào ngày 29 tháng 1 năm 2018. Chung kết Grand Slam trẻ Đơn: 1 (1 Chung kết) Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2001 Nhân vật còn sống Nam vận động viên quần vợt Trung Hoa Đài Bắc Vận động viên quần vợt Thế vận hội Trẻ Mùa hè 2018 Vô địch Wimbledon trẻ Vô địch Roland-Garros trẻ
19364088
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%C3%AAn%20nghi%E1%BB%87p%20h%C3%B3a
Chuyên nghiệp hóa
Chuyên nghiệp hóa là một quá trình xã hội mà bất kỳ thương mại hoặc nghề nghiệp nào cũng tự biến mình thành một " nghề nghiệp có tính liêm chính và năng lực cao nhất". Định nghĩa về những gì tạo nên một nghề thường được tranh cãi. Chuyên nghiệp hóa có xu hướng dẫn đến việc thiết lập trình độ chấp nhận được, một hoặc nhiều hiệp hội chuyên nghiệp để khuyến nghị thực hành tốt nhất và giám sát hành vi của các thành viên trong nghề, và một số mức độ phân định trình độ từ những người nghiệp dư không đủ tiêu chuẩn (nghĩa là chứng nhận chuyên nghiệp). Nó cũng có khả năng tạo ra " đóng cửa nghề nghiệp", nghĩa là chặn nghề nghiệp không cho người ngoài, nghiệp dư và không đủ tiêu chuẩn tham gia. Nghề nghiệp không được chuyên nghiệp hóa hoàn toàn đôi khi được gọi là bán chuyên nghiệp. Phê bình về quan điểm chuyên nghiệp hóa các phiên bản quá nhiệt tình được thúc đẩy bởi các khuyến khích không phù hợp (về cơ bản, một sự tương tự hiện đại về các khía cạnh tiêu cực của bang hội) như một hình thức của sự tin cậy. Tham khảo Thuật ngữ xã hội học
2608836
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eois%20deleta
Eois deleta
Eois deleta là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Tham khảo Eois
2750870
https://vi.wikipedia.org/wiki/Belvosia%20frontalis
Belvosia frontalis
Belvosia frontalis là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Belvosia
18635535
https://vi.wikipedia.org/wiki/Battsengel
Battsengel
Battsengel (tiếng Mông Cổ: Батцэнгэл, hạnh phúc vững bền) là một sum của tỉnh Arkhangai tại Mông Cổ, nằm cách thủ đô Ulaanbaatar 400 km về phía tây. Nó có dân số là 3.846 người vào năm 2009. Địa lý Sum Battsengel có diện tích khoảng 3.500 km² và có độ cao là 1.427 m trên mực nước biển. Giáo dục Vào năm 2012, trường trung học cơ sở 12 Năm tại Battsengel đã giành được một giải thưởng Trường học tốt nhất tỉnh Arkhangai. Hành chính Sum Battsengel được chia thành 6 bag (xã): Ulaanchuluu Khunug Del Bayan-Uul Tsats Dayrbor Ngoài ra còn bao gồm thị trấn Jargalant, trung tâm sum. Người nổi tiếng Vandan Galsankhuu (1888-1935) - đô vật vô địch Mông Cổ Gelegjamts Usukhbayar (1973-) - nhà vô địch thế giới Mông Cổ Tsedendamba Sambuu (1948 -) - thợ may nổi tiếng người Mông Cổ Mundeg Gochoo (1919) - một người chăn gia súc tốt của Mông Cổ Lkhagvasuren Gurjav (1958) - tiến sĩ triết học, giáo sư Odontuya Purevsangaa (1966) - bác sĩ y khoa Batbold Soronzonbold (1958) - Nghệ sĩ Đại sứ thiếu nhi, Nhà văn âm nhạc thiếu nhi, Công nhân văn hóa hàng đầu, Giáo viên Tham khảo Sum của tỉnh Arkhangai Khu dân cư ở Mông Cổ
3177991
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20ph%E1%BB%95i%20ch%C3%A2u%20Phi
Cá phổi châu Phi
Cá phổi châu Phi (Danh pháp khoa học: Protopterus) là một chi cá phổi được tìm thấy ở châu Phi, chi duy nhất thuộc họ Protopteridae. Cá phổi châu Phi gồm 4 loài cá có thể chịu đựng trong hai năm không có nước. Cá phổi phát triển một dạng phổi thô sơ, giúp chúng tiếp nhận oxy trực tiếp từ không khí. Mô tả Cá phổi châu Phi là những loài cá nước ngọt có 6 cung mang và 5 khe nứt mang, với thân hình thuôn dài, bề ngoài giống như cá chình, với các vây ngực và vây hậu môn giống như sợi chỉ. Chúng có vảy mềm còn vây lưng và vây đuôi thì hợp nhất lại thành một cấu trúc duy nhất. Chúng có thể bơi như cá chình hoặctrườn dọc theo đáy môi trường nơi chúng sinh sống bằng các vây ngực và vây hậu môn. Kích thước dao động trong khoảng từ tới . Cá phổi châu Phi nói chung sinh sống trong những vùng nước nông, như các loại đầm lầy; tuy nhiên chúng cũng sinh sống trong các hồ lớn, như hồ Victoria. Chúng có thể sống ngoài môi trường nước tới vài tháng trong các hang hốc là lớp bùn đông cứng lại dưới lòng ao hồ khô cạn. Chúng là động vật ăn thịt, với thức ăn chủ yếu là động vật giáp xác, ấu trùng côn trùng thủy sinh cũng như động vật thân mềm và cá nhỏ. Sinh học Cá phổi châu Phi là một ví dụ về chuyển tiếp tiến hóa từ thở trong nước sang thở không khí diễn ra như thế nào. Cá phổi châu Phi thường xuyên theo chu kỳ phải sống trong môi trường nước có hàm lượng oxy hòa tan thấp hoặc khi môi trường nước của chúng bị khô kiệt. Sự thích nghi của chúng để đối phó vứi những điều kiện như vậy là sự lộn trong ra ngoài của một đoạn ruột, tương tự như bong bóng của các loài cá khác, có chức năng giống như phổi. Phổi này chứa nhiều mạch máu nhỏ với thành mỏng, vì thế máu chảy qua các mạch này có thể lấy được oxy từ không khí được nuốt vào trong phổi. Cá phổi châu Phi là cá hít thở không khí bắt buộc, với mang bị tiêu giảm ở cá trưởng thành. Chúng có 2 cung mang trước vẫn có các mang, nhưng quá nhỏ để có thể hoạt động như là bộ máy hô hấp duy nhất. Tim cá phổi có sự thích nghi để chia tách một phần dòng máu vào hệ tuần hoàn phổi và hệ tuần hoàn toàn thân. Tâm nhĩ được phân chia một phần sao cho nửa bên trái nhận máu giàu oxy và nửa bên phải nhận máu nghèo oxy từ các mô khác. Hai dòng máu này chủ yếu vẫn là tách biệt khi chúng chảy qua tâm thất dẫn tới các cung mang. Kết quả là máu giàu oxy chủ yếu chảy tới các cung mang trước còn máu nghèo oxy chủ yếu chảy tới các cung mang sau. Chúng lẩn trốn khỏi tình trạng gia tăng sức nóng bằng cách đào hang, ẩn mình dưới bùn. Cá phổi ăn bùn trong quá trình đào hang, rồi thải loại chúng ra ngoài thông qua mang. Sau khi đã đào được một cái hang, chúng tiết ra một loại nước nhầy bao phủ khắp cơ thể. Chất này là một loại da tự nhiên giống như cái kén tằm giúp chúng giữ ẩm cho tới khi có nước. Khi chất nhầy này khô đi, nó hình thành một lớp vỏ bảo vệ cá khỏi trận hạn hán. Khi tình hình ngày càng trở nên tồi tệ hơn, cá phổi bắt đầu kích hoạt trạng thái ngủ hè. Các thay đổi trong các chức năng sinh lý cho phép loài cá này làm chậm lại quá trình trao đổi chất của nó tới mức chỉ còn không tới 1/60 của mức trao đổi chất thông thường và các chất thải gốc protein được chuyển hóa từ amonia thành dạng ít độc hại hơn là urê (thông thường, cá phổi bài tiết chất thải gốc nitơ dưới dạng amonia trực tiếp vào trong nước). Cá phổi có thể phải mất tới 4 năm cho đến khi có mưa, giúp nó thoát khỏi tình trạng ngưng hoạt động. Cuối giai đoạn nằm im lìm, chúng sẽ bắt đầu nhúc nhích các cơ để tìm kiếm thức ăn. Số năng lượng còn lại vẫn đủ cho nó tìm được đường về với nước. Cá phổi châu Phi sinh sản khi bắt đầu mùa mưa. Chúng làm tổ hoặc đào hang hốc trong bùn để một hoặc nhiều cá cái đẻ trứng, và sau đó cá đực canh gác để ngăn chặn những kẻ săn mồi. Khi trứng nở, cá con trông giống như nòng nọc với các mang ngoài, và chỉ sau đó mới phát triển phổi và bắt đầu hít thở không khí. Các loài và phân loài Họ Protopteridae P. aethiopicus Heckel, 1851 - Cá phổi cẩm thạch. P. a. aethiopicus Heckel, 1851. Phân bố: Sông Nin, hồ Victoria, hồ Tanganyika. P. a. congicus Poll, 1961. Phân bố: Trung và thượng lưu sông Congo. P. a. mesmaekersi Poll, 1961. Phân bố: Hạ lưu sông Congo. P. amphibius (W. K. H. Peters, 1844) - Cá phổi Đông Phi. Phân bố: Các đầm lầy và đồng bằng ngập lụt tại vùng duyên hải Đông Phi, từ Somalia và Kenya, đồng bằng châu thổ sông Zambezi. Cũng ghi nhận tại hồ Rukwa và các bình nguyên ngập lụt ven sông Ruaha và hạ lưu sông Rufiji, nhưng chưa bao giờ được nhận dạng chắc chắn tại Tanzania. P. annectens (Owen, 1839) - Cá phổi Tây Phi. P. a. annectens (Owen, 1839). Phân bố: Senegal, Niger, Gambia, Volta, Chad, cũng có mặt trong các sông nhánh tạm thời của sông Chari ở miền tây Sudan; lưu vực các sông Bandama và Comoé tại Côte d'Ivoire, một số sông nhất định ở Sierra Leone và Guinea. P. a. brieni Poll, 1961 - Cá phổi miền nam châu Phi. Phân bố: Thượng lưu sông Congo, hồ Rukwa, trung và hạ lưu sông Zambezi, hạ lưu sông Pungwe, sông Buzi, sông Sabi, thượng lưu sông Cubango và sông Okavango. P. dolloi Boulenger, 1900 - Cá phổi đốm châu Phi. Phân bố: Lưu vực các sông Congo, Kouilou-Niari và Ogowe. Loài này không ngủ hè trong kén trong mùa khô. Thực phẩm Người dân châu Phi bản xứ từng đào bới tìm bắt cá phổi để ăn thịt hoặc lưu giữ để làm thịt sau này khi họ cần ăn cá tươi. Thịt chúng có vị nồng tới mức "hoặc là được đánh giá cao hoặc là bị không ưa thích tại khu vực". Trong vòng 50 năm qua việc đánh bắt bằng các loại lưới ngày càng gia tăng nên người ta cho rằng các quần thể cá phổi đang suy giảm. Tham khảo Xem thêm Purves, Sadava, Orians, Heller, "Life: The Science of Biology" 7th ed. pg. 943. Courier Companies Inc: USA, 2004. Cá phổi P
2571227
https://vi.wikipedia.org/wiki/Prosopocera%20albomarmorata
Prosopocera albomarmorata
Prosopocera albomarmorata là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Prosopocera
19776421
https://vi.wikipedia.org/wiki/Louis%20Althusser
Louis Althusser
Louis Pierre Althusser (; 16 tháng 10 năm 1918 – 22 tháng 10 năm 1990) là một nhà triết học Marxist người Pháp. Althusser sinh ra ở Algérie thuộc Pháp và là cựu sinh viên của Trường École normale supérieure ở Paris, nơi ông vinh dự nhận chức danh Giáo sư Triết học. Tiểu sử Thuở thơ ấu và thanh niên: 1918–1948 Althusser chào đời ngày 16 tháng 10 năm 1918 tại Birmendreïs, gần Algiers, bấy giờ là Algérie thuộc Pháp, trong một gia đình tiểu tư sản pied-noir nguyên quán ở Alsace, Pháp. Cha ông, Charles-Joseph Althusser, là một trung úy trong quân đội Pháp song sau về Pháp làm nhân viên ngân hàng; mẹ ông, Lucienne Marthe Berger, làm nghề giáo viên, sùng mộ Công giáo. Nhà sử học Martin Jay nhận xét rằng, giống như Albert Camus và Jacques Derrida, Althusser là "một sản phẩm của nền văn hóa thực dân Pháp ở Bắc Phi." Năm 1930, gia đình ông chuyển đến sống tại thành phố Marseille để cha ông dễ bề công tác ở Compagnie Algérienne (Công ty Ngân hàng Algérie). Althusser dành phần tuổi thơ còn lại ở đó, theo học và tham gia một hội hướng đạo. Năm 1936, Althusser chuyển đến Lyon để nhập học Lycée du Parc. Về sau ông còn được nhận vào École Normale Supérieure (ENS) (Grande école), trường cao học cực kỳ danh giá của Paris. Tại Lycée du Parc, Althusser chịu ảnh hưởng tư tưởng của các giáo sư theo Công giáo, điều này đã khiến ông quyết định tham gia phong trào thanh niên Công giáo mang tên Jeunesse Étudiante Chrétienne, đồng thời ao ước muốn trở thành tu sĩ dòng Xitô. Đáng chú ý rằng, mối quan tâm về Công giáo của Althusser tồn tại song song với tư tưởng cộng sản chủ nghĩa của ông. Chú thích Tham khảo Dẫn nguồn Thư mục Liên kết ngoài Kho lưu trữ Louis Althusser trên Internet tại Marxists.org Louis Althusser (Stanford Encyclopedia of Philosophy) Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp Người bị rối loạn lưỡng cực Tù nhân chiến tranh bị Đức giam giữ trong Thế chiến thứ hai Nhà lý luận Mác-xít Mất năm 1990 Sinh năm 1918
16610745
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kaiju
Kaiju
Kaiju (怪獣, かいじゅ, Hán-Việt: quái thú) là một chuỗi phim về quái vật - sinh vật khổng lồ hoặc một số bộ phim thảm họa mà tập trung vào một nhóm các nhân vật đấu tranh để sống sót sau các cuộc tấn công của ít nhất một con quái vật hung hãn hoặc các động vật khác, thường có kích cỡ to lớn bất thường.Thuật ngữ kaiju ám chỉ những con quái vật khổng lồ. Phim thể loại này cũng có thể được liệt vào các thể loại Tokusatsu, kinh dị, hài, kỳ ảo, hoặc khoa học viễn tưởng. Phim quái vật có nguồn gốc từ sự chuyển thể của các tác phẩm văn học và văn hóa dân gian kinh dị. Thông thường, các quái vật trong phim khác với các nhân vật ác truyền thống khác trong đó nhiều quái vật tồn tại do hoàn cảnh vượt ngoài tầm kiểm soát; hành động của chúng không hoàn toàn do chủ động lựa chọn, điều này có khả năng làm cho các quái vật này nhận được sự thông cảm của người xem. Bộ phim Godzilla năm 1954 thường được coi là bộ phim đầu tiên về kaiju. Các Kaiju thường có phần ẩn dụ trong tự nhiên; chẳng hạn Godzilla, đóng vai trò như một phép ẩn dụ cho vũ khí hạt nhân, phản ánh nỗi sợ hãi của Nhật Bản sau vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki. Các ví dụ đáng chú ý khác bao gồm Rodan, Mothra, King Ghidorah,... Nguồn gốc Từ kaijū vốn có nghĩa là quái vật trong tiếng Nhật Bản; nhưng nó bị thay đổi một chút khi Trung Quốc sử dụng trong cuốn "Sơn Hải Kinh" để chỉ những sinh vật khổng lồ. Sau khi sakoku kết thúc và Nhật Bản mở cửa cho các quan hệ đối ngoại, thuật ngữ kaijai được sử dụng để diễn tả các khái niệm từ cổ sinh vật học và các sinh vật huyền thoại từ khắp nơi trên thế giới. Ví dụ, vào năm 1908, người ta cho rằng Ceratosaurus đã tuyệt chủng còn sống ở Alaska,. Tuy nhiên, không có một mô tả truyền thống nào về các sinh vật giống kaiju hoặc kaiju trong văn hóa dân gian Nhật Bản; nguồn gốc của kaiju thường chỉ thấy trong phim. Sự xuất hiện đầu tiên của kaijū nằm trong một tựa phim tên Genshi Kaijū ga Arawareru (). Tuy nhiên, Godzilla 1954 mới được coi là bộ phim kaiju đầu tiên. Tomoyuki Tanaka, nhà sản xuất của Toho Studios tại Tokyo,cần một bộ phim để phát hành sau khi dự án trước đó của anh bị dừng lại nên đã chọn godzilla. Thấy rằng Hollywood có những bộ phim về quái vật khổng lồ là King Kong và The Beast from 20,000 Fathoms đã từng rất nổi tại các phòng vé Nhật Bản,bản thân là một fan hâm mộ của những bộ phim này, anh bắt đầu thực hiện một bộ phim mới dựa trên chúng và tạo ra Godzilla. Godzilla đã thành công thương mại ở Nhật Bản và truyền cảm hứng cho các bộ phim kaiju khác.Ban đầu, King Kong vốn là sản phẩm của phương Tây sau đó đã được điện ảnh Nhật Bản đưa vào Kaiju Universe của họ khi cho nó đối đầu với Godzilla - con Kaiju vĩ đại nhất. Các thuật ngữ Kaijū Có cách gọi khác là "strange beast" hay quái vật khổng lồ. Kaiju là những sinh vật khổng lồ, được mô tả là nhân vật chính hoặc trung lập trong tự nhiên. Godzilla đã đảm nhận các vai trò khác nhau trong Godzilla franchise. Một số kaiiju khác thường thấy là: Rodan, Mothra, King Ghidorah, Gigan, Gaira and Sanda, King Kong, Gamera, Daimajin, Gappa, Guilala. Daikaiju Daikaijū () là những quái vật rất to lớn, lớn hơn rất nhiều so với kaiju. Sự phân biệt này không hoàn toàn chính xác. Thuật ngữ này được sử dụng cho kaiju mạnh nhất hoặc có vai trò lớn. daikaiju đầu tiên có thể là Rodan, . Godzilla, Rodan, Mothra là bộ ba daikaijū - bộ ba kaiju mạnh nhất. Kaijin Kaijin () là những quái nhân có kích thước, hình dáng tương tự với con người xuất hiện trong tokusatsu media,có tên khác là "monster man" hoặc "mystery man". Seijin Seijin (), nghĩa đen là "người sao" có thể hiểu đơn giản chính là người ngoài hành tinh Kaijū eiga Kaijū eiga (, "kaiju movie") là bộ phim tập hợp nhiều kaiju Sản xuất Toho là đơn vị sản xuất chính và sở hữu bản quyền nhưng bên cạnh đó vẫn có sự tham gia của các công ty khác như Daiei Film (Kadokawa Pictures), Tsuburaya Productions, and Shochiku và Nikkatsu Studios. Legendary cũng mua bản quyền sản xuất phim về kaiju như Godzilla 2014, King of the monster,... Kĩ xảo Eiji Tsuburaya, đơn vị thiết kế đồ họa cho Gojira, đã phát triển một kĩ thuật làm kaiju trông sống động được gọi là "suitmation". Phương Tây thường sử dụng stop motion để tạo sự sống động cho quái vật, Tsubaraya quyết định cố gắng để tạo ra bộ đồ, được gọi là "creature suits", cho diễn viên mặc (suit actor) để diễn như một kaiju. Họ tạo ra một mô hình thành phố thu nhỏ và diễn cảnh tàn phá thành phố đó. Việc quay phim thường được quay với tốc độ gấp đôi để trông kaiju mượt mà và sống động nhất có thể. Bắt đầu từ năm 1988 các bộ phim kaiju do Mỹ phát hành thường sử dụng computer-generated imagery (CGI). Tại Nhật Bản, CGI và stop-motion được sử dụng song song trong phần lớn các bộ phim. Phát hành phải|nhỏ|Godzilla và Anguirus from the 1955 film Godzilla Raids Again film. The film was the first to feature two kaiju battling each other. This would go on to become a common theme in kaiju films. phải|nhỏ|Daikaiju (giant monster) Rodan from the 1956 film Rodan Phim King Kong (1933) Son of Kong (1933) Wasei Kingu Kongu (1933) King Kong Appears in Edo (1938) The Arctic Giant (Superman Cartoon) (1942) The Beast From 20,000 Fathoms (1953) Godzilla series (1954 – ?)Godzilla (1954) Godzilla Raids Again (1955) King Kong vs. Godzilla (1962) Mothra vs. Godzilla (1964) Ghidorah, the Three-Headed Monster (1964) Invasion of Astro-Monster (1965) Ebirah, Horror of the Deep (1966) Son of Godzilla (1967) Destroy All Monsters (1968) All Monsters Attack (1969) Godzilla vs. Hedorah (1971) Godzilla vs. Gigan (1972) Godzilla vs. Megalon (1973) Godzilla vs. Mechagodzilla (1974) Terror of Mechagodzilla (1975) The Return of Godzilla (1984) Godzilla vs. Biollante (1989) Godzilla vs. King Ghidorah (1991) Godzilla vs. Mothra (1992) Godzilla vs. Mechagodzilla II (1993) Godzilla vs. SpaceGodzilla (1994) Godzilla vs. Destoroyah (1995) Godzilla 2000: Millennium (1999) Godzilla vs. Megaguirus (2000) Godzilla, Mothra and King Ghidorah: Giant Monsters All-Out Attack (2001) Godzilla Against Mechagodzilla (2002) Godzilla: Tokyo S.O.S. (2003) Godzilla: Final Wars (2004) Shin Godzilla (2016) Godzilla: Planet of the Monsters (2017) Godzilla: City on the Edge of Battle (2018) Godzilla: The Planet Eater (2018) Half Human (1955) Rodan (1956) Warning from Space (1956) The Giant Claw (1957) The Deadly Mantis (1957) The Mysterians (1957) Kronos (1957) 20 Million Miles to Earth (1957) Varan the Unbelievable (1958) The Giant Behemoth (1959) The Three Treasures (1959) The Black Scorpion (1957) Konga (1961) Reptilicus (1961) Mothra (1961) Gorgo (1961) Gorath (1962) Atragon (1963) Matango (1963) Dogora (1964) Frankenstein Conquers the World (1965) Gamera: The Giant Monster (1965) Gamera vs. Barugon (1966) Gamera vs. Gyaos (1967) Gamera vs. Viras (1968) Gamera vs. Guiron (1969) Gamera vs. Jiger (1970) Gamera vs. Zigra (1971) Gamera: Super Monster (1980) The Magic Serpent (1966) Daimajin (1966) The War of the Gargantuas (1966) The X from Outer Space (1967) Monster X Strikes Back: Attack the G8 Summit (2008) Gappa: The Triphibian Monster (1967) King Kong Escapes (1967) Ultra Series (1967 – ?)Ultraman (1967) Ultraman, Ultraseven: Great Violent Monster Fight (1969) The 6 Ultra Brothers vs. the Monster Army (1974) Ultraman (1979) Ultraman: Great Monster Decisive Battle (1979) Ultraman Zoffy: Ultra Warriors vs. the Giant Monster Army (1984) Ultraman Story (1984) Ultraman: The Adventure Begins (1987) Ultra Q The Movie: Legend of the Stars (1990) Ultraman Zearth (1996) Ultraman Tiga & Ultraman Dyna: Warriors of the Star of Light (1998) Ultraman Gaia: The Battle in Hyperspace (1999) Ultraman Tiga: The Final Odyssey (2000) Ultraman Cosmos: The First Contact (2001) Ultraman Cosmos 2: The Blue Planet (2002) Ultraman Cosmos vs. Ultraman Justice: The Final Battle (2003) Ultraman: The Next (2004) Ultraman Mebius & Ultraman Brothers (2006) Superior Ultraman 8 Brothers (2008) Mega Monster Battle: Ultra Galaxy Legends (2009) Ultraman Zero: The Revenge of Belial (2010) Ultraman Saga (2012) Ultraman Ginga Theater Special (2013) Ultraman Ginga Theater Special: Ultra Monster Hero Battle Royal! (2014) Ultraman Ginga S The Movie (2015) Ultraman X The Movie (2016) Ultraman Orb The Movie (2017) Ultraman Geed The Movie (2018) Ultraman R/B The Movie (2019) Yongary: Monster from the Deep (1967) Space Amoeba (1971) Daigoro vs. Goliath (1972) Jumborg Ace & Giant (1974) King Kong (1976) King Kong Lives (1986) A*P*E (1976) Legend of Dinosaurs & Monster Birds (1977) The Mighty Peking Man (1977) Q - The Winged Serpent (1982) Pulgasari (1985) Gunhed (1989) Yamato Takeru (1994) Gamera: Guardian of the Universe (1995) Gamera 2: Attack of Legion (1996) Gamera 3: Revenge of Iris (1999) Rebirth of Mothra (1996) Rebirth of Mothra II (1997) Rebirth of Mothra III (1998) Zarkorr! The Invader (1996) Kraa! The Sea Monster (1998) Godzilla (1998) Yonggary (1999) Nezulla the Rat Monster (2002) Garuda (2004) King Kong (2005) Chousei Kantai Sazer-X the Movie: Fight! Star Warriors (2005) Negadon: The Monster from Mars (2005) Gamera the Brave (2006) The Host (2006) D-War (2007) Big Man Japan (2007) Deep Sea Monster Reigo (2008 Nhật, 2020 Mỹ) Cloververse series (2008 - ?)Cloverfield (2008) 10 Cloverfield Lane (2016) The Cloverfield Paradox (2018) Mega Shark Versus Giant Octopus (2009) Mega Shark Versus Crocosaurus (2010) Mega Shark Versus Mecha Shark (2014) Mega Shark vs. Kolossus (2015) Death Kappa (2010) Pacific Rim (2013) Pacific Rim: Uprising (2018) MonsterVerse (2014 – hiện tại) Godzilla (2014)Kong: Skull Island (2017)Godzilla: King of the Monsters (2019)Godzilla vs. Kong (2020)Colossal (2017)Rampage (2018)The Asylum's Monster Island (2019) Truyện tranh Cloverfield/Kishin (Kadokawa Shoten; 2008) Go Nagai Creator of KaijusGarla (ガルラ, garura)(1976- 1978 - Tomy Company, Ltd.) MachineSaur (マシンザウラー, マシンサウル, Machine Sauer, Mashinzaura)(1979- 1986 - Tomy Company, Ltd.) Kaiju Girl Caramelise (2018) Neon Genesis Evangelion (Kadokawa Shoten; 1994 – 2013) ULTRAMAN (Shogakukan; 2011 – ?) Godzilla comics (Toho; 1976 – ?) Tokyo Storm Warning (Wildstorm; 2003) Kaijumax (Oni Press; 2015 – ?) The Stone King (ComiXology Original; 2018 – ?) Video games Godzilla video games (Toho; 1983 – ?) Ultraman video games (Tsuburaya; 1984 – ?) Time Gal (Taito; 1985) Simulator Kaiju Destroy and Combats (2020) King of the Monsters (SNK; 1991) California Protectors vs Destroys the Game (Warner Bros. Interactive Entertainment, Nintendo of America; 2020) Rampage (1986) (formerly owned by Midway Games - Warner Bros. Interactive Entertainment; 2021)Rampage (2021 Reboot) (Warner Bros. Interactive Entertainment; 1986, 2019) Robot Alchemic Drive (Sandlot; 2002) War of the Monsters (Sony, Incognito Entertainment; 2003) Peter Jackson's King Kong (2005) Pacific Rim video game (Yuke's/Reliance; 2013) Board games Godzilla Game Monsterpocalypse King of Tokyo Chương trình TV Marine Kong (Nisan Productions; 1960) Ultra Series (Tsuburaya Productions; 1966 –) Ambassador Magma (P Productions; 1966 – 1967) The King Kong Show (Toei Animation; 1966 – 1969) Kaiju Booska (Tsuburaya Productions; 1966 – 1967) Captain Ultra (Toei Company;, 1967) Kaiju Ouji (P Productions; 1967 – 1968) Giant Robo (Toei Company; 1967 – 1968) Giant Phantom Monster Agon (Nippon Television; 1968) Mighty Jack (Tsuburaya Productions; 1968) Spectreman (P Productions; 1971 – 1972) Kamen Rider Series (Toei Company; 1971 –) Silver Kamen (Senkosha Productions; 1971 – 1972) Mirrorman (Tsuburaya Productions; 1971 – 1972) Redman (Tsuburaya Productions;1972) Thunder Mask (Nippon Television; 1972 – 1973) Ike! Godman (Toho Company; 1972 – 1973) Assault! Human!! (Toho Company; 1972) Iron King (Senkosha Productions; 1973) Jumborg Ace (Tsuburaya Productions; 1973) Fireman (Tsuburaya Productions; 1973) Zone Fighter (Toho Company; 1973) Super Robot Red Baron (Nippon Television; 1973 – 1974) Kure Kure Takora (Toho Company; 1973 – 1974) Ike! Greenman (Toho Company; 1973 – 1974) Super Robot Mach Baron (Nippon Television; 1974 – 1975) Super Sentai (Toei Company; 1975 –) Dinosaur War Izenborg (Tsuburaya Productions; 1977 – 1978) Spider-Man (Toei Company; 1978 – 1979) Godzilla (Hanna-Barbera; 1978 – 1979) Megaloman (Toho Company; 1979) Metal Hero Series (Toei Company; 1982 – 1999) Denkou Choujin Gridman (Tsuburaya Productions; 1993 – 1994) Power Rangers (Saban Entertainment; 1993 –) Neon Genesis Evangelion (Gainax; 1995 – 1996) Godzilla Island (Toho Company; 1997 – 1998) Godzilla: The Series (Sony Pictures Television; 1998 – 2000) Kong: The Animated Series (BKN; 2000 – 2001) Tekkōki Mikazuki (Media Factory; 2000 – 2001) SFX Giant Legend: Line (Independent; 2003) Chouseishin Series (Toho Company; 2003 – 2006) Bio Planet WoO (Tsuburaya Productions; 2006) Daimajin Kanon (Kadokawa Pictures; 2010) SciFi Japan TV (ACTV Japan;2012 –) Kong: King of the Apes (Netflix; 2016 –) Enormous (Netflix; 2020 –) Kaiju and Humans (TBA; 2020-2021 -) Khác Batholith The Summit Kaiju (Summit Kaiju International; 2017 –) Thông tin khác Steven Spielberg có nhắc tới Godzilla như một nguồn cảm hứng cho Jurassic Park (1993). Một cảnh trong bộ phim thứ hai (Thế giới đã mất: Công viên kỷ Jura), T-Rex đang hoành hành qua San Diego, Một cảnh cho thấy các doanh nhân Nhật Bản chạy trốn. Một trong số họ tuyên bố rằng họ rời Nhật Bản để thoát khỏi điều này, ám chỉ rằng Godzilla có cùng vũ trụ với các bộ phim Công viên kỷ Jura. Godzilla cũng ảnh hưởng đến bộ phim Jaws (1975). Trong bộ anime Cardcaptor Sakura, anh trai Toya của Sakura thích trêu chọc cô bằng cách thường xuyên gọi cô là "kaiju", liên quan đến việc cô đi xuống từ phòng ăn sáng mỗi sáng. Một phiên bản khác của kaiju - Godzilla, Mothra, Gamera, King Ghidorah,Daimajin - là Usagi Yojimbo "Sumi-e". Trong Star Wars: The Clone Wars, có một câu chuyện trong hai tập phim có tên "Quái vật Zillo" và "Quái vật Zillo tấn công trở lại", chủ yếu chịu ảnh hưởng từ các bộ phim Godzilla, trong đó một con thú bò sát khổng lồ được vận chuyển từ quê nhà Malastare đến hành tinh bao phủ thành phố Coruscant. Legendary Pictures đã tạo ra MonsterVerse, tổ chức Monarch gọi các kaiju'' là "titans". Trong bộ phim Crank: High Voltage năm 2009, có một chuỗi phim nhại kaiju sử dụng các kỹ thuật hiệu ứng thực tế tương tự được sử dụng cho các bộ phim tokusatsu như thu nhỏ và phù hợp. Trong Penn Zero: Anh hùng bán thời gian, có một chiều chứa đầy những con quái vật khổng lồ sống trên một hòn đảo nơi chúng cùng tồn tại với con người sống trên một thành phố. Trong bộ phim năm 2013 Pacific Rim và phần tiếp theo 2018 Pacific Rim Uprising, kaiju là những quái vật đa chiều khổng lồ xâm chiếm Trái đất và cố gắng tiêu diệt loài người. rong sê-ri "Sorcerous Stabber Orphen", kaiju được gửi đến như một hình thức trừng phạt cho sự phá vỡ các luật lệ bất diệt của thế giới bởi các Nữ thần Định mệnh. Trong phần hai của Star Wars: The Clone Wars, có một câu chuyện gồm hai tập có tựa đề "Quái vật Zillo" và "Quái vật Zillo tấn công trở lại", chủ yếu chịu ảnh hưởng từ các bộ phim Godzilla, trong đó một con thú bò sát khổng lồ được vận chuyển từ Malastare quê nhà của nó đến hành tinh Coruscant bao phủ thành phố, nơi nó bị vỡ ra và nổi điên. Tham khảo Tokusatsu Khoa học viễn tưởng Người khổng lồ giả tưởng Tiểu thể loại của thể loại kỳ ảo Thể loại phim Phim về quái vật Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai Kaiju
2844038
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onthophagus%20lecontei
Onthophagus lecontei
Onthophagus lecontei là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae). Chú thích Liên kết ngoài L
2573498
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pterolophia%20marmorata
Pterolophia marmorata
Pterolophia marmorata là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Pterolophia
2608251
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ectropis%20prospila
Ectropis prospila
Ectropis prospila là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Tham khảo Ectropis
15344956
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20sinh%20th%C3%A1i%20v%C4%A9%20m%C3%B4
Hệ sinh thái vĩ mô
Hệ sinh thái vĩ mô là lĩnh vực sinh thái học liên quan đến nghiên cứu mối quan hệ giữa các sinh vật và môi trường của chúng ở quy mô không gian lớn để mô tả và giải thích các mô hình thống kê về sự phong phú, phân bố và đa dạng. Thuật ngữ được đặt ra bởi James Brown của Đại học New Mexico và Brian Maurer của Đại học bang Michigan trong một bài báo năm 1989 trên tạp chí Science. Hệ sinh thái vĩ mô tiếp cận ý tưởng nghiên cứu hệ sinh thái bằng cách sử dụng phương pháp "từ trên cao xuống thấp". Nó tìm kiếm sự hiểu biết thông qua việc nghiên cứu các thuộc tính của toàn bộ hệ thống; Kevin Gaston và Tim Blackburn đã tiến hành so sánh phân tích để có thể nhìn thấy tổng thể từ chi tiết. Hệ sinh thái vĩ mô kiểm tra sự phát triển toàn cầu trong biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến quần thể động vật hoang dã. Các câu hỏi sinh thái cổ điển có thể nghiên cứu thông qua các kỹ thuật vĩ mô bao gồm các câu hỏi về sự phong phú của loài, độ dốc vĩ độ trong đa dạng loài, đường cong khu vực loài, kích thước phạm vi, kích thước cơ thể và sự phong phú của loài. Ví dụ, mối quan hệ giữa sự phong phú và phạm vi phân bố (tại sao các loài duy trì kích thước quần thể địa phương lớn có xu hướng phân bố rộng rãi, trong khi các loài ít phong phú hơn có xu hướng phân bố hẹp hơn) đã nhận được nhiều sự chú ý. Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Tạp chí khoa học về hệ sinh thái vĩ mô: Sinh thái học và Sinh trắc học toàn cầu Sinh thái học Đa dạng và phân phối Nghiên cứu sinh thái tiến hóa Sinh thái học hệ thống Sinh thái học
19722668
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xe%20n%C3%A2ng%20%C4%91a%20n%C4%83ng
Xe nâng đa năng
Xe nâng đa năng hay còn gọi là telehandler hay telescopic handler, là một loại máy được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp và công nghiệp. Nó hơi giống một chiếc xe nâng nhưng có một cần trục (xi lanh ống lồng), khiến nó giống như một chiếc cần trục hơn là một chiếc xe nâng, với tính linh hoạt cao hơn của một cần ống lồng duy nhất có thể kéo dài về phía trước và lên trên cao so với xe. Đầu cần có thể được lắp với các phụ kiện chức năng khác nhau, chẳng hạn như gầu xúc, càng nâng pallet, giỏ nâng người hoặc móc cẩu. Ứng dụng Nông nghiệp Công nghiệp Lâm nghiệp Hàng không Logistic Quốc phòng Tham khảo Liên kết ngoài Máy nông nghiệp Thiết bị xây dựng Cần cẩu
15277876
https://vi.wikipedia.org/wiki/NGC%203621
NGC 3621
NGC 3621 là tên của một thiên hà xoắn ốc nằm trong một chòm sao ở vùng xích đạo tên là Trường Xà. Nó tương đối sáng và có thể nhìn thấy rõ bằng một kính thiên văn có kích cỡ trung bình. Kích thước của thiên hà này là khoảng 93000 năm ánh sáng (khoảng 29000 parsec) và nghiêng một góc 25 độ từ điểm nhìn của trái đất. Nó là một thiên hà tiêng lẻ, không hề thuộc bất kì một nhóm thiên hà hay một cụm thiên hà nào và khoảng cách của nó với chúng ta là khoảng 22 triệu năm ánh sáng (6,7 triệu parsec). Độ sáng của nó gấp 13 tỉ lần mặt trời. Phân loại hình thái học của nó là SA(s)d, ý chỉ rằng nó là một thiên hà xoắn ốc bình thường với các nhánh xoắn ốc xoắn một cách lỏng lẻo. Không có bằng chứng nào cho thấy nó có một điểm phình thiên hà. Mặc dù nó hoàn toàn bị cô lập, nhưng NGC 3621 được khẳng định là nằm trong mũi Leo. Thiên hà này có một nhân thiên hà hoạt động, khớp với quang phổ của nó là Seyfert 2. Điều này nghĩa là nó có một lỗ đen siêu khối lượng có khối lượng thấp ở lõi của nó. Dựa trên những chuyển động của những ngôi sao ở nhân của nó, lỗ đen này có khối lượng lên đến 3 triệu lần khối lượng mặt trời. Dữ liệu hiện tại Theo như quan sát, đây là thiên hà nằm trong chòm sao Xử Nữ và dưới đây là một số dữ liệu khác: Xích kinh Độ nghiêng Giá trị dịch chuyển đỏ 0.002435 ± 0.000007 Cấp sao biểu kiến 10.0 Vận tốc xuyên tâm 727 km/s Loại thiên hà SA(s)d Bộ sưu tập Tham khảo Liên kết ngoài A Picture-perfect Pure-disc Galaxy — Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu Photo release. Thiên hà xoắn ốc không thanh Field galaxies Thiên thể NGC Chòm sao Trường Xà
19781971
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lutjanus%20papuensis
Lutjanus papuensis
Lutjanus papuensis là một loài cá biển thuộc chi Lutjanus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2013. Từ nguyên Từ định danh papuensis được đặt theo tên của tỉnh Tây Papua (hậu tố ensis chỉ nơi chốn trong tiếng Latinh), do loài cá này được thu thập đầu tiên ở vịnh Cenderawasih. Phạm vi phân bố và môi trường sống L. papuensis mới chỉ được quan sát và ghi nhận tại tỉnh Tây Papua (Indonesia); đảo Manus và tỉnh Milne Bay (Papua New Guinea); các đảo Santa Isabel, Malaita, New Georgia thuộc quần đảo Solomon, cũng như tại Đông Timor. L. papuensis được thu thập trên các rạn san hô ở độ sâu khoảng 6–15 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. papuensis là 26 cm. Loài này thường có màu nâu nâu, đôi khi phớt xanh lam hoặc tím nhạt ở thân trên, vây lưng và vây đuôi. Thân dưới và bụng màu vàng, nhưng vùng ngực và dưới đầu có màu đỏ cam (phần đầu có vảy có màu vàng cam nhạt). Vây bụng và vây hậu môn màu vàng tươi. Vây ngực trong mờ, phớt vàng với đốm đen lớn ở gốc các tia trên cùng. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 17; Số vảy đường bên: 47–48. So sánh Qua phân tích tiểu đơn vị cytochrome c oxidase I của DNA ty thể, người ta nhận thấy L. papuensis tạo thành nhóm chị em với Lutjanus bitaeniatus và Lutjanus lemniscatus. Tuy nhiên, cả 3 đều có sự khác biệt rõ rệt về kiểu hình. Lutjanus lunulatus lại có kiểu hình khá giống với L. papuensis, đặc biệt là vùng màu vàng ở thân dưới và các vây ở đó, nhưng L. lunulatus khác biệt bởi có thêm một vệt đen lớn hình lưỡi liềm trên vây đuôi. Ngược lại, kiểu gen của L. papuensis lại khác hẳn so với L. lunulatus. Tham khảo Nguồn P Cá Thái Bình Dương Cá Papua New Guinea Động vật quần đảo Solomon Động vật được mô tả năm 2013
19666839
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AB%20Th%E1%BB%A9c%20g%E1%BA%B7p%20ti%C3%AAn
Từ Thức gặp tiên
Từ Thức gặp tiên là một trong bảy vở chèo cổ đầu tiên của nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Các vở chèo kinh điển của nghệ thuật chèo được lưu giữ lại đến nay gồm: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Chu Mãi Thần, Kim Nham, Lưu Bình - Dương Lễ, Trinh Nguyên và Từ Thức gặp tiên mang tính tiêu biểu, được coi là chuẩn mực, tạo ra sức ảnh hưởng lớn cho nền nghệ thuật chèo Việt Nam hiện nay. Hầu hết các làn điệu chèo đều được trích ra từ các vở chèo kinh điển này. Nội dung Từ Thức quê ở ở Hòa Châu (Thanh Hóa). Ông làm một chức quan nhỏ thuộc huyện Tiên Du, Bắc Ninh. Do có sở thích hay đi ngao du, xem phong cảnh đẹp và làm thơ nên ông xin từ quan về quê Tống Sơn (Thanh Hóa). Khi trước có một ngôi chùa danh tiếng, khi Từ Thức đến thăm chùa có nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp đến xem hoa nhỡ tay vịn gãy một cành hoa mẫu đơn, không có gì để đền, nên bị các chú tiểu nhà chùa bắt giữ lại để phạt vạ. Từ Thức liền cởi áo mặc ngoài, chuộc cho thiếu nữ. Mọi người đứng xem đều khen Từ Thức là người nhân đức. Từ Thức nghe danh cửa Thần Phù huyện Tống Sơn có nhiều núi đẹp, liền đem theo một tiểu đồng và một túi đàn đến dựng một gian nhà nhỏ ở chân núi để ở. Một hôm, dậy sớm, trông ra cửa Thần Phù thấy có mây ngũ sắc kết thành hình hoa sen, Từ Thức một mình chèo thuyền ra phía ấy. Đến chân một dãy núi cao ngất, chạy sát mặt biển, Từ Thức buộc thuyền lên bờ và trèo lên một mỏm đá cao. Chợt trông thấy một cái hang bên sườn núi. Từ Thức mới đi được vài bước thì cửa hang bỗng đóng ập lại. Từ Thức phải lần theo khe nước mà đi. Thấy núi cao vòi vọi, sườn núi dốc ngược, Từ Thức cố bám vào hốc đá trèo lên. Lên cao, ông thấy có đường rộng, rồi lên đến đỉnh núi thì trời quang đãng, ánh sáng rực rỡ, xa xa có lâu đài cung điện nhấp nhô bên những lùm cây xanh. Phu nhân bảo thị nữ gọi một tiểu thư ra. Vừa trông thấy, Từ Thức nhận ngay ra người con gái đánh gãy cành hoa mẫu đơn trong chùa ngày nọ. Người con gái đó có tên là Giáng Hương, mang ơn của Từ Thức nên đem lòng cảm kích. Ngay đêm hôm ấy, phu nhân sai mở tiệc hoa, cho hai người làm lễ thành hôn. Từ Thức ở được chừng một năm, có ý nhớ nhà, nói với Giáng Hương rằng: " Tôi đi xa nhà đã lâu, lắm lúc nhớ quê cũ, muốn về thăm một chút". Giáng Hương khuyên rằng: "Thiếp không phải vì tình lưu luyến hẹp hòi mà ngăn trở ý định của chàng, chỉ vì ở trần gian tháng ngày ngắn ngủi, sợ chàng có về đến nhà, cũng không thấy còn như trước nữa". Sau đó vị phu nhân mới sai người lấy một cỗ xe để tiễn đưa chàng. Giáng Hương viết một phong thư dán kín đưa cho chồng, dặn đến nhà hãy mở ra xem. Từ Thức từ biệt Giáng Hương và Phu nhân, rồi lên xe, chỉ chớp mắt đã về đến làng cũ. Phong cảnh khác hẳn xưa, chỉ còn hai bên khe núi là vẫn nguyên như trước. Chàng đem họ tên mình hỏi thăm các cụ già trong làng thì có một cụ trả lời: "Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm. Từ Thức buồn rầu, muốn lại ngồi lên xe tiên để đi, thì xe đã hóa thành chim loan bay đi mất rồi. Mở bức thư của Giáng Hương ra xem, chàng chỉ thấy có dòng chữ: "Ở nơi tiên cảnh, cùng nhau kết bạn, nay duyên xưa đã hết, không còn mong hội ngộ". Về sau, người ta thấy Từ Thức đội cái nón nhỏ vào núi Hoàng Sơn (thuộc huyện Nông Cống, Thanh Hóa) không thấy trở về nữa. Giá trị nội dung và nghệ thuật Có ý kiến nghiên cứu nhận định rằng chèo thiên về tính nữ thì ở vở chèo Từ Thức nhận định này lại là không đúng. Nghệ thuật sân khấu chèo diễn tả tình cảm nội tâm đậm chất trữ tình của nhân vật, cốt truyện tới nhân vật, tới làn điệu chèo. Vở chèo với nội dung chính là tình yêu giữa Từ Thức và Giáng Hương, giữa người trần và tiên, đã tạo nên một câu chuyện cổ tích đầy tính thơ và huyền ảo. Người xem cảm nhận rõ tính “trữ tình” qua những làn điệu dân thiết tha, gần gũi, dễ làm rung động lòng người. Bối cảnh sân khấu chính của vở chèo là cảnh thiên nhiên, sông núi quê hương nên thơ càng tăng thêm chất trữ tình. Về nghệ thuật sân khấu – Bối cảnh sân khấu, trang phục, đạo cụ biểu diễn: Toàn bộ vở kịch được trình diễn trên một sân khấu và không có đoạn thay màn diễn. Khung cảnh được xây dựng là cảnh núi cao, mây trắng, đó là khung cảnh tiên giới. Trên sân khấu cũng không có nhiều đạo cụ, mọi đồ vật gần như là do hành động của nhân vật tạo nên. Chẳng hạn như lúc Giáng Hương và Từ Thức uống rượu giao bôi, trên tay họ không có chén mà họ tạo hình bàn tay như đang cầm chén. Các cảnh trang trí, trang phục, đạo cụ biểu diễn gần như đã phác họa tính cách nhân vật một cách rõ nét. Nhân vật Từ Thức khăn xếp, áo the thể hiện rõ khí chất người có tài, con người đĩnh đạc, chỉn chu. Nhân vật hề áo nâu, có phần lôi thôi thể hiện rõ chất dân dã, xuề xòa. Nhân vật Giáng Hương và các nàng tiên váy lụa thiết tha yểu điệu. Trong vở “Từ Thức gặp tiên”, chiếc quạt trong tay nhân vật Từ Thức được sử dụng vô cùng linh hoạt, khi là mái chèo mở đầu vở diễn, lúc là phong thư không bị gò ép vào bất cứ một hình thức nghệ thuật nào trên sân khấu. Với nhân vật hề, đạo cụ là gậy gỗ, chiếc gậy trong tay anh hề khi theo hầu cậu khi dùng để quấn túi hành trang, khi cắp nách, lúc cầm ở tay lúc lại để múa để đùa nghịch, vui cười. Bản năng sáng tạo của người nghệ sỹ đã làm cho chiếc gậy trở nên có thần, nó vô tri mà chứa đựng sức sống mang lại được tiếng cười sảng khoái. Trong vở chèo này, dân gian đã xây dựng một nhân vật Từ Thức với vẻ ngoài thư sinh tri thức, có học với những cử chỉ vô cùng tao nhã; khuôn mặt và vóc dáng nhã nhặn; cách nói chuyện lịch sự, ngữ điệu nhẹ nhàng, không cường điệu. Trong phần đầu khi trên sân khấu chỉ có Từ Thức và Hề, lời thoại của Từ Thức khá ít, chủ yếu gây chú ý ở vẻ bề ngoài hết sức lịch thiệp. Chỉ đến phân đoạn cuối khi gặp Giáng Hương, chàng mới có dịp thể hiện những phẩm chất và bày tỏ lòng mình. Giáng Hương, là nhân vật nữ chính của vở chèo tuy xuất hiện khá muộn nhưng cũng đã thể hiện được phần nào tính cách và tấm lòng của nàng. Với những cử chỉ yểu điệu, e lệ, nàng là một cô gái tuyệt sắc. Sau lần được Từ Thức cứu giúp tại chùa, nàng đã đem lòng cảm mến chàng và có mong muốn cùng chàng nên duyên. Để xây dựng nên một Giáng Hương đẹp người đẹp nét, dân gian đã sử dụng nhiều yếu tố kì ảo, mang hơi hướng của truyện cổ tích. Trong vở chèo “Từ Thức gặp tiên”, nhân vật hề xuất hiện là hề gậy. Hề là nhân vật có nhiều lời thoại và gây được nhiều sự chú ý nhất. Với ngữ điệu cường điệu hóa, có những sự việc rất đỗi bình thường nhưng qua lời kể của Hề nó lại thành một câu chuyện vô cùng thú vị: “Con mắc dở khai đao hai vợ chồng con chó chuộc nó đẻ nhau làm nát cái ao rau cần con mới bắt nó ra xé xác phanh thây để tăng trình lột thảm”. “Khai đao, xé xác phanh thây” mặc dù là những động từ rất mạnh mẽ nhưng lại được hề nói ra như thể đó là ngôn ngữ thông thường. Thêm nữa, những lí giải của Hề về các sự việc cũng rất trẻ con, rất thuần. Hề cho rằng: “Người ốm thì da xanh ngăn ngắt vậy nên trời xanh nghĩa là trời đang ốm”. Đó là những suy nghĩ hết sức tự nhiên, thấy gì nói ấy. Hay như cách nói ngược thời gian: Kêu đau vì bị ngựa đá nhưng hóa ra là con ngựa nó hẹn mai ra cổng mới đá làm cho người xem cảm thấy rất thú vị. Không chỉ tạo sự hài hước bằng những suy nghĩ ấy, hề còn gây tiếng cười với những lối chơi chữ trong dân gian như “ba vợ” là “vơ bạ”; “vợ con” là “còn vơ”. Với “Từ Thức gặp tiên” vở chèo mang một nét đặc sắc riêng, một phong cách nhẹ nhàng hơn, mang lại cho người nghe những tiếng cười nhưng ẩn sau đó là những giá trị đạo đức sâu sắc. Tiêu biểu ở đoạn cuối vở chèo, khi Từ Thức cùng Giáng Hương và các nàng tiên múa, say ca thưởng rượu, âm thanh chèo là sự hòa tấu các nhạc cũ có tiếng trống cơm bập bùng, tiếng nhị réo rắt, tiếng trống con kết hợp hài hòa tạo thành một bản nhạc đậm chất trữ tình, xao xuyến lòng người. Vở chèo “Từ Thức gặp tiên” là sự ngợi ca tình yêu giữa trần và tiên, vẽ lên một cõi mơ mộng cổ tích, thể hiện ước mơ về lẽ công bằng của dân gian “ở hiền gặp lành/ ác giả ác báo”. Đồng thời, nó còn khắc họa rõ nét khát vọng của nhân dân Việt Nam ta luôn hướng về cõi tiên, mong muốn một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Không chỉ vậy, vở chèo còn vẽ nên bức tranh phong cảnh hữu tình nên thơ của quê hương đất nước, tấm lòng son sắc với quê hương của Từ Thức, thể hiện lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân. Dấu ấn các nghệ sĩ NSND Thanh Hoài (Trường Đại học Sân khấu điện ảnh Hà Nội) vai Giáng Hương trong vở Từ Thức gặp tiên để lại trong bà nhiều kỷ niệm nhất. Đó là năm Nhà hát Chèo Việt Nam mang vở này đi Hội diễn Sân khấu chèo toàn quốc năm 1990, khi chỉ còn 2 ngày nữa là đến buổi diễn chính thức thì cô diễn viên chính bị ốm, đi nằm viện và Thanh Hoài được thế chân. Và thật bất ngờ bà được nhận Huy chương Vàng với vai diễn Giáng Hương. NSƯT Thảo Quyên và NSƯT Hồng Nam (Nhà hát Chèo Hà Nội) cũng rất thành công với vai diễn Giáng Hương và Từ Thức trong trích đoạn chèo Từ Thức gặp tiên. Vở chèo Từ Thức của Nhà hát Chèo Việt Nam giành Huy chương Vàng tại hội diễn sân khấu chèo năm 1990. Xem thêm Vở chèo Từ Thức - Nhà hát Chèo tỉnh Thái Bình Trích đoạn vở chèo Từ Thức: Từ Thức gặp tiên (Nhà hát chèo Hà Nội) Trích đoạn vở chèo Từ Thức: Từ Thức gặp tiên (Nhà hát chèo Việt Nam) Chú thích Vở chèo Kịch Việt Nam
19686640
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20t%E1%BB%AD%20Leopold%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Albany
Vương tử Leopold, Công tước xứ Albany
Vương tử Leopold của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Albany (Leopold George Duncan Albert; 7 tháng 4 năm 1853 - 28 tháng 3 năm 1884) là con thứ tám và là con trai út của Victoria của Anh và Vương tế Albert. Leopold sau đó được ban cho tước hiệu Công tước xứ Albany, Bá tước xứ Clarence và Nam tước xứ Arklow. Ông mắc bệnh máu khó đông, đây là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông sau khi bị ngã ở tuổi 30. Cuộc sống đầu đời Leopold sinh ngày 07 tháng 04 năm 1853 tại Cung điện Buckingham, Luân Đôn, là con thứ tám và là con trai út của Victoria của Anh và Vương tế Albert. Trong quá trình chuyển dạ, Victoria của Anh đã chọn sử dụng chloroform và do đó khuyến khích việc sử dụng gây mê khi sinh con, được phát triển gần đây bởi Giáo sư James Young Simpson. Thuốc cloroform được quản lý bởi John Snow. Là con trai của quốc vương Anh, đứa trẻ sơ sinh được phong là His Royal Highness Vương tử Leopold. Tên của ông được đặt là Leopold theo tên người chú, Vua Léopold I của Bỉ. Ông được rửa tội trong Nhà nguyện riêng của Cung điện Buckingham vào ngày 28 tháng 06 năm 1853 bởi Tổng giám mục Canterbury, John Bird Sumner. Cha mẹ đỡ đầu của ông là George V của Hanover, Công chúa William của Phổ, Mary Adelaide xứ Cambridge, Thân vương Ernst xứ Hohenlohe-Langenburg. Leopold bị di truyền bệnh máu khó đông từ mẹ của mình, Victoria của Anh, và là một đứa trẻ có sức khoẻ không tốt. Nhiều tài liệu cũng nói rằng Vương tử Leopold cũng bị động kinh nhẹ, như cháu trai của mình Vương tử John. Gia phả <center> Tham khảo Liên kết ngoài Vương tử Liên hiệp Anh Vương tử Anh Vương tử Scotland Công tước xứ Albany Vương tộc Saxe-Coburg và Gotha (Anh) Vương tử Hoàng tử Sinh năm 1853 Mất năm 1884 Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh Người Westminster Người Vương quốc Liên hiệp Anh thế kỷ 19 An táng tại Nhà nguyện St George, Lâu đài Windsor Hiệp sĩ Garter Thành viên Cơ mật viện Vương quốc Liên hiệp Anh
2807422
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ichneumon%20micropnygus
Ichneumon micropnygus
Ichneumon micropnygus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Ichneumon
2663015
https://vi.wikipedia.org/wiki/Triphosa%20salebrosa
Triphosa salebrosa
Triphosa salebrosa là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Triphosa
3182474
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thorogobius
Thorogobius
Thorogobius là một chi của Họ Cá bống trắng. Các loài Chi này hiện hành có các loài sau đây được ghi nhận: Thorogobius angolensis (Norman, 1935) Thorogobius ephippiatus (R. T. Lowe, 1839) (Leopard-spotted goby) Thorogobius macrolepis (Kolombatović, 1891) (Large-scaled goby) Thorogobius rofeni P. J. Miller, 1988 Chú thích Tham khảo Họ Cá bống trắng
19359078
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20Wimbledon%201951%20-%20%C4%90%C6%A1n%20n%E1%BB%AF
Giải quần vợt Wimbledon 1951 - Đơn nữ
Doris Hart đánh bại Shirley Fry trong trận chung kết, 6–1, 6–0 để giành chức vô địch Đơn nữ tại Giải quần vợt Wimbledon 1951. Louise Brough là đương kim vô địch, tuy nhiên thất bại ở bán kết trước Fry. Hạt giống Louise Brough (Bán kết) Margaret duPont (Tứ kết) Doris Hart (Vô địch) Shirley Fry (Chung kết) Beverly Baker (Bán kết) Pat Todd (Rút lui) Nancy Chaffee (Tứ kết) Jean Walker-Smith (Tứ kết) Pat Todd rút lui trước khi giải khởi tranh. Bà được thay bởi tay vợt Thua cuộc May mắn Madzy Couquerque. Kết quả Chung kết Nửa trên Nhánh 1 Nhánh 2 Nhánh 3 Nhánh 4 Nửa dưới Nhánh 5 Nhánh 6 Nhánh 7 Nhánh 8 Tham khảo Liên kết ngoài Đơn nữ Giải quần vợt Wimbledon theo năm - Đơn nữ Giải quần vợt Wimbledon Giải quần vợt Wimbledon
15364252
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81c%20l%C3%A0%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%C3%B4ng
Ác là phương Đông
Ác là phương Đông (Pica serica) là loài chim ác là được tìm thấy ở phía đông nam Nga và Myanmar đến miền đông Trung Quốc, Đài Loan và phía Bắc bán đảo Đông Dương. Loài này cũng là biểu tượng thường gặp của Hàn Quốc và được công nhận là "loài chim chính thức" của nhiều thành phố và tỉnh ở Hàn Quốc. Loài còn có các tên khác là Ác là Hàn Quốc và Ác là châu Á. Phân loại Một nghiên cứu so sánh 813 dideoxy DNA ty thể bp đã tách Ác là phương Đông ra khỏi loài Ác là. Loài được cách li sinh sản lâu hơn cả Pica nuttalli của Bắc Mỹ. Các phân loài được đề xuất bao gồm P. p. jankowskii và P. p. japonica. Mô tả So với loài Ác là, ác là phương Đông có vẻ lùn và mập hơn, đuôi ngắn hơn và cánh dài hơn. Lưng, đuôi và đặc biệt là lông bay cánh có ánh sắc màu xanh tím mạnh cùng rất ít hoặc không có màu xanh lá cây. Chúng là loài ác là lớn nhất. Chúng có bộ lông ở phao câu chủ yếu màu đen, cùng với một vài vệt dải trắng và thường bị che khuất giống với các mảng trắng trên lưng ở họ hàng của loài này. Ác là phương Đông có tiếng kêu giống với ác là, dù tiếng kêu của loài này êm ả hơn. Trong văn hóa Ở Hàn Quốc, ác là được xem là "loài chim của niềm may mắn lớn, tinh thần mạnh mẽ và đem đến thịnh vượng cũng như sự phát triển". Tương tự, ở Trung Quốc, ác là cũng được xem là điềm báo may mắn. Điều này được phản ánh trong chữ "ác là" trong tiếng Trung, , trong đó chữ cái đầu (喜) có nghĩa là "hạnh phúc, vui vẻ". Đó là loài "chim của niềm vui" chính thức ở triều đại Mãn Châu. Tham khảo Chim Đông Á Chi Ác là Động vật được mô tả năm 1845
3235690
https://vi.wikipedia.org/wiki/Figulus%20insolitus
Figulus insolitus
Figulus insolitus là một loài bọ cánh cứng trong họ Lucanidae. Loài này được mô tả khoa học năm 1987. Tham khảo Figulus Động vật được mô tả năm 1987
3286389
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%20League
K League
K League (Giải bóng đá chuyên nghiệp Hàn Quốc) là giải đấu bóng đá chuyên nghiệp của Hàn Quốc bao gồm giải hạng thứ nhất K League Classic và hạng thứ hai K League Challenge. Trong thực tế do cả hai giải hạng nhất và hai có tên gần giống nhau đã gây ra một số nhầm lẫn và tranh cãi. Lịch sử K League Classic được thành lập vào năm 1983 với tên gọi Korean Super League, có năm câu lạc bộ thành viên. Năm câu lạc bộ ban đầu là Hallelujah FC, Yukong Elephants, POSCO Dolphins, Daewoo Royals, Kookmin Bank FC. Hallelujah FC giành chức vô địch đầu tiên, hơn một điểm so với đội thứ nhì Daewoo Royals. Năm 1998, giải bóng đá của Hàn Quốc được tái cấu trúc và đổi tên thành K League. Từ khi thành lập, giải đấu đã mở rộng từ 5 câu lạc bộ ban đầu lên thành 16 câu lạc bộ. Trong 5 câu lạc bộ ban đầu chỉ còn Yukong Elephants, POSCO Dolphins, và Daewoo Royals vẫn tiếp tục thi đấu tại K League; Kookmin Bank FC rời bỏ năm 1984, còn Hallelujah FC là một năm sau đó. Năm 2013, K League giới thiệu hệ thống hạng đấu mới. Hạng nhất có tên là K League Classic, hạng hai là K League Challenge và tên gọi chung là K League. Cấu trúc Dưới K League 1, là K League 2, và dưới K League 2, là K3 League, một giải đấu bán chuyên/nghiệp dư với 15 câu lạc bộ, được thành lập năm 2020. Hạng tư của bóng đá Hàn Quốc là K4 League. Không có một hệ thống lên xuống hạng chính thức. Tuy nhiên, từ năm 2013, đội vô địch K League Challenge có thể được thăng hạng K League Classic, nếu đáp ứng đủ điều kiện. Mùa 2012, hai đội từ K League Classic xuống K League Challenge, còn 2013, một đội sẽ xuống K League Challenge, đội xếp thứ 11 K League Classic và đội vô địch K League Challenge sẽ đá play-off. Từ năm 2018, 2 giải đổi tên K League Classic và K League Challenge đổi tên lần lượt thành K League 1 và K League 2. Từ năm 2022, đội đứng cuối K League 1 sẽ xuống hạng trực tiếp và thay bằng đội vô địch K League 2; 2 đội xếp thứ 10 và 11 K League 1 sẽ thi đấu trận play-off với đội á quân và đội thắng vòng play-off giữa 3 đội xếp từ thứ 3 đến thứ 5 K League 2 theo thể thức 2 lượt đi và về. Hạng Nhất – K League 1 (trước đây là K League Classic) Hạng Hai – K League 2 (trước đây là K League Challenge) Các câu lạc bộ Các câu lạc bộ K League hiện tại (2023) Hạng Nhất – K League 1 – 12 câu lạc bộ Hạng Hai – K League 2 – 13 câu lạc bộ Các câu lạc bộ K League từ trước tới nay Có tất cả 36 câu lạc bộ thành viên trong lịch sử của K League – những câu lạc bộ được liệt kê dưới tên hiện tại (nếu có): Nguyên tắc thống kê chính thức của K League là câu lạc bộ sẽ kế thừa lịch sử và kết quả của câu lạc bộ tiền thân. Câu lạc bộ nghiêng không còn tồn tại [1] Yukong đổi tên thành SK Energy [2] Tập đoàn GS tách ra từ Tập đoàn LG [3] Ngân hàng Hanil hợp nhất với Ngân hàng Woori Ghi chú: Horang-i nghĩa là hổ, Hwangso nghĩa là bò mộng, Chunma nghĩa là pegasus, Bulsajo nghĩa là phượng hoàng. Vô địch Chi tiết về các đội vô địch K League, xem Danh sách các câu lạc bộ vô địch K League. Seongnam Ilhwa Chunma là đội thành công nhất về mặt danh hiệu, với 7 lần nâng cúp. Nguyên tắc thống kê chính thức của K League là câu lạc bộ sẽ kế thừa lịch sử và kết quả của câu lạc bộ tiền thân. Theo mùa giải K League Classic (1983–nay) |} |}
19769889
https://vi.wikipedia.org/wiki/Torch%20%28h%E1%BB%8Dc%20m%C3%A1y%29
Torch (học máy)
Torch là một thư viện học máy mã nguồn mở, một framework tính toán khoa học và là một ngôn ngữ kịch bản dựa trên ngôn ngữ lập trình Lua. Nó cung cấp một lượng lớn các thuật toán về học sâu, sử dụng ngôn ngữ kịch bản LuaJIT và ngôn ngữ thực thi C được tạo ra tại IDIAP ở EPFL. Từ năm 2018, Torch không còn được phát triển nữa. Tuy vậy, PyTorch - vốn dựa trên thư viện Torch, thì đang được phát triển từ tháng 10 năm 2022. torch Gói cốt lõi của Torch là torch. Nó cung cấp một mảng hay tensor n chiều một cách linh hoạt, hỗ trợ các quy trình cơ bản để index, chuyển vị, truyền, thay đổi kích thước, chia sẻ kho lưu trữ và tạo bản sao (cloning). Tensor cũng hỗ trợ các phép toán như max, min, sum; phân phối thống kê như phân phối đều, phân phối chuẩn và phân phối đa thức; các phép toán BLAS như tích vô hướng, phép nhân ma trận với vector, phép nhân 2 ma trận. Ví dụ sau đây sử dụng torch thông qua trình biên dịch REPL: > a = torch.randn(3,4) > =a -0.2381 -0.3401 -1.7844 -0.2615 0.1411 1.6249 0.1708 0.8299 -1.0434 2.2291 1.0525 0.8465 [torch.DoubleTensor of dimension 3x4] > a[1][2] -0.34010116549482 > a:narrow(1,1,2) -0.2381 -0.3401 -1.7844 -0.2615 0.1411 1.6249 0.1708 0.8299 [torch.DoubleTensor of dimension 2x4] > a:index(1, torch.LongTensor{1,2}) -0.2381 -0.3401 -1.7844 -0.2615 0.1411 1.6249 0.1708 0.8299 [torch.DoubleTensor of dimension 2x4] > a:min() -1.7844365427828 Gói torch cũng đơn giản hóa việc lập trình hướng đối tượng và tuần tự hóa bằng cách cung cấp các chức năng tiện lợi khác nhau. Hàm torch.class(classname, parentclass) có thể sử dụng để tạo (lớp) factory method. Khi hàm tạo được gọi, torch khởi tạo và lập một table dạng Lua với metatable do người dùng định nghĩa qua đó table đó trở thành một đối tượng. Các đối tượng sử dụng torch factory cũng được tuần tự hóa, miễn là chúng không chứa tham chiếu đến các đối tượng không thể tuần tự hóa, như các coroutine dạng Lua và userdata dạng Lua. Tuy nhiên, userdata có thể tuần tự hóa nếu nằm trong một kiểu table (hay metatable) cung cấp các phương thức read() và write(). nn Gói nn được sử dụng để xây dựng các mạng neuron. Nó được chia thành các đối tượng module dùng chung một Module giao diện chung. Các module có phương thức forward() và backward() cho phép chúng truyền thẳng (feedforward) và truyền ngược (backpropagate) tương ứng. Các module có thể được nối với nhau bằng cách sử dụng module hợp tử, như Sequential, Parallel và Concat để tạo các biểu đồ phức tạp phù hợp. Các module đơn giản như Linear, Tanh và Max tạo thành các module có các thành phần cơ bản. Giao diện module này cung cấp phép vi phân gradient tự động. Sau đây là một ví dụ về trường hợp sử dụng để xây dựng một tri giác đa lớp (MLP) bằng cách sử dụng module: > mlp = nn.Sequential() > mlp:add( nn.Linear(10, 25) ) -- 10 input, 25 unit ẩn > mlp:add( nn.Tanh() ) -- một số hàm truyền tiếp tuyến hyperbol > mlp:add( nn.Linear(25, 1) ) -- 1 output > =mlp:forward(torch.randn(10)) -0.1815 [torch.Tensor of dimension 1] Các hàm mất mát được thực thi như các lớp con của Criterion, có giao diện tương tự như Module. Nó cũng có phương thức forward() và backward() để tính toán gradient mất mát và truyền ngược. Hữu ích để đào tạo mạng neuron đối với các yêu cầu không cao cấp. Các mất mát thường được tính qua Sai số toàn phương trung bình (MSE) thực thi trong MSECriterion và entropy chéo thực thi trong ClassNLLCriterion. Dưới đây là một ví dụ về hàm Lua gọi ra để huấn luyện một module mlp khi input tensor x, tensor mục tiêu y với một biến vô hướng learningRate: function gradUpdate(mlp, x, y, learningRate) local criterion = nn.ClassNLLCriterion() pred = mlp:forward(x) local err = criterion:forward(pred, y); mlp:zeroGradParameters(); local t = criterion:backward(pred, y); mlp:backward(x, t); mlp:updateParameters(learningRate); end Ngoài ra, nó cũng có lớp StochasticGradient để đào tạo một mạng neuron bằng cách sử dụng thuật Giảm gradient ngẫu nhiên, mặc dù gói optim cung cấp nhiều lựa chọn hơn, như động lượng và phân rã trọng lượng chính quy hóa. Các gói khác Nhiều gói khác với các gói đã nêu ở trên được Torch cung cấp. Chúng được liệt kê trong cheetsheet của torch. Các gói bổ sung này cung cấp một loạt các tiện ích như tính song song, đầu vào/đầu ra không đồng bộ, xử lý ảnh, v.v. Dùng LuaRocks để cài đặt, trình quản lý gói Lua cũng được bao gồm trong Torch. Ứng dụng Torch được sử dụng bởi Nhóm nghiên cứu AI của Facebook, IBM, Yandex và Viện nghiên cứu Idiap. Torch cho phép sử dụng rộng rãi trên Android và iOS. Nó được sử dụng để tạo nên các phương pháp thực thi phần cứng cho luồng dữ liệu giống như mạng neuron. Facebook đã phát hành một bộ module mở rộng dưới dạng phần mềm mã nguồn mở. Xem thêm So sánh các phần mềm học sâu PyTorch Tham khảo Liên kết ngoài Phần mềm học sâu Phần mềm thống kê miễn phí Phần mềm Lua (ngôn ngữ lập trình) Phần mềm sử dụng giấy phép BSD
2597905
https://vi.wikipedia.org/wiki/Viettesia%20bimaculosa
Viettesia bimaculosa
Viettesia bimaculosa là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Viettesia
2796838
https://vi.wikipedia.org/wiki/Enicospilus%20halffteri
Enicospilus halffteri
Enicospilus halffteri là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Enicospilus
2788907
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brachyzapus%20nikkoensis
Brachyzapus nikkoensis
Brachyzapus nikkoensis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Brachyzapus
2845376
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phalops%20beccarii
Phalops beccarii
Phalops beccarii là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae). Chú thích Liên kết ngoài Phalops
11927748
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erchim%20FC
Erchim FC
Erchim () là một câu lạc bộ bóng đá đến từ Ulaanbaatar, Mông Cổ, đang thi đấu ở Giải bóng đá ngoại hạng Mông Cổ, và vô địch 10 lần, kể từ năm đầu tiên 1996. Đội bóng thi đấu sân khách ở Sân vận động thể thao quốc gia (Mông Cổ). Họ chơi các trận sân nhà trên sân vận động tuy nhỏ nhưng tráng lệ trước khu nhà máy điện số 4. Liên đoàn bóng đá Mông Cổ được quyền tham gia Cúp Chủ tịch AFC 2012, và được chấp thuận bởi AFC vào tháng 11 năm 2011, và có màn ra mắt giải đấu. Với tư cách đội vô địch Siêu cúp 2012, Erchim được tham gia giải. Erchim một lần nữa vô địch giải quốc gia năm 2015 khi trình diễn một lối chơi có tổ chức và tập luyện tốt. Năm 2017, lần đầu tiên câu lạc bộ thi đấu ở Cúp AFC, trở thành câu lạc bộ Mông Cổ đầu tiên làm việc này. Trong khi các câu lạc bộ ở Ulaanbaatar khác dùng chung Trung tâm bóng đá MFF làm sân nhà, thì Erchim có sân vận động riêng của họ. Kết quả cấp quốc gia Kết quả cấp châu lục Xếp hạng câu lạc bộ AFC Danh hiệu Giải bóng đá ngoại hạng Mông Cổ: (12) Vô địch: 1996, 1998, 2000, 2002, 2007, 2008, 2012, 2013, 2015, 2016, 2017, 2018 Á quân: 1997, 1999, 2009, 2014, 2019 Cúp bóng đá Mông Cổ: (8) Vô địch: 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2011, 2012, 2015 Á quân: 2001, 2002, 2014 Siêu cúp bóng đá Mông Cổ: (6) Vô địch: 2011, 2012, 2013, 2014, 2016, 2017 Đội hình hiện tại Tính đến mùa giải 2016–17 Tham khảo Liên kết ngoài Official website Mongolian Football Federation Câu lạc bộ bóng đá Mông Cổ Câu lạc bộ bóng đá khởi đầu năm 1994
14293383
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maha%20Sakdiphonlasep
Maha Sakdiphonlasep
Somdet Phra Bowonrat Chao Maha Sakdiphonlasep (, 21 tháng 10 năm 1785 – 1 tháng 5 năm 1832), tên cá nhân: Arunotai (), là Nhị vương Xiêm (Thái Lan) từ năm 1824 đến năm 1832. Ông là con của vua Rama I. Sử nhà Nguyễn gọi là Miễn Phun La Thiệp (勉噴羅涉 "Muen Phonlasep"). Tước vị 1807-1824: Kromma Muen Sakdiphonlasep () 1824-: Krom Phra Rajawang Bovorn Sathan Mongkol () thụy hiệu (Rama IV): Krom Phra Rajawang Bovorn Maha Sakdiphonlasep () thụy hiệu (Rama V): Somdet Phra Bowonrat Chao Maha Sakdiphonlasep () Tổ tiên Tham khảo Sinh năm 1785 Mất năm 1832 Hoàng tử Thái Lan Triều Chakri Nhị vương Xiêm
2797080
https://vi.wikipedia.org/wiki/Enicospilus%20major
Enicospilus major
Enicospilus major là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Enicospilus