id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
381
| title
stringlengths 1
211
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
2929195
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Plusiophaes%20metallica
|
Plusiophaes metallica
|
Plusiophaes metallica là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Plusiophaes
|
2839547
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xanthocryptus%20unicarinatus
|
Xanthocryptus unicarinatus
|
Xanthocryptus unicarinatus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xanthocryptus
|
3129002
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Naruto%20Shipp%C5%ABden%3A%20T%C3%B2a%20th%C3%A1p%20b%E1%BB%8B%20m%E1%BA%A5t
|
Naruto Shippūden: Tòa tháp bị mất
|
là phim Naruto thứ 7 và phim Naruto Shippūden thứ 4. Phim được công chiếu vào ngày 31 tháng 7 năm 2010.Phiên bản DVD phi được phát hành vào ngày 27 tháng 4 năm 2011. và phát sóng vào thứ 6 ngày 13 tháng 3 năm 2015 trên kênh HTV3.
Nội dung
Yamato, Uzumaki Naruto, Haruno Sakura và Sai được giao nhiệm vụ truy bắt tên ninja lưu vong Mukade, tất cả họ đều mang theo bên mình Dao Chakra để đối phó với thuật Khối Luỹ. Họ lên đường đến khu tàn tích có nền lịch sử huy hoàng một thời của Rōran, thành phố với hàng nghìn ngọn tháp nằm giữa sa mạc. Sau khi đánh bại những con rối của Mukade, họ tìm thấy hắn dưới lòng đất bên cạnh phong ấn của Ryūmyaku do ngài Hokage Đệ Tứ yểm lên. Hắn tiết lộ mục tiêu là du hành về quá khứ, hấp thụ sức mạnh của Ryūmyaku để cai trị Ngũ Đại Cường Quốc. Hắn phá vỡ phong ấn, giải phóng sức mạnh của Ryūmyaku. Naruto chạy đến ngăn cản hắn nhưng bị một nguồn sáng trùm lấy, Yamato dùng thuật Mộc độn cứu cậu và cả hai cũng bị nguồn sáng đó nuốt chửng. Sakura cố gắng đến cứu nhưng Sai lại ngăn Sakura, kéo cô lên cùng với con chim mực, lúc đó Sakura gào lên tên của Naruto.
Khi Naruto tỉnh dậy, cậu nhìn thấy một cô gái lạ đang hát và ngay lập tức bỏ chạy khi nhìn thấy cậu. Naruto sau đó tiếp xúc với một anh chàng đeo mặt nạ, người đã giải cứu cậu khỏi đội quân rối. Anh ta nói với Naruto rằng anh ta cũng là một ninja làng Lá, mở một phần mặt nạ của mình để lộ ra biểu tượng làng Lá trên băng đeo trán của mình, và bảo cậu rời khỏi thành phố, cậu chấp nhận. Tuy nhiên, khi sắp rời khỏi Rōran, Naruto nhớ lại những gì đã xảy ra trước khi bất tỉnh và quyết định đi gặp những người khác. Sau đó, cậu nhận thấy có một lễ hội đang diễn ra và phát hiện cô gái trẻ mà anh đã gặp hồi nãy, bây giờ là nữ hoàng của Rōran, Sāra. Khi cô chào đón đám đông đang vui mừng kêu gọi mình, một người nào đó ở đằng sau đã đẩy cô ngã. Naruto giải cứu cô và sau đó họ tự giới thiệu với nhau sau khi Sāra lầm tưởng anh là kẻ xấu. Naruto hỏi cô ấy liệu có ai đó muốn ám sát cô không, nữ hoàng trẻ liền không đồng ý với điều đó. Sau đó, nhóm người cứu cậu hồi nãy xuất hiện, một người trong đó mắng cậu đã không giữ lời hứa. Naruto đáp lại rằng cậu không còn lựa chọn nào khác và nói cho anh biết chuyện gì đã xảy ra với cậu tại hành lang cung điện.
Chuyển cảnh là hồi ức về 20 năm trước tại làng Lá, Minato xuất hiện cùng với thầy Jiraya. Sau đó, Shizune, Maito Gai, Sarutobi Asuma và Hatake Kakashi hồi nhỏ được nhìn thấy đang chờ đợi trong một hàng dài tại buổi khai trương quán Ramen Ichiaku. Cảnh tiếp theo tại toà nhà Hokage, ngài Đệ Tam đã nghe nói về kế hoạch xấu xa của Anrokuzan, và cử Namikaze Minato, Aburame Shibi, Akimichi Chōza và theo yêu cầu của Minato, Hatake Kakashi sẽ tham gia nhiệm vụ với nhóm.
Quay lại hiện tại, nhìn thấy tình hình như vậy, nhóm của anh đành phải giải thích. Họ gỡ mặt nạ ra, những người đó là Minato, Chōza và Shibi (thật sự Naruto không hề biết họ). Minato nói 6 năm trước có một ninja từ tương lai đến đây giống như cách mà Naruto đến. Khi Naruto hỏi mình có thể quay lại hiện tại được không, Minato trả lời chỉ khi cậu đánh bại tên Mukade trước khi hắn hấp thụ phong ấn. Naruto nhận xét Minato trông rất giống Hokage Đệ Tứ. Shibi nói với Naruto điều đó là không thể, vì hiện tại Hokage đương nhiệm vẫn là Đệ Tam. Nhưng Chōza nói rằng Naruto đến từ tương lai, có khả năng Minato thực sự là Đệ Tứ. Minato chỉ trả lời là nếu biết quá nhiều thì lịch sử sẽ bị thay đổi. Minato kể cho Naruto về vị trí Ryūmyaku ở dưới lòng đất và suy đoán kế hoạch của Mukade dùng nó để phát triển đội quân rối. Sāra phản đối, cho rằng 6 năm trước không có ninja nào tên Mukade xuất hiện mà là người vĩ đại tên Anrokuzan, cũng không tin rằng ông ta đang lên kế hoạch chống lại cô. Minato cho rằng hắn đã lừa cô trong thời gian qua, Sāra nghe vậy khó chịu bỏ đi. Sau đó, Minato đưa cậu thanh kunai và nó là một thanh kunai đặc chế riêng, cho phép anh dịch chuyến đến chỗ Naruto để giúp cậu.
Khi Sāra đang đi dạo một mình dọc theo hành lang cung điện, một người nào đó tấn công cô từ phía sau và đưa cô vào một căn phòng tối có 12 người. Họ yêu cầu Sāra trả người, khiến cô rất bối rối. Naruto vào phòng để giúp cô, phát hiện ra nhóm người bao gồm phụ nữ và trẻ em, họ không có ý định làm tổn thương Sāra ngay từ đầu. Mọi người di chuyển đến chỗ mà Sāra nói có cảm giác khác biệt khi xem buổi lễ, đột nhiên một đứa trẻ trong nhóm nói rằng Sāra bị gọi là con rối đang bị người khác điều khiển, trưởng nhóm liền mắng cậu. Sau đó Sāra hỏi cô ấy về tin đồn, cô ấy nói rằng đó hoàn toàn là sự thật. Cô nói thêm hầu hết những nam nhân bị bắt đi theo lệnh của nữ hoàng, Sāra trả lời rằng cô chưa bao giờ ra lệnh như vậy. Cô tiết lộ tin đồn về vũ khí đang được phát triển để tiến hành chiến tranh, Sāra thắc mắc tại sao mọi người lại chào đón cô nồng nhiệt như vậy, cậu nhóc hồi nãy liền nói nhìn kĩ thì không ai vui cả. Naruto nhận thấy có điều gì đó không đúng trong đám đông, cậu ném con dao cắt đứt các sợi chakra, chứng minh rằng đám đông "vui vẻ" đều là những con rối được điều khiển bởi chakra của Ryūmyaku, với một con rối của chính Sāra xuất hiện trên ban công phía trên. Sāra phản đối và bỏ đi sau khi Naruto cho là tên Mukade muốn biến cô thành con rối. Naruto gặp cô tại một bậc thang, sau một hồi nói chuyện về những kỉ niệm, họ lên đường để đi tìm sự thật về thành phố này. Cô thề trên danh dự nữ hoàng, nhất định sẽ cứu họ.
Naruto và Sāra thâm nhập vào nhà máy, vị trí sau khi Sāra xác định điểm bắt đầu của đường ống và năng lượng của Ryūmyaku tập trung ở đây, họ thấy tất cả nam nhân bị xiềng xích và buộc phải lao động để chế tạo rối. Đối mặt với Anrokuzan, Sāra ra lệnh cho hắn thả những người ở đó. Naruto khuyên Sāra cứu mọi người rồi chạy đi, còn cậu ở lại chiến đấu với hắn, rồi bị tên đó nhốt lại trong cơ thể rối. Sau đó hắn thừa nhận đã giết mẹ của Sāra, cố nữ hoàng Sēramu, vì bà đã nhìn thấu kế hoạch của hắn và từ chối làm việc với hắn. Bây giờ, vì Sāra không còn giá trị gì với hắn nữa, hắn cười, nói Sāra chỉ là một "con rối lớn", hắn sẽ giết cô và chiếm lấy thế giới. Hắn ta dùng phi tiêu định giết cô, nhưng bị cản lại bởi chakra Cửu Vỹ đang rò rỉ ra ngoài của Naruto. Dưới sự kiểm soát của Mukade, đội quân rối có thể tấn công nhờ sử dụng chakra của Ryūmyaku. May thay, nhóm của Minato đã đến ứng cứu kịp thời.
Sau khi trở thành con rối khổng lồ, Mukade có thể sử dụng các mảnh vỡ để tái tạo bản thân khỏi bất kỳ cuộc tấn công nào, đây là một phần trong thuật tái tạo của hắn với sức mạnh của Ryūmyaku. Shibi và Chōza không thể đánh bại khi hắn tiếp tục tự hồi phục. Sau đó, Shibi chuyển một lời nhắn cho Minato, thông báo hắn đã hấp thụ được nguồn chakra của Ryūmyaku, cùng lúc Sāra và những người dân đang đi đến chỗ gần trung tâm của Ryūmyaku, Mukade không thể tiếp cận được vì nó được bảo vệ nghiêm ngặt. Khi chiến đấu với Anrokuzan, Naruto sử dụng Rasengan, khiến Minato bất ngờ. Naruto dễ dàng bị Mukade đánh bại, Minato đến giải cứu cậu ấy ngay trước khi Mukade ra đòn cuối cùng. Minato yêu cầu Naruto bảo vệ người dân trong khi anh ngăn Mukade tiếp cận họ, với lại Minato có thể xác định được điểm yếu của Mukade, Naruto đồng ý.
Mukade đã vượt qua Minato và nhắm đến việc giết Sāra đang cố gắng phong ấn Ryūmyaku. Minato sau đó gặp Naruto và nói với cậu rằng anh đã tìm ra cách để đánh bại Mukade và anh cần Naruto thực hiện Rasengan cho anh. Khi Naruto nói rằng cậu không còn đủ chakra, Minato nói với cậu rằng cậu sẽ cho cậu mượn chakra của mình. Naruto nói rằng điều đó là không thể, những người duy nhất có thể thực hiện Rasengan là Jiraiya, chính cậu và Hokage Đệ Tứ. Minato mỉm cười và nói với Naruto rằng anh cũng có thể thực hiện Rasengan. Anh dễ dàng tạo ra một Rasengan trên bàn tay của Naruto rồi tạo một Rasengan khác. Anh nói với Naruto đây là sự cộng hưởng khi kết hợp hai nguồn chakra lại, một Rasengan mạnh nhất sẽ được tạo ra, nói xong thì anh kết hợp Rasengan của mình với Rasengan của Naruto, tạo ra Thái Cực Rasengan huyền thoại. Hầu như Sāra đã phong ấn Ryūmyaku kịp thời, khiến Mukade không thể sử dụng thuật tái tạo của mình. Minato chạy đi và nói với Naruto rằng đây là lúc để tấn công tên Mukade, Naruto tấn công và đã thành công. Mukade nói hắn không thể chết và hắn muốn bọn họ phải chết chung. Khi sàn gạch sụp đổ, hắn rơi xuống hồ chakra của Ryūmyaku. Sāra vẫn được nhìn thấy trên sàn gạch đổ nát, Naruto cố gắng bắt được cô ấy, nhưng rơi xuống với Minato. Yamato đến, kịp thời sử dụng thuật Mộc độn của mình để cứu Naruto, Sāra và Minato. Minato yêu cầu Naruto trả lại kunai Phi Lôi Thần của mình để phong ấn hoàn toàn Ryūmyaku. Một ánh sáng màu xanh rực rỡ hiện ra khi Minato phong ấn Ryūmyaku.
Cơ thể của Naruto và Yamato bắt đầu phát sáng. Minato nói rằng vì Mukade đã chết, phong ấn thời gian bị phá vỡ, điều đó có nghĩa là Naruto và Yamato sẽ quay trở lại thời đại của họ. Khi Yamato gặp Minato, Yamato đã cúi chào anh và nói rằng rất vinh dự khi được gặp anh. Naruto định nói với Yamato rằng Minato là Hokage Đệ Tứ nhưng bị Minato ngắt lời, Minato nói đã đến lúc phải chia tay. Để ngăn lịch sử thay đổi, Minato nói rằng tốt nhất là xóa ký ức của mọi người. Naruto thắc mắc với Minato là lúc trước anh nói bọn họ sẽ nói chuyện với nhau sau khi đánh bại Mukade, Minato trả lời có, nhưng không phải bây giờ, đợi khi nào gặp lại, anh sẽ nói rõ cho cậu biết. Naruto xin anh nói ngay bây giờ vì sẽ không còn cơ hội. Naruto nói Minato có thể là ba của cậu, Minato đáp lại nếu sau này anh có con trai, anh hi vọng nó sẽ trở thành một ninja giống như cậu. Sau đó Sāra nói với Naruto rằng cô ấy sẽ không bao giờ quên những gì Naruto đã dạy cho cô ấy. Khi Naruto và Yamato dần biến mất, Sāra mỉm cười với Naruto và gọi tên cậu lần cuối.
Ở thời điểm hiện tại, Ryūmyaku do Mukade giải phóng đang tan biến dần. Sakura đang trên con chim mực của Sai kêu tên Naruto. Khi ánh sáng biến mất, Naruto và Yamato xuất hiện, cả hai đều nói không còn nhớ những gì đã xảy ra với mình. Bên ngoài khu tàn tích, một cô gái trẻ đang tiến tới, vẻ ngoài giống Sāra, cô nói cảm thấy có sự hỗn loạn của Ryūmyaku. Cô gái nói rằng cô là con gái của nữ hoàng Rōran trước đây. Cô gái mang trong mình một đoản kiếm của làng Lá và nói với họ rằng mẹ cô đã được trao nó từ một người hùng trong mơ, Naruto sau đó nhận thấy rằng Dao Chakra của chính mình đã bị mất tích. Khi cô gái và những người của cô ấy rời khỏi nơi này, Naruto nói rằng cậu có cảm giác rằng cậu đã nhìn thấy cô ấy trong một giấc mơ rất đẹp. Sakura sau đó nắm lấy, kéo tai Naruto và mắng cậu là một kẻ biến thái.
Phân vai
Chú thích
Liên kết ngoài
Official Japanese website
Official TV Tokyo website
Phim của đạo diễn Murata Masahiko
Phim Nhật Bản
Phim Naruto
Phim tiếp nối
Phim đề tài du hành thời gian
Anime và manga hành động
Phim hoạt hình Toho
|
2670969
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zamarada%20crenulata
|
Zamarada crenulata
|
Zamarada crenulata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Zamarada
|
3220542
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moscas%20en%20la%20Casa
|
Moscas en la Casa
|
"Moscas en la Casa" là đĩa đơn của ca sĩ người Colombia Shakira. Bài hát Moscas en la Casa là bài hát cuối cùng được chuyển thể thành đĩa đơn từ album thứ hai của Shakira, Dónde Están los Ladrones?.
Tham khảo
Đĩa đơn năm 1999
Bài hát của Shakira
Đĩa đơn năm 1998
Pop ballad
Bài hát tiếng Tây Ban Nha
Bài hát năm 1998
|
2597570
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uranophora%20atalanta
|
Uranophora atalanta
|
Uranophora atalanta là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Uranophora
|
15151938
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Luiza%20Valdetaro
|
Luiza Valdetaro
|
Luiza dos Santos Valdetaro (sinh ngày 7 tháng 9 năm 1985) là một nữ diễn viên và nữ doanh nhân người Brazil. Cô sống ở London kể từ năm 2015, tại đó cô đã trở thành đối tác của nhà sản xuất đa quốc gia BlueMoon và bắt đầu cống hiến sự nghiệp của mình cho tinh thần khởi sự kinh doanh.
Nghề nghiệp
Năm 2002, Valdetaro đã xuất hiện trong các chương đầu tiên của Malhação mùa 2002 khi cô vẫn còn là học sinh tham gia câu lạc bộ diễn xuất, cho đến khi cô ra mắt trong một cuốn tiểu thuyết cố định, với nhân vật Gabi, trong tác phẩm Celebridade. Sau này, Luiza Valdetaro tham gia tiểu thuyết América, giải thích Manu. Năm 2006, cô sống nhân vật chính đầu tiên của mình trong vở opera xà phòng tuổi teen Malhação. Luiza Valdetaro cũng làm diễn viên nhằm diễn giải nhân vật Gloria, trong Viver a Vida của Manoel Carlos. Năm 2011, Luiza Valdetaro tham gia Telenovela Cordel Encantado với vai Antônia, một trong những nhân vật chính của cốt truyện.
Năm 2012, Valdetaro đã đóng vai Gerusa Bastos, một trong những nhân vật chính của phiên bản làm lại của bộ phim Gabriela, tác phẩm của Jorge Amado do Walcyr Carrasco chuyển thể và đạo diễn Mauro Mendonça Filho thực hiện.
Từ năm 2013 đến 2014, Valdetaro tham gia dàn diễn viên của tiểu thuyết Joia Rara, với vai diễn Hilda, một ca sĩ đầy tham vọng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Người Luân Đôn
Nữ diễn viên truyền hình Brasil
Nữ diễn viên điện ảnh Brasil
Nữ diễn viên từ Rio de Janeiro
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1985
|
3635965
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20%C4%91%E1%BB%99i%20c%C3%B2%20bay
|
Tiểu đội cò bay
|
Tiểu đội cò bay (tên gốc tiếng Anh: Storks) là một phim hoạt hình máy tính 3D phiêu lưu hài hước và bạn bè của Mỹ năm 2016 được sản xuất bởi ba hãng phim Warner Animation Group, RatPac-Dune Entertainment và Stoller Global Solutions. Phim được đạo diễn bởi Nicholas Stoller và Doug Sweetland (sản phẩm điện ảnh ra mắt), với phần kịch bản được viết bởi Stoller và sự tham gia lồng tiếng của Andy Samberg, Katie Crown, Kelsey Grammer, Keegan-Michael Key, Jordan Peele, Anton Starkman, Jennifer Aniston, Ty Burrell, Danny Trejo, và Stephen Kramer Glickman.
Phim được ra mắt tại Los Angeles ngày 17 tháng 9 năm 2016, và được phát hành bởi Warner Bros. Pictures vào ngày 23 tháng 9 năm 2016, dưới định dạng 3D, IMAX cũng như các định dạng chiếu thông thường khác. Tiểu đội cò bay đã đạt doanh thu hơn 180 triệu USD trên toàn thế giới. Phim nhận được nhiều đánh giá từ hỗn tạp cho tới tích cực từ giới chuyên môn. Tại Việt Nam, Tiểu đội cò bay được ra mắt ngày 23 tháng 9 năm 2016, cùng ngày với thế giới.
Nội dung
Bộ phim xoay quanh câu chuyện về chú cò sắp được thăng chức Junior của công ty vận chuyển Corner Store được giao nhiệm vụ phải “sa thải” cô bé loài người duy nhất – Tulip mồ côi khỏi công ty vì những rắc rối mà cô bé đem lại. Rắc rối to to, mới tinh mà Tulip gây ra chính là vô tình tạo ra một bé gái nằm ngoài kế hoạch bằng máy sản xuất dây chuyền đã ngừng hoạt động từ lâu trong nhà máy. Cả hai phải tìm cách đưa đứa trẻ này về nhà trước khi bị sếp lớn phát hiện. Và chuyến hành trình bắt đầu.
Lồng tiếng
Andy Samberg vai Junior
Katie Crown vai Tulip
Kelsey Grammer vai Hunter
Keegan-Michael Key và Jordan Peele vai sói Alpha và Beta
Anton Starkman vai Nate Gardner
Jennifer Aniston vai Sarah Gardner
Ty Burrell vai Henry Gardner
Stephen Kramer Glickman vai Bồ câu Toady
Danny Trejo vai Jasper
Awkwafina vai Quail
Ike Barinholtz, Amanda Lund, và Jorma Taccone tham gia lồng tiếng cho những chú cò khác.
Sản xuất
Dự án được công bố lần đầu tiên vào tháng 1 năm 2013, khi Warner Bros. thành lập một "think tank" hoạt hình cùng với một số đạo diễn và nhà biên kịch nhằm phát triển việc làm phim hoạt hình. Nicholas Stoller được hãng phim thuê để phát triển và biên kịch cho Tiểu đội cò bay, trong khi đó Doug Sweetland được chỉ định làm đạo diễn cho phim. Ngày 20 thang 4, 2015, Andy Samberg và Kelsey Grammer được thêm vào danh sách diễn viên lồng tiếng của phim, cùng lúc đó hãng phim cũng công bố Stoller và Sweetland sẽ là đồng đạo diễn cho phim điện ảnh 3D này, ngoài ra Stoller cũng sẽ đảm nhiệm vai trò sản xuất phim cùng với Brad Lewis. Ý tưởng điện ảnh ban đầu của phim được phát triển bởi Warner Bros. Animation. Sony Pictures Imageworks cung cấp dịch vụ hoạt họa cho phim. Keegan-Michael Key và Jordan Peele sau đó cũng được công bố nằm trong danh sách những diễn viên lồng tiếng cho phim. Ngày 15 tháng 6 năm 2016, Jennifer Aniston được công bố là sẽ tham gia dàn diễn viên lồng tiếng.
Âm nhạc
Phần nhạc nền của Tiểu đội cò bay được biên soạn bởi Mychael và Jeff Danna. Album nhạc phim ngoài ra cũng có thêm "Holdin' Out", một bài hát được thể hiện bởi The Lumineers. Album được phát hành ngày 16 tháng 9 năm 2016 bởi WaterTower Music.
Danh sách bài hát
Phát hành
Tiểu đội cò bay ban đầu được lên lịch phát hành vào ngày 10 tháng 2 năm 2017, nhưng sau đó Warner Bros. đã sắp xếp lại cho The Lego Batman Movie phát hành vào ngày đó. Phim được công chiếu vào ngày 23 tháng 9 năm 2016, vốn ban đầu được dành để công chiếu The Lego Ninjago Movie, tuy nhiên phim điện ảnh này đã bị dời lịch xuống một năm. Tiểu đội cò bay được chiếu kèm với The Master, một phim ngắn năm phút dựa trên hình mẫu Lego Ninjago.
Phương tiện tại gia
Tiểu đội cò bay được phát hành bởi Warner Home Video dưới định dạng đĩa Blu-ray (2D, 3D và 4K Ultra HD) và DVD vào ngày 20 tháng 12 năm 2016, và dưới dạng phim số trước đó vào ngày 6 tháng 12 năm 2016. Các sản phẩm phát hành đều đi kèm với phim ngắn The Master.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim 3D năm 2016
Phim hoạt hình máy tính năm 2016
Phim phiêu lưu thập niên 2010
Phim đôi bạn của thập niên 2010
Phim hài thập niên 2010
Phim kỳ ảo thập niên 2010
Phim Mỹ
Phim 3D Mỹ
Phim phiêu lưu hài hước Mỹ
Phim hoạt hình tưởng tượng Mỹ
Phim đôi bạn Mỹ
Phim hoạt hình thiếu nhi Mỹ
Phim hài hước thiếu nhi Mỹ
Phim tưởng tượng thiếu nhi
Phim hoạt hình máy tính Mỹ
Phim hoạt hình phiêu lưu
Phim hoạt hình đôi bạn
Phim hài hoạt hình
Phim hoạt hình về chim
Phim đạo diễn đầu tay
Cò giả tưởng
Phim với các sự vật được nhân hoá
Phim do Doug Sweetland đạo diễn
Phim do Nicholas Stoller đạo diễn
Phim IMAX
Kịch bản phim của Nicholas Stoller
Phim của Warner Bros.
Phim hoạt hình hãng Warner Bros.
Phim hoạt hình hãng Warner Bros. Animation
|
19496889
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20%C4%91%E1%BA%B3ng
|
Chủ nghĩa thượng đẳng
|
Chủ nghĩa thượng đẳng, về cơ bản, đúng như tên gọi, là chủ nghĩa tự cho mình quyền tỏ ra thượng đẳng, tỏ ra hơn người khác.
Điển hình của chủ nghĩa thượng đẳng là thái độ phân biệt chủng tộc/ sắc tộc/ màu da/ giới tính. Ví dụ như những quan điểm cho rằng người da trắng thì có quyền hơn da màu, vậy nên kỳ thị người da màu và đối xử với người da màu như tầng lớp hạ đẳng, hay quan điểm cho rằng người Nhật Bản thì ở một đẳng cấp cao hơn người Trung Quốc, quan điểm cho rằng người Ả Rập thượng đẳng hơn người phương Tây, quan điểm cho rằng đàn ông thì thượng đẳng hơn đàn bà, và rất nhiều quan điểm thái độ thượng đẳng khác.
Xem thêm
Người da trắng thượng đẳng
Tham khảo
Phân biệt đối xử
Học thuyết chính trị
Chủ nghĩa cuồng tín
Định kiến
Phân biệt chủng tộc
|
2925226
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hesperochroa%20polygrapha
|
Hesperochroa polygrapha
|
Hesperochroa polygrapha là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hesperochroa
|
2941446
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xanthia%20postlutea
|
Xanthia postlutea
|
Xanthia postlutea là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xanthia
|
19689244
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uber%20Eats
|
Uber Eats
|
Uber Eats là một nền tảng đặt hàng và giao đồ ăn trực tuyến được Uber ra mắt vào năm 2014. Người dùng có thể đọc menu, đánh giá và xếp hạng, đặt hàng và thanh toán thực phẩm từ các nhà hàng tham gia bằng cách sử dụng ứng dụng trên nền tảng iOS hoặc Android hoặc thông qua trình duyệt web. Người dùng cũng có thể đăng ký để giao hàng. Thanh toán được tính vào thẻ trong hồ sơ với Uber. Các bữa ăn được giao bởi nhân viên chuyển phát nhanh bằng xe hơi, xe máy, xe đạp hoặc đi bộ. Công ty hoạt động tại hơn 6.000 thành phố trên 45 quốc gia.
Lịch sử
Uber được thành lập vào năm 2009 bởi Garrett Camp và Travis Kalanick. Công ty bắt đầu giao đồ ăn vào tháng 8 năm 2014 với sự ra mắt của dịch vụ Uber FRESH tại Santa Monica, California. Năm 2015, nền tảng này được đổi tên thành Uber Eats và phần mềm đặt hàng được phát hành dưới dạng ứng dụng riêng, tách biệt với ứng dụng Uber. Năm 2016, công ty bắt đầu hoạt động ở cả Luân Đôn và Paris.
Vào tháng 8 năm 2018, Uber Eats đã thay đổi phí giao hàng cố định từ 4,99 USD thành mức dao động từ tối thiểu 2 USD đến tối đa 8 USD. Ở Anh và Ireland, phí giao hàng dựa trên giá trị của đơn đặt hàng. Vào tháng 2 năm 2019, Uber Eats tuyên bố sẽ giảm phí từ 35% giá trị đơn hàng xuống còn 30%, đây là một phần của kế hoạch mở rộng thị trường sang nước ngoài. Công ty tuyên bố ý định mở các [[nhà hàng ảo ở Anh (đôi khi được gọi là nhà hàng đám mây hoặc nhà bếp đám mây), đây là những nhà bếp của nhà hàng có nhân viên để chuẩn bị giao thức ăn cho khách, áp dụng tại các nhà hàng truyền thống muốn thiết lập thêm dịch vụ giao hàng cho khách, hoặc cho các nhà hàng chỉ giao hàng không có dịch vụ ăn tại chỗ.
Tháng 11 năm 2018, công ty đã công bố kế hoạch tăng gấp 3 lực lượng lao động tại thị trường Châu Âu. Cũng trong cuối năm này, công ty đã công bố thiết lập được mạng lưới giao thực phẩm tại 200 thành phố ở 20 quốc gia tại thị trường EMEA.
Năm 2019, Uber Eats cho biết họ đã cung cấp thực phẩm cho khách hàng bằng máy bay không người lái. Mùa hè năm đó, công ty đã hợp tác với Apple trong việc phát hành Apple Card. Tới tháng 9 năm 2019, Uber Eats dã rời khỏi thị trường Hàn Quốc, theo Reuters điều này là do sự cạnh tranh kém hiệu quả đối với các công ty giao đồ ăn vốn đang rất mạnh ở Hàn Quốc. Vào ngày 15/10/2019, công ty cho biết họ sẽ cung cấp thức ăn nhanh Burger King trên khắp Hoa Kỳ.
Ngày 21/1/2020, Zomato cho biết họ sẽ mua lại tất cả cổ phiếu của Uber Eats tại Ấn Độ như một phần của thỏa thuận. Theo đó, Uber sẽ sở hữu 10% cổ phần của Zomato và Zomato sẽ có được tất cả người dùng Uber Eats ở Ấn Độ. Tại thời điểm thỏa thuận, Zomato được định giá khoảng 3,55 tỷ Đô la.
Vào tháng 3 năm 2020 khi đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn thế giới, Uber Eats đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ với 30% khách hàng mới; sự gia tăng này chủ yếu do tâm lí hạn tránh tụ tập nơi đông người, hạn chế tiếp xúc trực tiếp.
Ngày 4/5/ 2020, Uber Eats rời khỏi thị trường Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và dịch vụ này sẽ thông qua phương tiện có trụ sở tại Dubai cho công ty cho thuê Careem. Báo cáo tương tự cho biết họ cũng đã rời khỏi Ả Rập Xê Út và Ai Cập sau đó. Uber đã củng cố vị trí của mình vào tháng 7 năm 2020 với việc mua lại Postmates với giá 2,65 tỷ đô la.
Vào ngày 30/11/2021, Uber Eats tuyên bố họ sẽ rời khỏi Hồng Kông vào cuối năm này.
Tháng 12 năm 2021, Uber Eats đã hoàn thành việc giao đồ ăn đầu tiên trong không gian khi hợp tác với tỷ phú Nhật Bản Yusaku Maezawa để gửi thực phẩm lên Trạm vũ trụ Quốc tế.
Tranh cãi
Tài xế Uber Eats
Uber Eats đã bị chỉ trích vì mô hình bồi thường cho tài xế. Ở hầu hết các khu vực, tài xế không được coi là nhân viên của Uber, vì vậy trong một số trường hợp họ có thể kiếm được ít hơn mức lương tối thiểu.
Đại dịch COVID-19
Trong đại dịch Covid-19, Uber Eats đã bị chỉ trích vì tính phí các nhà hàng thức ăn nhanh từ 30% đến 35% hoa hồng.
Cáo buộc về hành vi độc quyền
Vào tháng 4 năm 2020, một nhóm người dân New York đã kiện Uber Eats cùng với DoorDash, GrubHub, Postmates, cáo buộc họ sử dụng sức mạnh thị trường của mình để độc quyền bằng cách chỉ liệt kê các nhà hàng trên ứng dụng của họ nếu chủ nhà hàng ký hợp đồng bao gồm các điều khoản yêu cầu giá cả giống nhau đối với khách hàng ăn tối giống như đối với khách hàng nhận giao hàng. Các nguyên đơn tuyên bố rằng thỏa thuận này làm tăng chi phí cho khách hàng ăn tối, vì họ được yêu cầu trợ cấp chi phí giao hàng. Các ứng dụng tính phí "cắt cổ", dao động từ 13% đến 40% doanh thu, trong khi lợi nhuận trung bình của nhà hàng dao động từ 3% đến 9% doanh thu. Vụ kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại gấp 3 lần, bao gồm cả việc tính phí quá cao kể từ ngày 14/4/2016 cho khách hàng ăn tối và giao hàng tại Hoa Kỳ tại các nhà hàng sử dụng ứng dụng giao hàng của bị đơn. Vụ kiện được đệ trình lên Tòa án Quận Liên bang Hoa Kỳ, Quận Nam New York với tên Davitashvili v GrubHub Inc., 20-cv-3000. Mặc dù một số tài liệu sơ bộ trong vụ án hiện đã được đệ trình, ngày xét xử vẫn chưa được ấn định.
Xem thêm
Uber
Tham khảo
Chia sẻ xe
Phần mềm dựa trên vị trí
Phần mềm giao thông
Công ty mạng lưới vận tải
Công ty vận chuyển châu Á
|
2577658
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spinhoplathemistus%20kaszabi
|
Spinhoplathemistus kaszabi
|
Spinhoplathemistus kaszabi là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Spinhoplathemistus
|
15275977
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uramustine
|
Uramustine
|
Uramustine (INN) hoặc uracil mù tạt là một loại thuốc hóa trị thuộc nhóm các tác nhân kiềm hóa. Nó được sử dụng trong bạch huyết khối u ác tính như ung thư hạch không Hodgkin. Nó hoạt động bằng cách làm hỏng DNA, chủ yếu trong các tế bào ung thư, tốt nhất là chiếm uracil do nhu cầu tạo axit nucleic trong chu kỳ phân chia tế bào nhanh chóng của chúng. Các tổn thương DNA dẫn đến apoptosis của các tế bào bị ảnh hưởng. Ức chế tủy xương và buồn nôn là tác dụng phụ chính.
Về mặt hóa học, nó là một dẫn xuất của mù tạt nitơ và uracil.
Tham khảo
Bài viết chứa mã định danh InChI đã thay đổi
Bài viết chứa mã định danh DrugBank đã thay đổi
|
15073534
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lipowo%2C%20Olszty%C5%84ski
|
Lipowo, Olsztyński
|
Lipowo () là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Biskupiec, thuộc huyện Olsztyński, Warmińsko-Mazurskie, ở miền bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng phía đông Biskupiec và về phía đông của thủ đô khu vực Olsztyn.
Trước năm 1772, khu vực này là một phần của Vương quốc Ba Lan, 1772-1945 Phổ và Đức (Đông Phổ).
Ngôi làng có dân số 285 người.
Tham khảo
|
7576307
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pak%20Yong-sik
|
Pak Yong-sik
|
Pak Yong-sik (sinh năm 1950; Hán-Việt: Phác Vĩnh Thực) là một sĩ quan cao cấp trong Quân đội Nhân dân Triều Tiên, mang quân hàm Đại tướng. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ủy ban Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Pak là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thứ 6 (tương đương Bộ trưởng Quốc phòng) do Kim Jong-un chỉ định, kể từ sau khi Kim Jong un thay cha lãnh đạo đất nước hồi cuối năm 2011.
Tiểu sử
Tháng 4 năm 2015, ông Pak Yong Sik được giao phụ trách vấn đề về nhân sự tại Tổng cục Chính trị, với chức danh Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Triều Tiên, trước đó, ông từng là một quan chức của Bộ An ninh Xã hội. Ông Pak được thăng cấp Thiếu tướng vào năm 1999 và được thăng từ tướng 3 sao thành tướng 4 sao (Đại tướng) vào tháng 5 năm 2015.
Ngày 11 tháng 7 năm 2015, trong một báo cáo về cuộc hội đàm quân sự cấp cao với Lào được tổ chức tại Bình Nhưỡng, Hãng Thông tấn Trung ương Triều Tiên KCNA cho biết tướng Pak Yong-sik đã tham gia các cuộc hội đàm với tư cách là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Triều Tiên. Đây là lần đầu tiên Triều Tiên xác nhận việc thay thế Bộ trưởng Quốc phòng kể từ khi Cơ quan tình báo Hàn Quốc, Cơ quan tình báo quốc gia, thông tin bộ trưởng quốc phòng Triều Tiên ông Hyon Yong-chol bị xử tử vào tháng 4 năm 2015.
Vào tháng 6 năm 2018, có thông tin cho biết Pak đã bị cách chức khoảng một tuần trước hội nghị thượng đỉnh giữa Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên và Hoa Kỳ. Chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng đã được thay thế bởi tướng No Kwang-chol, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bộ trưởng Quốc phòng Triều Tiên đến Việt Nam
Bộ trưởng Bắc Triều Tiên
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
Đại tướng Quân đội Nhân dân Triều Tiên
|
2909870
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryphia%20palaestinica
|
Cryphia palaestinica
|
Cryphia palaestinica là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Cryphia
|
2619577
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gymnoscelis%20refusaria
|
Gymnoscelis refusaria
|
Gymnoscelis refusaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Gymnoscelis
|
19734462
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%20%C4%90%E1%BB%91i%20t%C3%A1c%20Th%C3%A1i%20B%C3%ACnh%20D%C6%B0%C6%A1ng
|
Chương trình Đối tác Thái Bình Dương
|
Chương trình Đối tác Thái Bình Dương là hoạt động được triển khai hằng năm bởi Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ (USN), với sự hợp tác của các chính phủ, lực lượng quân đội, tổ chức nhân đạo và phi chính phủ trong khu vực.
Việc triển khai được hình thành sau Thảm họa Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004, như một cách để cải thiện khả năng tương tác giữa các lực lượng quân đội, chính phủ và tổ chức nhân đạo trong khu vực về hoạt đông cứu trợ thảm họa. Đồng thời cũng tổ chức các hoạt động nhân đạo, y tế, nha khoa, kỹ thuật cho các quốc gia Thái Bình Dương và củng cố quan hệ, an ninh giữa các quốc gia trong khu vực.
Chương trình thường được thực hiện bởi một tàu đổ bộ hoặc tàu bệnh viện của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Lực lượng Quốc phòng Úc đã đóng góp các khoản tài sản kể từ lần triển khai đầu tiên vào năm 2006. Trong Chương trình Đối tác Thái Bình Dương 2011, đã có thêm sự tham gia của bảy quốc gia khác cùng với các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ,các tổ chức phi chính phủ và lực lượng khác trong Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ.
Lịch sử
Sau Chiến dịch Cứu trợ Thống nhất, Hoa Kỳ ứng phó với Thảm họa Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004, Hải quân Hoa Kỳ đã thấy được cơ hội xây dựng dựa trên thiện chí từ hoạt động này, cho nên đã lập kế hoạch triển khai hằng năm đến khu vực. Mục đích của việc triển khai Chương trình Đối tác Thái Bình Dương là để cải thiện khả năng tương tác của các lực lượng quân đội, chính phủ và tổ chức nhân đạo trong hoạt động cưu trợ thảm hoạ, đồng thời cũng cung cấp nhân đạo, y tế, nha khoa và kỹ thuật đến các quốc gia trong khu vực. Lần hoạt động đầu tiên được tiến hành vào năm 2006, được thực hiện bởi tàu USNS Mercy. Hoạt đông được triển khai đến Philippines, Bangladesh, Indonesia, Tây Timor và Đông Timor.
Năm 2007, Hạm đội Thái Bình Dương đã chuẩn bị cho một cuộc triển khai khác, lần này họ đã sử dụng tàu đổ bộ . Các quốc gia được ghé thăm là Philippines, Việt Nam, Papua New Guinea, Quần đảo Solomon và Quần đảo Marshall. Năm 2008, tàu USNS Mercy ghé thăm Liên bang Micronesia, Papua New Guinea, Philippines, Đông Timor và Việt Nam. Trong Chương trình Đối tác Thái Bình Dương 2008, có hơn 90,000 bệnh nhân đã được điều trị, bao gồm 14,000 bệnh nhân nha khoa và 1,300 bệnh nhân phẫu thuật. Dẫn đầu cho đợt triển khai năm 2009 là tàu USNS Richard E. Bird, đã đi đến Kiribati, Quần đảo Marshall, Samoa, Quần đảo Solomon và Tonga.
Năm 2008, chương trình được khởi hành 1 lần nữa bằng tàu U.S.N.S. Mercy. Chuyến đi bắt đầu từ San Diego vào ngày 1/5/2008. Chương trình Đối tác Thái Bình Dương cung cấp nhân đạo và kỹ thuật cho các quốc gia mà nó đi đến như Philippines, Việt Nam, Đông Timor và Papua New Guinea. Sau đó quay về Guam và Hawaii rồi trở về San Diego vào ngày 25/9/2008.
Phi hành đoàn gồm quân đội Hoa Kỳ, đại diện của các quốc gia đồng hành và các tổ chức phi chính phủ (NGO) đã đi đến Chuuk, một bang thuộc Liên bang Micronesia cho sứ mệnh cuối cùng của Chương trình Đối tác Thái Bình Dương 2008. Nhiệm vụ này phản ánh mối quan hệ lâu dài giữa Hoa Kỳ và Micronesia với hoạt động tiếp cận nhân đạo. Trong 10 ngày tại Micronesia sứ mệnh được các tổ chức phi chính phủ hợp tác và phối hợp chặt chẽ với các chuyên gia chăm sóc y tế tại địa phương. Các tình nguyện viên từ Dự án Hope và Đại học Tiểu bang California tại San Diego đã làm việc chặt chẽ với Hoa Kỳ và nhân viên y tế của các quốc gia đồng hành. Một số quốc gia đại diện bao gồm Canada, Ấn Độ, Úc và New Zealand. Hiệp hội Tiền nha khoa UCSD cung cấp nha sĩ, sinh viên nha khoa, sinh viên tiền nha khoa, y tế và sinh viên y tế sơ cấp, dược sĩ và sinh viên dược. Nhân viên quân sự và tình nguyện viên của tổ chức phi chính phủ đã làm việc cùng nhau để cung cấp nhân đạo và hỗ trợ công dân cho sáu địa điểm khác nhau tại Micronesia. Bệnh viện Tiểu bang Chuuk tại Đảo Weno được hưởng lợi từ việc xây dựng cơ sở của Hải quân Seabees.
Tổng thống Emanuel Mori của Micronesia đã ký một nghị quyết để cảm ơn phái đoàn Chương trình Đối tác Thái Bình Dương của USNS Mercy (T-AH19) trong phiên họp thường kỳ lần thứ 5 trong Đại hội 15 của Micronesia vào ngày 29/10/2008. Theo thông cáo báo chí từ Văn phòng Thông tin công Quốc gia của Liên bang Micronesia, Nghị quyết quốc hội số 15-145 được thiết lập để bày tỏ "lòng biết ơn sâu sắc và sự đánh giá cao đối với các nhóm chuyên gia dịch vụ chăm sóc y tế và phi hành đoàn của tàu USNS Mercy cho sự viện trợ nhân đạo và sự hỗ trợ y tế đối với người dân của tiểu bang Yap, Chuuk và Pohnpei, bao gồm cả việc ghé thăm Micronesia." Từ ngày 22 tháng tám đến ngày 1 tháng chín chuyến ghé thăm Micronesia là điểm dừng thứ năm và cũng là điểm dừng cuối cùng của tàu Mercy trong Chương trình Đối tác Thái Bình Dương 2008 kéo dài từ tháng năm đến tháng chín. Trong chuyến thăm Micronesia, tàu Mercy và nhân viên của chương trình đã chữa trị cho 3,000 bệnh nhân nha khoa, 15,000 bệnh nhân y tế và thực hiện hơn 200 ca phẫu thuật.
USNS Mercy trở lại Chương trình Đối tác Thái Bình Dương năm 2010, ghé thăm Việt Nam, Campuchia, Indonesia và Đông Timor . Mercy được hỗ trợ tại các thời điểm khác nhau bởi các tàu đến từ Nhật Bản, Indonesia, Singapore và Úc. Ngoài các hoạt động của Mercy , hai đợt triển khai riêng biệt đã được thực hiện trong khuôn khổ Chương trình Đối tác Thái Bình Dương 2010: tàu chỉ huy đến Palau, và tàu nâng hạng nặng đến Papua New Guinea.
Việc triển khai năm 2011, đã bắt đầu vào ngày 21 tháng ba và kết thúc vào ngày 4 tháng tám, và thực hiện bởi tàu đổ bộ . Ngoài nhân viên của Hải quân Hoa Kỳ, còn có sự đóng góp và tham gia các lực lượng khác trong Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ, cơ quan chính phủ, tổ chức phi chính phủ và quân đội Canada, Singapore và Tây Ban Nha về nhân sự và trang thiết bị; Những con tàu từ Cảnh sát biển Hoa Kỳ, Úc, New Zealand và Nhật Bản; và đội trực thăng đến từ Pháp. Ngoài việc thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng y tế và kỹ thuật tại Tonga, Vanuatu, Papua New Guinea, Đông Timor, và Liên bang Micronesia, hoạt động cũng hướng đến việc thực hiện xây dựng các dự án bền vững tại những quốc gia này. Trong ba cảng đầu tiên có 21,000 bệnh nhân đã được điều trị, hàng nghìn giờ tiếp xúc chính thức trong việc Trao đổi Chuyên gia (SMEEs) thành công, các lớp học và một hệ thống nước được xây dựng. Tổng chi phí cho năm 2011 được báo cáo là 20 triệu đô hoặc 4 triệu đô cho mỗi cảng.
Từ năm 2006 đến năm 2010, Chương trình Đối tác Thái Bình Dương đã ghé thăm 13 quốc gia, điều trị cho hơn 300,000 bệnh nhân và xây dựng hơn 130 dự án kỹ thuật.
Việc triển khai năm 2012 được thực hiển bởi USNS Mercy khởi hành từ San Diego vào ngày 3 tháng năm và kết thúc tại Campuchia vào ngày 11 tháng tám trước khi trở về nước. Mục tiêu là thiết lập khả năng ứng phó với các khủng hoảng hoạt động viện trợ nhân đạo và công dân đa quốc gia. Tàu Mercy đã ghé hai cảng tại Guam và Hawaii trước khi trở về. Ngoài nhân viên của Hải quân Hoa Kỳ, ngoài ra còn có sự tham gia từ các lực lượng khác từ Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ, các cơ quan chính phủ và tổ chức phi chính phủ và sự tham gia từ các nước đồng hành như Úc, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Peru, Hà Lan, New Zealand, Singapore, Hàn Quốc và Thái Lan. Một trong những thành tựu nổi bật là sự phát triển của một hệ sinh thái tự duy trì tại Vườn quốc gia Bunaken. Công viên hải dương quốc gia Bunaken là một công viên bảo tồn biển nằm trong Tam giác san hô, cung cấp môi trường sống cho 390 loài san hô cũng như nhiều loài cá, nhuyễn thể, bò sát và động vật biển có vú. Tại Indonesia có 200 ca phẫu thuật được thực hiện, hơn 2300 động vật chăn nuôi và thú nuôi được chăm sóc thú y và hơn 9,000 công dân địa phương được điều trị y tế. Tại Philippines có 271 ca phẫu thuật, và nhóm PP12 đã điều trị cho hơn 16,000 bệnh nhân. Tại Việt Nam, PP12 thực hiện hơn 12,000 ca điều trị y tế; 207 ca phẫu thuật; đã tiến hành gần 4,000 ca điều trị cho 1,600 động vật chăn nuôi và thú nuôi; cải tạo thành công và một toà nhà mới cho 2 phòng khám y tế.
Trong Chương trình Đối tác Thái Bình Dương 2019, thành viên của Tiểu đoàn Xây dựng Cơ động Hải quân 4 được triển khai đến Tuy Hòa, Phú Yên, Việt Nam, nơi mà họ đã xây dựng trạm y tế xã Hòa Phú. Tại Campuchia 12,679 bệnh nhân được phân loại; ba chương trình hỗ trợ phẫu thuật cho công dân, kết quả có 218 ca phẫu thuật trên tàu USNS Mercy (T-AH 19) và tại Bệnh viện quân sự Preah Kossamek ở Phnom Penh; bốn cuộc Trao đổi chuyên gia về vấn đề y tế (SMEEs) về kỹ thuật phẫu thuật và kỹ thuật y tế; bốn cuộc Trao đổi chuyên gia về sửa chữa thiết bị y tế dẫn đến 64 thiết bị được sửa chữa; hai dự án hỗ trợ thú y và đã có 1.375 con vật được khám và điều trị; ba dự án hỗ trợ kỹ thuật dân sự dẫn đến có ba nhà hộ sinh mới.
Sứ mệnh năm 2013 với sự tham gia của ba quốc gia chủ chốt, sứ mệnh bắt đầu vào ngày 15 tháng năm và kết thúc vào ngày 13 tháng tám 2020. Hoa Kỳ với tàu USS Pearl Harbor tập trung nỗ lực vào Samoa, Tonga và Quần đảo Marshall. Úc với tàu HMAS Tobruk đi đến Papua New Guinea và New Zealand điều tàu HMNZS Manawanui đến Kiribati và tàu HMNZS Canterbury đến Quần đảo Solomon. Các quốc gia tham gia khác bao gồm Canada, Pháp, Nhật Bản và Malaysia. Ngoài ra còn có các tổ chức phi chính phủ bao gồm NOAA, Project Handclasp, Project HOPE, USAID, Vets Without Borders và World Vets. Tại Samoa đã tổ chức hơn 60 cuộc khám chữa bệnh và nha khoa, cung cấp dịch vụ thú y tại 12 điểm khám và điều trị cho 2.633 lượt, bác sĩ thú y đã đánh giá cho 430 động vật và thực hiện năm nhiệm vụ về kỹ thuật và bốn cuộc khảo sát dưới nước của hải cảng và khảo sát được hơn 500 mẫu Anh ở Samoa. Tại Tonga đã điều trị cho 5,455 bệnh nhân, đánh giá 3,000 động vật và tiến hành 25 sự kiện quyên góp.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Pacific Partnership 2007 Homepage
Pacific Partnership 2008 Homepage
Pacific Partnership 2009 Homepage
Pacific Partnership 2010 Homepage
Pacific Partnership 2011 Homepage
Pacific Partnership 2012 Homepage
Pacific Partnership 2013 Homepage
Pacific Partnership 2014 Homepage
Pacific Partnership 2015 Homepage
Thái Bình Dương
Hải quân Hoa Kỳ
Hoạt động quân sự nhân đạo
|
2797149
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Enicospilus%20mnous
|
Enicospilus mnous
|
Enicospilus mnous là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Enicospilus
|
2929415
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leucania%20adonea
|
Leucania adonea
|
Leucania adonea là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
A
|
12504175
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Patrick%20Schagerl
|
Patrick Schagerl
|
Patrick Schagerl (sinh 20 tháng 9 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá Áo hiện đang thi đấu cho FC Blau-Weiß Linz.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1992
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Áo
Cầu thủ SKN St. Pölten
Cầu thủ First Vienna FC
Cầu thủ Kapfenberger SV
Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Áo
Tiền vệ bóng đá
|
2576126
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amata%20aucta
|
Amata aucta
|
Amata aucta là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
A
|
3347473
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%ADp%20%C3%A1c
|
Thập ác
|
Thập ác (十惡) là 10 tội nguy hiểm nhất trong pháp luật Trung Hoa cổ đại:
Mưu phản (謀反): lật đổ nhà vua
Mưu đại nghịch (謀大逆): phá hoại đền đài, lăng tẩm, cung điện của vua.
Mưu bạn (謀叛): phản bội tổ quốc
Ác nghịch (惡逆): âm mưu giết hay đánh đập ông bà, cha mẹ.
Bất đạo (不道): vô cớ giết nhiều người.
Đại bất kính (大不敬): lấy trộm các đồ tế lễ trong lăng tẩm vua, làm giả ấn của vua.
Bất hiếu (不孝): chửi rủa ông bà cha mẹ, không phụng dưỡng cha mẹ.
Bất mục (不睦): mưu giết hay bán những thân thuộc (5 đời).
Bất nghĩa (不義): dân giết quan lại, phản bội người có ơn.
Nội loạn (內亂): tội loạn luân.
Tham khảo
Luật phong kiến Trung Quốc
Yeet
|
14206802
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ishigaki%20Noriyuki
|
Ishigaki Noriyuki
|
Noriyuki Ishigaki (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Noriyuki Ishigaki đã từng chơi cho SC Sagamihara.
Tham khảo
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá Arterivo Wakayama
|
2639531
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pasiphila%20halianthes
|
Pasiphila halianthes
|
Pasiphila halianthes là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Pasiphila
|
2839698
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xenoschesis%20fulvicornis
|
Xenoschesis fulvicornis
|
Xenoschesis fulvicornis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xenoschesis
|
3153214
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20Thu%20H%C3%A0%20%28k%E1%BB%B3%20th%E1%BB%A7%29
|
Phạm Thu Hà (kỳ thủ)
|
Phạm Thu Hà (sinh 7 tháng 9 năm 1987 tại Hà Nội, Việt Nam) là một nữ kỳ thủ cờ tướng Việt Nam, người đang nắm kỉ lục vô địch quốc gia trẻ nhất khi mới 16 tuổi.
Sự nghiệp
Năm 10 tuổi, Phạm Thu Hà đã dự giải vô địch quốc gia. Năm 16 tuổi, Phạm Thu Hà vượt qua các đàn chị như Lê Thị Hương, Ngô Lan Hương, Châu Thị Ngọc Giao... để lên ngôi vô địch quốc gia năm 2003, với sự tham dự của 17 kỳ thủ. Chức vô địch này đã tạo nên bất ngờ. Phạm Thu Hà cũng giữ kỉ lục nhà vô địch cờ tướng quốc gia trẻ nhất.
Ngoài ra, Phạm Thu Hà còn có những thành công khác như giành ngôi vô địch ở một số giải đấu thủ mạnh toàn quốc (năm 2010, 2011...), á quân Giải cờ tướng toàn quốc – Đại hội Thể dục thể thao 2006, á quân Giải cờ tướng đồng đội toàn quốc 2013.
Chú thích
Vận động viên cờ tướng Việt Nam
|
19542353
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Isesaki
|
Ga Isesaki
|
là ga đường sắt nằm ở Isesaki, Gunma, Nhật Bản, được quản lý bởi .
Các tuyến
Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East)
Lịch sử
Ga Isezaki của (nay là Tuyến Ryomo) mở cửa vào ngày 20 tháng 11 năm 1889.. Ga Isezaki trên tuyến Tobu Isezaki mở cửa vào ngày 13 tháng 7 năm 1910.
Nhà ga trên cao được hoàn thành vào ngày 19 tháng 10 năm 2013.
trạm cấu trúc
JR East
Ga của có hai sân ga chờ phục vụ cho 3 đường ray.
Ke ga
Tobu
Ga của có hai sân ga chờ phục vụ cho 2 đường ray.
Ke ga
Vùng chung quanh
Isesaki
Bên cạnh
Tham khảo
Liên kết bên ngoài
JR East Ga Isesaki
Tobu Ga Isesaki Station
Nhà ga mở cửa vào 1889
Ga đường sắt ở Gunma
Tuyến Ryōmō
Nhà ga của Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản
|
2812972
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mesoleius%20articularis
|
Mesoleius articularis
|
Mesoleius articularis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Mesoleius
|
15153606
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hokkaido%20Broadcasting
|
Hokkaido Broadcasting
|
, còn được gọi là HBC, là một mạng phát sóng của Nhật Bản liên kết với Mạng Tin tức Nhật Bản (JNN). Trụ sở chính của họ được đặt tại Hokkaidoaidō.
HBC được thành lập vào ngày 30 tháng 11 năm 1951; chương trình phát thanh phát thanh chính thức bắt đầu vào ngày 10 tháng 3 năm 1952 và chương trình phát sóng trên TV bắt đầu vào ngày 1 tháng 4 năm 1957, là đài truyền hình thương mại đầu tiên ở Hokkaido.
Tham khảo
Liên kết ngoài
HBC Official Site
|
2932729
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Remigia%20collata
|
Remigia collata
|
Remigia collata là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Remigia
|
2574556
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rhodopina%20sakishimana
|
Rhodopina sakishimana
|
Rhodopina sakishimana là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Rhodopina
Động vật được mô tả năm 1966
|
3274975
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1c%20s%C4%A9%20th%C3%BA%20y%202
|
Bác sĩ thú y 2
|
Bác sĩ thú y 2 () là phim hài của Mỹ năm 2001, và là phần tiếp theo của Bác sĩ thú y năm 1998. Phim tiếp tục có sự tham gia của Eddie Murphy và Raven-Symoné. Phim được đạo diễn bởi Steve Carr; kịch bản được chắp bút bởi Larry Levin dựa trên tác phẩm Dr. Dolittle của Hugh Lofting.
Phân vai
Eddie Murphy vai Dr. John Dolittle
Raven-Symoné vai Charisse Dolittle
Jeffrey Jones vai Joe Potter
Kevin Pollak vai Riley
Kristen Wilson vai Lisa Dolittle
Kyla Pratt vai Maya Dolittle
Lil Zane vai Eric (Bạn trai của Charisse)
Mark Griffin vai Logger/Nature Show Narrator
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim năm 2001
Phim tiếp nối
Phim tiếng Anh
Doctor Dolittle
Phim của 20th Century Fox
Phim hãng Davis Entertainment
Phim quay tại Alaska
Phim lấy bối cảnh ở San Francisco, California
Phim của đạo diễn Steve Carr
Phim tưởng tượng hài hước
Phim lấy bối cảnh ở khu vực vịnh San Francisco
Phim tiếp nối Mỹ
Phim do Steve Carr đạo diễn
|
2587921
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hyperthaema%20pulchra
|
Hyperthaema pulchra
|
Hyperthaema pulchra là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hyperthaema
|
13818293
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mars%202
|
Mars 2
|
Mars 2 là một cuộc thám hiểm không người lái của chương trình sao Hỏa, một loạt các tàu khu trục không người lái và quỹ đạo do Liên Xô đưa ra ngày 19 tháng 5 năm 1971. Nhiệm vụ của Mars 2 và Mars 3 bao gồm tàu vũ trụ giống nhau, mỗi tàu vũ trụ có một thiết bị bay trên quỹ đạo và một thiết bị hạ cánh. Các thiết bị bay trên quỹ đạo giống hệt với Venera 9 bus hoặc orbiter. Loại bus / orbiter là 4MV. Các tàu vũ trụ này đã được phóng lên bằng một tên lửa phóng lớn Proton-K với một giai đoạn đẩy tiếp theo trên Blok D. Tàu vũ trụ Mars 2 trở thành vật thể nhân tạo đầu tiên chạm tới bề mặt của sao Hỏa, mặc dù hệ thống hạ cánh thất bại và tàu đổ bộ đã bị mất.
Phóng lên
Vào ngày 19 tháng 5 năm 1971, chiếc xe phóng lớn Proton-K đã phóng chiếc đầu dò từ sân bay vũ trụ Baikonur. Sau khi giai đoạn đầu tiên tách ra giai đoạn thứ hai đã được đốt cháy. Động cơ sân khấu thứ ba đã đẩy Mars 2 vào quỹ đạo chờ vòng quanh Trái Đất, sau đó giai đoạn Blok D đã đẩy Mars 2 vào quỹ đạo đi tới sao Hỏa.
Vào quỹ đạo
Loại modul quỹ đạo là 4MV, cũng được sử dụng cho Mars-3 và sau đó là sao Hỏa và Venera. Động cơ quỹ đạo thực hiện một lực đẩy để đưa tàu vũ trụ vào một quỹ đạo kích cỡ 1380 x 24.940 km, quỹ đạo 18 giờ vòng quanh sao Hỏa với độ nghiêng 48,9 độ. Các dụng cụ khoa học thường được bật trong khoảng 30 phút gần điểm cực cận.
Mục tiêu khoa học chính của modul quỹ đạo là hình ảnh bề mặt sao Hỏa và mây trên sao Hỏa, xác định nhiệt độ trên sao Hỏa, nghiên cứu địa hình, thành phần và tính chất vật lý của bề mặt, đo đặc tính của khí quyển, theo dõi gió mặt trời và từ trường liên hành tinh và sao Hỏa. và hoạt động như một trung gian truyền thông để gửi tín hiệu từ thiết bị đổ bộ đến Trái Đất.
Tham khảo
|
2905610
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acontia%20sedata
|
Acontia sedata
|
Acontia sedata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Acontia
|
2604528
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eupithecia%20bohatschi
|
Eupithecia bohatschi
|
Eupithecia bohatschi là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
B
|
11133980
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c%20da%20tr%E1%BA%AFng
|
Chủ nghĩa dân tộc da trắng
|
Chủ nghĩa dân tộc da trắng là một dạng của Chủ nghĩa dân tộc mà giữ niềm tin rằng người da trắng là một chủng tộc và tìm cách phát triển, phát huy, bảo tồn, và duy trì một bản sắc dân tộc da trắng. Những người đề xướng của Chủ nghĩa dân tộc trắng xác định và gắn liền với khái niệm về một quốc gia cho dân tộc da trắng. Những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng nói họ tìm cách đảm bảo sự sống còn và tồn tại của chủng tộc da trắng, và các nền văn hoá của các quốc gia da trắng. Họ cho rằng người da trắng nên duy trì đa số ở các nước da trắng, duy trì sự thịnh vượng kinh tế, và nền văn hoá của họ phải là được bảo tồn duy trì và gìn giữ. Nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng tin rằng việc lai giống, đa văn hóa, chào đón người nhập cư mà không phải là người da trắng và tỷ lệ sinh đẻ thấp trong số người da trắng đang đe dọa chủng tộc da trắng, và một số cho rằng đó là dấu hiệu của nạn diệt chủng người da trắng.
Quan điểm
Những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng cho rằng mọi chủng tộc đều cảm thấy một tình cảm tự nhiên theo đồng loại của riêng mình. Họ ủng hộ tự bảo vệ chủng tộc và tuyên bố rằng văn hoá là một sản phẩm của chủng tộc. Những người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng tìm cách đảm bảo sự tồn tại của chủng tộc da trắng, và nền văn hoá của các quốc gia da trắng lịch sử. Họ cho rằng người da trắng nên duy trì đa số trong các nước da trắng chủ yếu, duy trì sự phát triển thịnh vượng của họ về đời sống chính trị và kinh tế, và nền văn hoá của họ cần phải được bảo tồn. Nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng tin rằng việc lai giống, chủ nghĩa đa văn hóa, chào đón làn sóng nhập cư hàng loạt người không phải dân da trắng và tỷ lệ sinh thấp ở người da trắng đang đe dọa chủng tộc da trắng, và một số cho rằng điều này là nguyên nhân dẫn đến nạn diệt chủng người da trắng.
Định nghĩa về người da trắng
Hầu hết các quốc gia dân tộc da trắng đều xác định người da trắng một cách hạn chế. Ở Hoa Kỳ, thường - mặc dù không phải chỉ có ý nghĩa - là tổ tiên của người châu âu dân ngoại; một ví dụ là Phong trào xã hội chủ nghĩa xã hội của Hoa Kỳ, quy định rằng "Thành viên của Đảng được mở cho những người dị tính khác không Semitic có nguồn gốc Châu Âu". Một số người theo chủ nghĩa dân da trắng, như Jared Taylor, đã lập luận rằng người Do Thái có thể được coi là người da trắng. Mặc dù nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc da trắng phản đối Israel và chủ nghĩa Zion, nhưng một số người theo chủ nghĩa quốc gia dân tộc da trắng như William Daniel Johnson và Jared Taylor đã bày tỏ sự ủng hộ cho Israel và đã tạo ra sự tương đồng giữa ý thức hệ của họ với Chủ nghĩa phục quốc Do Thái.
Các lý thuyết chủng tộc khác nhau, chẳng hạn như chủ nghĩa Bắc Âu và chủ nghĩa dân tộc gốc Đức, xác định các nhóm khác nhau là da trắng, cả hai ngoại trừ một số người châu Âu ở phía nam và phía đông vì một sắc thái chủng tộc.
Các nhân vật chủ chốt
Virginia Abernethy
Andrew Auernheimer
Gordon Lee Baum
Louis Beam
Richard Girnt Butler
Theodore G. Bilbo
Don Black
Peter Brimelow
Thomas W. Chittum
Craig Cobb
Harold Covington
Ian Stuart Donaldson
David Duke
James Edwards
Paul Fromm (activist)
Matthew F. Hale
Hinton Rowan Helper
William Daniel Johnson
Ben Klassen
August Kreis III
Alex Linder
Kevin B. Macdonald
Tom Metzger
Nikolaos Michaloliakos
Merlin Miller
William Dudley Pelley – người sáng lập Silver Legion of America
William Luther Pierce
Thomas Robb
Saga
Richard B. Spencer
Gerald L. K. Smith
Edgar Steele
J. B. Stoner
Kevin Alfred Strom
Tomislav Sunić
Wesley A. Swift
Hal Turner
Jared Taylor
Eugène Terre'Blanche
Varg Vikernes
James Wickstrom
Xem thêm
Alt-right
Know Nothing
Thuyết âm mưu diệt chủng người da trắng
Sách tham khảo
Chú thích
Trắng
Chính trị và chủng tộc
Phân biệt chủng tộc
Người da trắng thượng đẳng
|
15113052
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chioma%20Agomo
|
Chioma Agomo
|
Chioma Kanu Agomo là một giáo sư luật người Nigeria tại Đại học Lagos với chuyên ngành về luật hợp đồng, luật công nghiệp, luật bảo hiểm và giới và luật.
Giáo dục và giáo dục sớm
Chioma Agomo (nhũ danh Offonry) sinh ngày 1 tháng 3 năm 1951 tại Nkpa, Khu vực chính quyền địa phương Bende thuộc bang Abia, Nigeria. Bà theo học tại trường trung học nữ theo phương pháp, Ovim, nhưng việc học hành của bà bị gián đoạn từ năm 1967 đến 1970 bởi Nội chiến Nigeria. Cô đã đến London vào năm 1970 để hoàn thành chương trình giáo dục của mình tại Trường Cao đẳng Giáo dục Kennington trước khi đến Trường Cao đẳng Giáo dục Kingston, Kingston, Surrey, Vương quốc Anh. Agomo có được cả bằng Cử nhân Luật (LL. B) và thạc sĩ luật (LL. M) từ Queen Mary College, Đại học London vào năm 1976 và 1977 tương ứng. Từ 1979 đến 1980, bà theo học trường Luật Nigeria trước khi được gọi vào Bar năm 1980.
Nghề nghiệp
Năm 1981, Agomo gia nhập Khoa Luật thương mại và công nghiệp với tư cách là giảng viên. Từ 1994 đến 1995, bà ở Hoa Kỳ với tư cách là Học giả nghiên cứu Fulbright cao cấp. Agomo được bổ nhiệm làm giáo sư luật năm 1999 và đã ba lần làm Trưởng phòng Luật. Agomo là thành viên của Trung tâm đào tạo quốc tế của ILO (ITCILO) và một lần nữa vào năm 2006 tại Torino. Năm 2004, Giáo sư Agomo được bầu làm Trưởng khoa Luật, đưa bà trở thành nữ trưởng khoa đầu tiên được bầu của một Khoa tại Đại học Lagos. Năm 2006, Agomo trở lại Hoa Kỳ trong Chương trình Chuyên gia Tham quan Fulbright. Giáo sư Agomo đã trở thành thành viên danh dự của Đại học Queen Mary Luân Đôn năm 2011.
Giáo sư Agomo là thành viên của Hội đồng Kiểm định của Ủy ban Đại học Quốc gia để đánh giá các chương trình luật tại Đại học Jos và Đại học Maiduguri. Bà là Trưởng nhóm Công nhận của Đại học Ghana, Legon và Đại học Khoa học và Công nghệ Kwame Nkrumah, Kumasi, Ghana. Giáo sư Agomo cũng là thành viên của Hội đồng Giáo dục pháp lý, Ủy ban điều hành Viện nghiên cứu pháp lý nâng cao Nigeria.
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1951
|
2624856
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Idaea%20eremiata
|
Idaea eremiata
|
Idaea eremiata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
E
|
2594332
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anisodes%20proconcava
|
Anisodes proconcava
|
Anisodes proconcava là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
P
P
|
14913470
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20An%20H%E1%BA%A3o
|
Cầu An Hảo
|
Cầu An Hảo là một cây cầu bắc qua sông Đồng Nai, kết nối cù lao Hiệp Hòa (Cù lao Phố) ra đường Lê Văn Duyệt - ngã tư Vũng Tàu.
Cầu được khởi công vào ngày 30 tháng 12 năm 2015, bắc qua sông Đồng Nai (đoạn qua phường An Bình và xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa). Cầu có thiết kế với tổng chiều dài 2.153 m, gồm phần cầu dài 475 m, rộng 23 m cho 6 làn xe lưu thông, còn lại là đường dẫn vào cầu.
Đây là cây cầu nằm trong hạng mục bổ sung thuộc dự án xây dựng cầu Đồng Nai mới và tuyến 2 đầu cầu do Tổng công ty xây dựng số 1 (CC1) làm chủ đầu tư theo hình thức BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao). Tổng vốn xây dựng trên 1.000 tỉ đồng.
Cầu được thông xe kỹ thuật vào ngày 30 tháng 4 năm 2017.
Tham khảo
An Hảo
Biên Hòa
An Hảo
|
19490634
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BA%A1i%20Cung
|
Lại Cung
|
Lại Cung (; ? - 223?), không rõ tên tự, là quan viên nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc đời
Lại Cung quê ở quận Linh Lăng, Kinh Châu, tính cách trung dũng, cương trực, tài khí bất phàm, trọng nghĩa khí, được khen là bậc túc sĩ, ra làm quan cho Kinh Châu mục Lưu Biểu.
Khoảng sau năm 203, thứ sử Giao Châu Trương Tân bị thuộc hạ là Khu Cảnh giết chết. Lưu Biểu muốn can thiệp vào Giao Châu, phong Lại Cung làm thứ sử, lại lấy Ngô Cự làm thái thú quận Thương Ngô. Lại Cung cùng đi với Ngô Cự. Trên đường đến trị sở, Cung với Cự bất hòa, cho quân đánh nhau. Cuối cùng, Lại Cung thất bại, phải chạy về Linh Lăng.
Năm 208, Lưu Bị làm chủ Kinh Nam. Lại Cung theo về với Lưu Bị (không rõ trước hay sau trận Xích Bích), được phong chức Trấn viễn tướng quân.
Năm 219, sau chiến thắng Hán Trung, Lại Cung cùng Mã Siêu, Hứa Tĩnh, Bàng Hi, Xạ Viện, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi, Hoàng Trung, Pháp Chính, Lý Nghiêm hơn 120 người dâng biểu xin Lưu Bị xưng Hán Trung vương. Lưu Bị xưng vương, phong Lại Cung giữ chức Thái thường khanh, sau lại thăng chức Thái thường.
Năm 220, Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, xưng đế lập ra triều Tào Ngụy. Lại Cung theo Gia Cát Lượng dâng lời mong Lưu Bị xưng đế để nối ngôi nhà Hán. Năm 221, Lưu Bị chính thức lên ngôi, tức Hán Chiêu Liệt Đế, cất quân đánh Tôn Quyền để báo thù cho Quan Vũ, không may bị Lục Tốn đánh bại. Trong chiến dịch này, Lại Cung ở lại đất Thục.
Năm 223, Chiêu Liệt Đế băng, Lại Cung đề nghị hợp táng Chiêu Liệt đế với Hoàng Tư phu nhân, được triều thần đồng ý. Khi Hậu Chủ lên ngôi, lấy Vương Mưu giữ chức Thái thường thay Cung. Khả năng Lại Cung mất lúc này.
Gia đình
Lại Quăng (賴厷), con trai của Lại Cung, giữ chức Tây tào lệnh sử thuộc phủ thừa tướng. Năm 227, thừa tướng Gia Cát Lượng dẫn quân ra Hán Trung, chuẩn bị Bắc phạt. Quăng đi theo, giúp thừa tướng quản lý tiền đồn quan trọng này. Lại Quăng chết khi còn trẻ, khiến Gia Cát Lượng vô cùng thương tiếc, viết thư cho Trương Duệ, Tưởng Uyển rằng: Lệnh sử tổn thất Lại Quăng, duyện thuộc mất đi Dương Ngung, là tổn thất lớn của triều đình a.
Trong văn hóa
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, Lại Cung xuất hiện ở hồi 80, giữ chức Thái thường khanh, cùng các đại thần thỉnh cầu Lưu Bị đăng cơ. Nhưng trong một số phiên bản, tên của Lại Cung bị viết sai thành Lại Trung.
Tham khảo
Trần Thọ, Bùi Tùng Chi chú, Tam quốc chí.
Chú thích
Sinh thế kỷ 2
Mất thế kỷ 3
Người Hồ Nam
Thứ sử Giao Châu
Nhân vật chính trị Tam Quốc
Nhân vật chính trị Thục Hán
Nhân vật Tam quốc diễn nghĩa
|
3282292
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neferu%20I
|
Neferu I
|
Đối với những vương hậu cùng tên, xem thêm Neferu II và Neferu III.
Neferu I là vương hậu đầu tiên của Vương triều thứ 11 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà là vợ của pharaon Mentuhotep I. Tên của bà nghĩa là "Sắc đẹp".
Gia quyến
Con trai của bà có lẽ là Intef I và Intef II. Nếu như vậy thì bà là bà nội của Intef III (con của Intef II) và Iah, vợ ông. Neferu được nhắc đến trên một tấm bia.
Có một số giả thuyết đã đồng nhất Neferu với Neferukhayet, người được cho là vợ của Intef II. Nếu điều này đúng thì các danh hiệu của bà sẽ là: "Vợ vua, tình yêu của ông", "Con gái của Vua" và "Niềm vinh dự của hoàng gia".
Tham khảo
Vương hậu Ai Cập cổ đại
Mentuhotep I
|
14616057
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ernie%20Forrest
|
Ernie Forrest
|
Ernest Forrest (19 tháng 2 năm 1919 – tháng 1 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí right-half tại Football League.
Trong Thế chiến thứ hai, Forrest được ghi danh vào Trung đoàn 53 Pháo binh Hoàng gia (Pháo binh Bolton), cùng với nhiều đồng đội khác.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ernie Forrest tại Spartacus Educational
Sinh năm 1919
Mất năm 1987
Vận động viên Sunderland
Quân nhân Lục quân Anh trong Thế chiến thứ hai
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá Darwen F.C.
Cầu thủ bóng đá Bolton Wanderers F.C.
Cầu thủ bóng đá Grimsby Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Millwall F.C.
Cầu thủ bóng đá English Football League
|
2815621
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neotheronia%20hespenheidei
|
Neotheronia hespenheidei
|
Neotheronia hespenheidei là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Neotheronia
|
19776827
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%97i%20s%E1%BB%A3%20c%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n
|
Nỗi sợ cộng sản
|
Nỗi sợ cộng sản hay nỗi sợ đỏ (tiếng Anh: red scare) là thuật ngữ chỉ rõ hai thời kỳ chống Cộng sản,chống chủ nghĩa xã hội và chống cánh tả ở Mỹ: nỗi sợ đỏ lần thứ nhất, từ 1919 đến 1921, và nỗi sợ đỏ lần thứ hai, từ 1947 đến 1957. Nỗi sợ đỏ lần thứ nhất nhắm vào phong trào Cách mạng công nhân (có liên quan đến chủ nghĩa xã hội) và các nhà hoạt động chính trị cấp tiến. Nỗi sợ đỏ lần thứ hai tập trung vào những người cộng sản trong và ngoài nước Mỹ mà đang có ảnh hưởng đến xã hội hoặc đang xâm nhập vào chính quyền liên bang, hoặc cả hai. Hiện nay đang có làn sóng chống cộng và cánh tả lần 3 mà người khởi đầu là Tổng thống Donald Trump.
Chủ nghĩa xã hội ở Mỹ
Chủ nghĩa chống cộng
|
15213934
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Grammistes%20sexlineatus
|
Grammistes sexlineatus
|
Cá mú sáu chỉ, tên khoa học là Grammistes sexlineatus, là loài cá biển duy nhất thuộc chi Grammistes trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1792.
Từ nguyên
Từ định danh sexlineatus trong tiếng Latinh có nghĩa là "có sáu sọc" (sex: "sáu" và lineatus: "có sọc"), hàm ý đề cập đến sáu dải sọc trắng/vàng dọc theo chiều dài cơ thể ở loài cá này; từ grammistes bắt nguồn từ γράμματος (grámmatos) trong tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là "chữ viết, nét vẽ", hàm ý tương tự như từ định danh.
Phạm vi phân bố và môi trường sống
Từ Biển Đỏ và bờ nam bán đảo Ả Rập, G. sexlineatus được phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Marquises và Tuamotu (Polynésie thuộc Pháp), băng qua phần lớn những vùng biển thuộc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, ngược lên phía bắc đến vùng biển phía nam Nhật Bản, xa về phía nam đến đảo Lord Howe (Úc) và New Zealand (gồm cả quần đảo Kermadec).
Ở Việt Nam, G. sexlineatus được ghi nhận tại quần đảo Hoàng Sa; cù lao Chàm và bờ biển Quảng Nam; đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi); Phú Yên; vịnh Nha Trang (Khánh Hòa); Ninh Thuận và các đảo đá ngoài khơi Bình Thuận.
G. sexlineatus sống tập trung trên các rạn san hô viền bờ và có thể được tìm thấy ở độ sâu đến 130 m, nhưng chúng thường ẩn mình bên dưới các gờ và hốc đá vào ban ngày.
Mô tả
G. sexlineatus có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 30 cm. Loài này có màu nâu sẫm (gần như đen) với các dải sọc vàng/trắng ở đầu và dọc hai bên lườn. Các sọc này có màu trắng ở cá đực và vàng hơn ở cá cái. Cá con chỉ có hai dải sọc trắng. Ở những cá thể đã già, các sọc trên cơ thể đứt đoạn thành các vạch ngắn. Môi trên có một đốm đen viền xanh óng.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 60–72.
Sinh thái học
G. sexlineatus, cũng như nhiều loài cá thuộc tông Grammistini, có các tuyến sản sinh độc tố ở lớp hạ bì. Độc tố mà những loài cá này tiết ra có tên gọi là grammistin, vốn được đặt theo tên của tông Grammistini, có tác dụng tán huyết. Chất độc này có thể làm nước nổi bọt như xà phòng nên những loài Grammistini được gọi chung là "cá xà phòng".
Hai loài G. sexlineatus và Pogonoperca punctata được đánh giá là có độc tính mạnh hơn những loài cá xá phòng khác. Ở G. sexlineatus, có 7 grammistin được phân lập từ chúng, được đánh thứ tự là Gs 1, Gs 2 và Gs A–E; grammistin Gs 2 có hoạt tính tán huyết cao hơn gấp 6–11 lần và gây ngộ độc ichthyotoxin gấp 10 lần so với Gs 1.
Thức ăn của G. sexlineatus là các loài cá nhỏ hơn.
Thương mại
G. sexlineatus hầu như không có giá trị thương mại trong ngành kinh doanh cá cảnh.
Tham khảo
S
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Ai Cập
Cá Israel
Cá Oman
Cá Mozambique
Cá Nam Phi
Cá Madagascar
Cá Maldives
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá Malaysia
Cá Indonesia
Cá Nhật Bản
Cá Úc
Cá New Zealand
Cá châu Đại Dương
Cá Palau
Động vật được mô tả năm 1792
|
15116078
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odete%20Semedo
|
Odete Semedo
|
Maria Odete da Costa Semedo (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1959 tại Bissau) là một nhà văn và nhà giáo dục từ Guinea-Bissau. Bà làm việc ở cả tiếng Bồ Đào Nha và Guinea Creole.
Semedo nghiên cứu ngôn ngữ và văn học hiện đại tại Đại học Nova de Lisboa, và từng giữ chức chủ tịch ủy ban quốc gia UNESCO. Bà là người sáng lập tạp chí Revista de Letras, Artes e Cultura Tcholona và đã xuất bản hai tập thơ là Entre o Ser eo Amar và No Fundo do Canto. Bà làm việc tại Bissau với tư cách là nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại Học viện Nuto-de Estudos e Pesquisas. Trong sự nghiệp của mình, bà cũng đã từng là một bộ trưởng chính phủ, đầu tiên là Giáo dục Quốc gia và sau đó là Sức khỏe Cộng đồng.
Công trình
Entre o Ser eo Amar (1996)
Histórias e passadas que ouvi contar (2003)
No Fundo Do Canto (2007)
Guiné-Bissau - Historia, Cultura, Sociedade e Literatura (2010)
Literaturas da Guiné-Bissau - Cantando os escritos da história (2011)
Tham khảo
Nữ nhà văn thế kỷ 21
Nữ nhà văn thế kỷ 20
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1959
|
2932665
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maliattha%20bicolor
|
Maliattha bicolor
|
Maliattha bicolor là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Maliattha
|
3171711
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sims
|
USS Sims
|
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ cùng một tàu hải quân từng được đặt cái tên USS Sims hay tương tự, được đặt theo tên Đô đốc William Sims (1858-1936), người thúc đẩy việc hiện đại hóa Hải quân Hoa Kỳ:
là một tàu khu trục, chiếc dẫn đầu trong lớp của nó, nhập biên chế năm 1939 và bị đánh chìm trong chiến đấu năm 1942
là một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley nhập biên chế năm 1943 và xuất biên chế năm 1946
là một tàu frigate lớp Knox nhập biên chế năm 1970 và xuất biên chế năm 1991
là một tàu vận tải lớp Admiral W. S. Benson hạ thủy năm 1945, chuyển cho Lục quân năm 1950 và đổi tên thành USNS General William O. Darby (T-AP-127) trước khi ngừng hoạt động năm 1991
Tên gọi tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ
|
2916083
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eriopyga%20angustimargo
|
Eriopyga angustimargo
|
Eriopyga angustimargo là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Eriopyga
|
2706537
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Galadra%20rhomboidata
|
Galadra rhomboidata
|
Galadra rhomboidata là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Galadra
|
13711218
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uni5
|
Uni5
|
Uni5 là một nhóm nhạc của Việt Nam có 6 thành viên được thành lập và quản lý bởi công ty 6th Sense Entertainment.
Tên gọi
Uni5 là một hình thức chơi chữ từ unify (thống nhất, nhằm chỉ sự đoàn kết giữa các thành viên) và 5 đặc trưng giúp nhận dạng nhóm nhạc này. 5 đặc trưng bao gồm:
Nam tính/Manly
Hấp dẫn/Attractive
Độc đáo/Unique
Nhiệt huyết/Passion
Chuyên nghiệp/Professional
Lịch sử
Trước khi ra mắt
Toki (tên thật Vũ Đức Thành): Được biết đến với biệt danh Thành Thỏ, là một nhân vật nổi tiếng trên mạng xã hội trước khi vào nhóm. Có sở trường đọc rap, sáng tác và hát.
K.O (tên thật Nguyễn Thái Sơn): Trước khi ra mắt với tư cách là thành viên Uni5, anh từng được chuẩn bị ra mắt với thành viên của một nhóm nhạc khác nhưng đến cuối cùng nhóm không được debut. Ngoài ca hát, K.O còn có khả năng chơi guitar, piano, và có khả năng sáng tác tốt.
Tùng Maru (tên thật Hồ Lê Thanh Tùng): Được biết đến như một vũ công của St.319. Có khả năng nhảy và sáng tác bài hát. Trước đó, anh cũng từng là thành viên của một nhóm nhảy, cùng với Hikari (SGO48). Trước khi ra mắt với nhóm, anh từng xuất hiện trong MV Xóa Đi Qua Khứ của Như Hexi.
Toof.P (tên thật Nguyễn Lâm Hoàng Phúc): Từng tham gia Giọng hát Việt năm 2013 và dừng chân tại Top 20 của Team HLV Quốc Trung. Năm 2016 anh tham gia Bài hát hay nhất.
Cody (tên thật Võ Đình Nam): Là một vũ công hiphop, poping có một thời gian dài đã tham gia vào nhiều nhóm nhảy. Thời trung học, anh tham gia vào nhóm nhảy Beatronic. Có khả năng nhảy hip hop, chơi ghita và beatbox.
Lục Huy (tên thật Lục Quang Huy): Cũng từng là một vũ công của St.319 và Stay Crew. Trước đây anh đã tham gia chương trình Ngôi sao Việt 2014, đoạt giải Á quân của cuộc thi Khởi Đầu Ước Mơ 2016 và giữ vai trò main vocal trong Uni5.
Sau nhiều buổi tuyển chọn tài năng 6th Sense Entertainment đã chọn ra 6 thành viên phù hợp nhất để cho ra mắt trong đội hình Uni5.
2016: Tên fan club và ra mắt chính thức
Cuối tháng 8/2016, Ông Cao Thắng và Đông Nhi bất ngờ cùng nhau hé lộ logo trắng đen của nhóm nhạc nam mới Uni5 mà cả hai đỡ đầu, kèm theo đó là hình ảnh đầu tiên của 2 thành viên Toki và K.O khiến các fan không khỏi sốt sắng.
Ngày 3/9/2016, Uni5 công bố tên fan club của họ - UNI mang ý nghĩa là You(U) And(N) I(Bạn và tôi).
Ngày 4/9/2016, Sau những thông tin "nhỏ giọt" khiến cộng đồng mạng chờ đợi, cuối cùng MV đầu tay mang tên C'mon của Uni5 - nhóm nhạc nam 2 thành viên(K.O và Toki) của Đông Nhi và Ông Cao Thắng đã chính thức ra mắt vào ngày 4/9. Ngay khi ra mắt chính thức, MV C'mon lập tức trở thành chủ đề bàn tán sôi nổi của cư dân mạng. Rất nhiều ý kiến ủng hộ sản phẩm đầu tay của Uni5 bởi không chỉ sở hữu ngoại hình ấn tượng, C'mon còn là một bản Hip Hop cực "đã tai", cùng với MV quá chất về mọi mặt. Nhiều người cho rằng với sản phẩm đầu tay ấn tượng như thế này, hoàn toàn có thể tin vào sự thành công của Uni5 trong thời gian ngắn tới. Bên cạnh đó, vẫn có những ý kiến cho rằng Uni5 bị ảnh hưởng từ Kpop. Ca khúc được sáng tác bởi nhạc sĩ Huỳnh Hiền Năng và K.O, Toki.
Ngày 3/10, Uni5 chính thức tung ra MV Xin Hãy Rời Xa trên mạng xã hội. Chưa đầy 12 tiếng ra mắt, MV mới của tân binh Uni5 đã thu hơn 80.000 lượt xem trên kênh Youtube chính thức. Ca khúc được sáng tác bởi nhạc sĩ Huỳnh Hiền Năng và K.O, Toki.
2017: Bổ sung thành viên
Ngày 10/1, Uni5 tiếp tục cho ra mắt phim ngắn ca nhạc mang tên Khóc Bằng Nụ cười.
Tại sân khấu nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/1, nhóm đã được công bố là chiến thắng Giải Mai Vàng 2016 về hạng mục nhóm nhạc được yêu thích nhất.
Cuối tháng 10 đầu tháng 11, sau hơn 1 năm hoạt động với đội hình 2 thành viên, trên trang fanpage của Uni5 bất ngờ hé lộ lần lượt hình ảnh của 4 thành viên Tùng Maru, Toof.P, Cody, Lục Huy để hoàn thành đội hình 6 thành viên.
Ngày 24/11, Uni5 với đội hình mới 6 thành viên đã chính thức cho ra mắt MV Kẻ Cắp Trái Tim. Ca khúc được sáng tác bởi nhạc sĩ Huỳnh Hiền Năng và Cody, K.O, Lục Huy, Toki, Tùng Maru, Toof.P.
24/12, Uni5 tung MV Chúc Em Ngủ Ngon - một món quà mà nhóm dành tặng fan "Uni"nhóm nhân dịp giáng sinh. Ca khúc được sáng tác bởi nhạc sĩ Huỳnh Hiền Năng và Cody, K.O, Lục Huy, Toki, Tùng Maru, Toof.P.
2018: Trở lại với những ca khúc mới
Ngày 1/2, Uni5 lại trình làng người hâm mộ ca khúc Tết Đến Thật Rồi.
Ngày 21/4, nhóm ra mắt MV Vì Em Là Oxy.
Ngày 21/8, nhóm ra mắt MV Sai do chính thành viên Tùng Maru sáng tác. Ca khúc đã nhanh chóng đạt được 1 triệu lượt xem ngay trong 24h đầu tiên ra mắt.
2019: Toki rời nhóm
Tại sân khấu nhà hát Quân đội ngày 3/1, nhóm đã được công bố là chiến thắng Keeng Young Awards 2018 về hạng mục nhóm nhạc được yêu thích nhất.
Ngày 10/1, nhóm đã được công bố là chiến thắng Zing Music Awards 2018 về hạng mục sự kết hợp được yêu thích.
Vào ngày 4/3, thành viên Toki Thành Thỏ đã chính thức thông báo dừng mọi hoạt động với tư cách là một thành viên của Uni5 sau một thời gian dài đóng băng hoạt động cùng nhóm, tuy nhiên anh vẫn là nghệ sĩ trực thuộc công ty 6th Sense Entertainment và Uni5 tiếp tục hoạt động với 5 thành viên còn lại.
Vào 19h ngày 7/3, Uni5 cho ra mắt bài hát Mẹ Ơi do Tùng Maru sáng tác và nhanh chóng lọt top cao trên BXH Zingchart.
Ngày 24/6, Uni5 ra mắt bài hát Hãy Khóc Trên Vai Anh.
2020: Vlive Year End Party 2019, và sự trở lại
Vào ngày 17/1, Uni5 cùng với UNI đã được công bố là chiến thắng về hạng mục Favourite Group Of The Year.
Vào ngày 30/3, Uni5 kết hợp với Ninh Dương Lan Ngọc, Liên Bỉnh Phát, Jun Phạm, Đức Phúc, Han Sara, Trọng Hiếu, Trung Quân Idol, LipB, Hồ Quang Hiếu, Tạ Quang Thắng, Đinh Mạnh Ninh ra mắt MV Việt Nam Sẽ Chiến Thắng.
Vào ngày 15/9, Uni5 ra mắt MV mới mang tên Nói Dối Cả Thế giới Vì Em do thành viên Lục Huy sáng tác.
2021: Vlive Year End Party 2020
Vào ngày 16/1, Uni5 cùng với Uni đã được công bố là chiến thắng về hạng mục V Fanship Comunity.
Vào ngày 23/5, Uni5 tham gia chương trình The Heroes - Thần tượng đối thần tượng để khẳng định vị trí bản thân. Tại chương trình, nhóm kết hợp cùng producer Nemo (Unimotion) và được dẫn dắt bởi Master Nguyễn Hải Phong. Chung cuộc, nhóm thắng 4 trận liên tiếp từ vòng 4 đến Chung kết 2 để giành vị trí Á quân.
2022: Lục Huy rời nhóm
Vào ngày 27 tháng 12, Lục Huy thông báo rằng anh ấy sẽ rời Uni5.
2023: Toof.P rời nhóm
Vào ngày 7 tháng 8, K.O và Cody ra mắt đĩa đơn Nó Không Muốn.
Vào 16 tháng 8, Toof.P bất ngờ thông báo rời nhóm.
Thành viên
Dòng thời gian
Video âm nhạc
Video âm nhạc
Video âm nhạc đã xuất hiện
Phim đã tham gia
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Ban nhạc Việt Nam
Nhóm nhạc Việt Nam
|
3694673
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mamie%20Eisenhower
|
Mamie Eisenhower
|
Mamie Geneva Doud Eisenhower(14/11/1896 - 1/11/1979) là phu nhân của Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower và Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ từ năm 1953 đến năm 1961.
Mamie kết hôn với Dwight Eisenhower ở tuổi 19 vào năm 1916. Đôi vợ chồng trẻ di chuyển thường xuyên giữa các khu quân sự trong nhiều bài đăng, từ Panama đến Philippines. Là Đệ Nhất Phu nhân, bà đã gây ấn tượng cho công chúng với rphong cách tự tin và những bộ trang phục lộng lẫy.
Mamie Eisenhower nghỉ hưu và sống góa bụa tại trang trại gia đình ở Gettysburg, Pennsylvania.
Tiểu sử
Sinh ra tại Boone, Iowa, Mamie Geneva Doud được đặt tên đệm theo tên bài hát nổi tiếng thời bấy giờ là "Lovely Lake Geneva". Bà là đứa con thứ hai của ông John Sheldon Doud (1870–1951), một giám đốc điều hành công ty sản xuất thịt gia súc địa phương, còn mẹ của Mamie là bà Elivera Mathilda Carlson (1878–1960). Mamie trải qua thời thơ ấu ở rất nhiều nơi: Cedar Rapids, Iowa, Colorado Springs, Denver và Texas.
Cha của bà về hưu ở tuổi 36, sau đó thì mới bắt đầu công việc điều hành công ty sản xuất thịt do ông nội Mamie thành lập, ông John Doud cũng đã đầu tư vào các nhà kho ở Illinois và Iowa. Mẹ của bà là người nhập cư đến từ Thụy Điển. Mamie có ba chị em: Eleanor Carlson Doud, Eda Mae Doud, và Mabel Frances "Mike" Doud.
Hôn nhân và gia đình
Ngay sau khi hoàn thành việc học tại Trường Nữ Sinh Wolcott,Mamie gặp Dwight Eisenhower ở San Antonio vào tháng 10 năm 1915. Hôm đó, người giới thiệu cho Dwight gặp Mamie chính là phu nhân Lulu Harris - vợ của một viên chức ở Fort Sam Houston. Dwight và Mamie đã ấn tượng về nhau ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên. Sau buổi gặp mặt đó, Dwight Eisenhower đã mời Mamie Doud đi dạo phố cùng mình. Đêm Valentine năm 1916, Dwight trao cho bà một chiếc nhẫn cưới & cầu hôn bà.
Ngày 1 tháng 7 năm 1916, tại nhà của gia đình Doud ở Denver, Colorado, trung uý Dwight Eisenhower (lúc ấy ông 25 tuổi) kết hôn với Mamie Doud (năm đó bà 19 tuổi). Sau đám cưới, bà và chồng mới cưới của mình là ông Dwight đi hưởng tuần trăng mật vài ngày ở Eldorado Springs, Colorado. Đó là một khu nghỉ mát gần Denver, và sau đó cặp đôi mới cưới này về thăm cha mẹ chú rể ở Abilene trước khi định cư tại doanh trại Fort Sam Houston.
Cặp vợ chồng nhà Eisenhower này có hai con (nhưng chỉ một người còn sống đến tuổi trưởng thành):
Doud Eisenhower (24/9/1917 - 2/1/1921). Cậu bé qua đời vì bệnh ban đỏ.
John Sheldon Doud Eisenhower (3/8/1922 - 21/12/2013). Người con trai thứ hai này của bà Mamie là một quân nhân, nhà ngoại giao và nhà văn. John được sinh ra ở Denver, Colorado. Anh tốt nghiệp trường West Point năm 1944 và lấy bằng thạc sĩ về văn học Anh tại Đại học Columbia năm 1950. Sau khi nghỉ hưu từ năm 1944-1963, John được bổ nhiệm làm đại sứ tại Bỉ (1969–1971) bởi Richard Nixon. Ông là tác giả của mười cuốn sách.
Trong nhiều năm, Mamie sống cuộc sống nhiều vất vả do bà là vợ của một quân nhân. Bà thường xuyên phải bộ hành rất xa cùng chồng khi đơn vị chuyển địa điểm đóng quân. Trong đó có nhiều lần bà theo chồng đi làm nhiệm vụ ở những nơi như: Panama, Pháp, thậm chí là ở Philippines xa xôi. Cuộc sống của bà đậm chất gian nan của một bà vợ có chồng là sĩ quan lục quân. Dù đã quen với cuộc sống tiện nghi thời trẻ, nhưng Mamie mau chóng thích nghi với cuộc sống quân sự mới sau khi kết hôn. Bà cùng chồng đã hành quân chuyển địa điểm đóng quân 28 lần trước khi Dwight mãn nhiệm tổng thống.
Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, đôi vợ chồng nhà Eisenhower sống ở Washington D.C. Sau khi ông trở thành Chủ tịch Đại học Columbia vào năm 1948, Dwight đã mua một trang trại (nay là Di tích Lịch sử Quốc gia Eisenhower) tại Gettysburg, Pennsylvania cho hai vợ chồng ông bà. Đây là ngôi nhà đầu tiên mà họ từng chính thức sở hữu. Nhiệm vụ của ông là chỉ huy các lực lượng Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương - và bà là chiêu đãi viên cho quan khách tại một biệt thự gần Paris. Cuối cùng vào năm 1955, việc xây dựng ngôi nhà trong mơ của hai vợ chồng mới hoàn thành.
Đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ
Là đệ nhất phu nhân, Mamie đã được công chúng ghi nhận bởi cách cư xử chuyên nghiệp quy củ và độc lập. Mamie yêu những bộ quần áo đẹp, một trong số đó được thiết kế bởi nhà thiết kế trang sức Scaasi. Bà cũng rất tự hào và ngưỡng mộ chồng mình.
Mamie Eisenhower được vinh danh là một trong mười hai phụ nữ có gu ăn mặc đẹp nhất nước Mỹ thời bấy giờ. "Phong cách Mamie" - thuật ngữ do người dân Mỹ đặt ra để miêu tả cách phối đồ của bà, bao gồm một chiếc đầm dài nhiều lớp mỏng bên dưới, vòng tay, vòng cổ ngọc trai, đội kèm một chiếc mũ nhỏ với mái tóc ngắn ôm khuôn mặt. Phong cách của bà kết hợp cả những hãng thời trang cao cấp và thấp cấp. Các nhà thiết kế thân quen có mối quan hệ lâu năm với phu nhân Eisenhower bao gồm Mollie Parnis, Trifari và Sally Victor.
Ở vũ hội chào mừng tân tổng thống năm 1953, Mamie mặc một bộ đầm voan hồng trễ vai của Nettie Rosenstein. Chiếc đầm màu hồng ấy đặc biệt được thêu hơn 2.000 hột kim cương giả. Nó là một trong những thiết kế phổ biến nhất trong bộ sưu tập các trang phục vũ hội của Viện bảo tàng quốc gia Smithsonian về lịch sử Mỹ. Phu nhân Eisenhower mặc thêm một chiếc áo choàng bông với găng tay, và toàn bộ trang sức hôm đó bà đeo đều của hãng Trifari. Mamie còn mang theo một chiếc ví đính cườm của nhà thiết kế Judith Leiber (về sau Judith là phụ tá của Nettie Rosenstein). Đôi giày của phu nhân được làm bởi nghệ nhân Delman, tên của Mamie được thêu trên mu giày trái.
Phu nhân Eisenhower đặc biệt yêu thích vẻ đẹp dễ chịu của màu hồng, nên bà thường được gọi với biệt danh là "Mamie Hường Phấn". Các đồ gia dụng, bàn tủ trong nhà bà đều sơn màu hồng hoặc phấn hồng.
Là đệ nhất phu nhân, bà còn là một chiêu đãi viên chuyên nghiệp và duyên dáng nhưng vẫn khéo léo bảo vệ đời tư của hai vợ chồng. Bà bị mắc chứng rối loạn tai trong. Căn bệnh ảnh hưởng lên tính cách nghiêm khắc của bà phần nào, khiến bà thường xuyên khó chịu và nhiều người đặt ra nghi vấn rằng phu nhân sử dụng quá nhiều rượu và chất cồn.
Ở Nhà Trắng, Mamie được ghi nhận là một phu nhân nghiêm khắc, cẩn thận và khéo léo. Bà cấm nhân viên của toà nhà sử dụng thang máy dành cho gia đình Tổng thống và không cho phép họ đi qua bên trong toà nhà bất kể thời tiết thế nào. Mamie rất ghét nhìn thấy những vết chân bẩn trên thảm trải sàn, vì thế các nhân viên phải thường xuyên dùng máy hút bụi để quét dọn những vết chân, hoặc phải đi lại bằng gót hay nghiêng bàn chân khi đi qua thảm. Mặt khác, phu nhân cũng được cho là người phụ nữ sống tình cảm. Khi các công ty sản xuất đồ chơi gửi quà tặng, Mamie thường đem cất vào nhà kho cho đến các dịp lễ, bà mang ra chất lên xe để đem tặng cho những trẻ em nghèo. Phu nhân còn tự tay chọn mua các món quà tặng cho tất cả nhân viên, người hầu, người phục vụ, bảo vệ trong Nhà Trắng.
Mamie luôn quản lý sát sao tình hình tài chính của Tổng Thống. Phu nhân cũng để tâm đến các chương trình hạ giá tại các cửa hàng, bà liệt kê danh sách vật phẩm cần thiết rồi cho nhân viên đánh xe đến cửa hàng giảm giá mua đồ. Mamie còn cho yêu cầu người quản lý báo cáo tình hình thực phẩm còn tồn thừa trong bếp vào mỗi sáng; nếu thực phẩm dành cho tối hôm trước còn thừa, thì bà yêu cầu chế biến thành món khác để tránh lãng phí. Và để tiết kiệm ngân sách bà còn nhận quà tặng thực phẩm từ bạn bè, người thân hay lấy rau tươi từ trang trại riêng của hai vợ chồng.
Bên cạnh đó, Mamie được nhân viên mô tả là một phu nhân khéo tay khi bà tự tay trang trí Nhà Trắng trong các dịp lễ: Bà treo mũ phớt và ruy băng xanh lá vào ngày Thánh Patrick, đèn chùm bướm vào lễ Phục Sinh, hay hình nộm ác quỷ thả từ trần nhà xuống trong lễ Halloween. Phu nhân còn có thói quen đặc biệt: Tổng thống thường thức dậy vào 6 giờ sáng, trong khi phu nhân thường dậy lúc 9 giờ sáng và ăn sáng ngay tại giường. Ăn xong, bà cho gọi thư ký đến trao đổi và chỉ thị các công việc phải làm trong ngày. Phu nhân không quan tâm đến chính trị, nên bà hoàn toàn không can thiệp vào công việc riêng của Dwight, theo ước tính trong suốt 8 năm sống ở Nhà Trắng, bà chỉ vào văn phòng của chồng 4 lần. Ngoài ra, Mamie thích xem TV và hiếm khi bỏ lỡ chương trình mình thích, còn xem TV cùng chồng khi đang ăn tối.
Sau khi chồng bà là Dwight kết thúc nhiệm kỳ tổng thống, Mamie được phân công đón tiếp vợ chồng tổng thống kế nhiệm là John Kennedy và Jacqueline Kennedy. Phu nhân Jacqueline lúc ấy còn rất yếu sau cuộc mổ đẻ hai tuần trước đó, tuy nhiên khi đón tiếp Jacqueline, phu nhân Mamie đã không mang xe lăn ra đẩy Jacqueline đi thăm các phòng của Nhà Trắng. Suốt cuộc đón tiếp, bà Mamie đã tỏ thái độ bất mãn dù phu nhân Kennedy đã cố gắng giữ bình tĩnh. Chỉ sau khi bà rời khỏi Nhà Trắng sau khi giới thiệu hết các khu vực, phu nhân Kennedy mới ngã xuống đất và bất tỉnh. Khi được hỏi về hành động của mình, Mamie đơn giản đáp: "Đáng lắm, ai bảo cô ta có miệng mà không chịu tự đi hỏi."
Cuối đời
Năm 1961, Eisenhower về hưu, ông cùng Mamie trở về Gettysburg, ngôi nhà đầu tiên của họ. Cặp vợ chồng cũng có một nhà nghỉ dưỡng ở Palm Desert, California. Sau cái chết của chồng vào năm 1969, phu nhân tiếp tục sống toàn thời gian trên trang trại cho đến khi bà nhận một căn hộ ở Washington D.C. vào cuối những năm 1970. Cựu phu nhân cũng từng xuất hiện trong một chiến dịch quảng cáo cho cựu Phó Tổng thống Richard Nixon của chồng mình vào năm 1972.
David Eisenhower, cháu trai của bà, kết hôn với con gái của Richard Nixon là cô Julie vào ngày 22 tháng 12 năm 1968, cuộc hôn nhân đã đưa hai gia đình thân thiết với nhau hơn. Nhà Nixon thường xuyên mời Mamie đến thăm Nhà Trắng.
Mamie Eisenhower bị đột quỵ ngày 25 tháng 9 năm 1979. Bà bị đưa đến Trung tâm Y tế Quân đội Walter Reed, nơi chồng bà đã qua đời một thập kỷ trước đó. Mamie sống những ngày cuối đời trong bệnh viện. Và vào ngày 31 tháng 10, y tá thông báo với cháu gái Mary Jean rằng bà sẽ chết vào ngày hôm sau. Cố phu nhân Mamie Eisenhower qua đời trong một giấc ngủ sâu vào rạng sáng ngày 1 tháng 11. Năm 1980, quê của bà ở Boone, Iowa, được dành riêng làm một di tích lịch sử. Một trong những con đường ở đông-tây vùng Boone bây giờ được gọi là Đại lộ Mamie Eisenhower.
Vì mối liên hệ của bà với thành phố Denver, một công viên ở đông nam Denver được đặt theo tên bà, cũng như một thư viện công cộng ở Broomfield, Colorado, ngoại ô Denver.
Tham khảo
Đệ Nhất Phu nhân Hoa Kỳ
Người Mỹ gốc Anh
Người Mỹ gốc Thụy Điển
Iota Alpha Sigma
|
3165600
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vani%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Vani (định hướng)
|
Vani có thể chỉ:
Hương liệu vani (còn viết là vanilla)
Thành phố Vani ở Gruzia.
Xem thêm Vanilla (định hướng)
|
14202600
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Omori%20Hiroki
|
Omori Hiroki
|
Hiroki Omori (sinh ngày 26 tháng 7 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Hiroki Omori đã từng chơi cho Blaublitz Akita, SC Sagamihara và Brisbane Strikers.
Tham khảo
Sinh năm 1990
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Blaublitz Akita
Cầu thủ bóng đá J3 League
Cầu thủ bóng đá Japan Football League
Cầu thủ bóng đá SC Sagamihara
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản ở nước ngoài
|
2708045
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hyalobathra%20undulinea
|
Hyalobathra undulinea
|
Hyalobathra undulinea là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hyalobathra
Pyraustinae
|
2598883
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cabera%20incoloraria
|
Cabera incoloraria
|
Cabera incoloraria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Cabera
|
2671011
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zamarada%20differens
|
Zamarada differens
|
Zamarada differens là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Zamarada
Động vật được mô tả năm 1907
Abraxini
Bướm đêm Comoros
|
2810594
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mastrus%20sordipes
|
Mastrus sordipes
|
Mastrus sordipes là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Mastrus
|
2719356
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Syllepte%20brunnescens
|
Syllepte brunnescens
|
Syllepte brunnescens là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Syllepte
|
2645236
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Psaliodes%20conspersata
|
Psaliodes conspersata
|
Psaliodes conspersata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Psaliodes
|
2925918
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Parallelia%20diffusa
|
Parallelia diffusa
|
Parallelia diffusa là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Parallelia
|
19731519
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%81n%20d%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20c%C3%B3%20s%E1%BB%B1%20tham%20gia
|
Nền dân chủ có sự tham gia
|
Nền dân chủ có sự tham gia () là một hình thức chính phủ mà công dân có sự tham gia trực tiếp vào chính quyền với tư cách cá nhân và trực tiếp sử dụng quyền công dân của mình ảnh hưởng đến các quyết sách chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ, thay vì thông qua nền dân chủ đại nghị. Các yếu tố của dân chủ trực tiếp và đại diện có thể được kết hợp trong mô hình chính phủ này.
Tham khảo
Dạng dân chủ
Dân chủ trực tiếp
|
2577879
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Steirastoma%20breve
|
Steirastoma breve
|
Steirastoma breve là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Động vật được mô tả năm 1776
Steirastoma
|
2713273
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Panalipa%20immeritalis
|
Panalipa immeritalis
|
Panalipa immeritalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Panalipa
|
2631714
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Metallochlora%20militaris
|
Metallochlora militaris
|
Metallochlora militaris là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Metallochlora
|
14539907
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Billy%20Bootle
|
Billy Bootle
|
Billy Bootle (9 tháng 1 năm 1926 – 10 tháng 8 năm 2012) là một cầu thủ bóng đá thi đấu ở vị trí tiền vệ chạy cánh ở Football League cho Manchester City. Ông cũng thi đấu cho Wigan Athletic tại Lancashire Combination, ghi 31 bàn trong 76 trận ở Giải vô địch.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin tại 11v11.com
Sinh năm 1926
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Wigan Athletic F.C.
Người Ashton-under-Lyne
Tiền vệ bóng đá
Mất năm 2012
|
19525685
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Cabo%20Verde
|
Sân vận động Quốc gia Cabo Verde
|
Sân vận động Quốc gia Cabo Verde () là một sân vận động đa năng ở Praia, Cabo Verde. Được sử dụng cho các trận đấu bóng đá, đây là sân nhà của đội tuyển bóng đá quốc gia Cabo Verde. Sân vận động có sức chứa được công bố là 15.000 người. Sân thuộc sở hữu của Chính phủ Cabo Verde và được điều hành bởi Ủy ban Quản lý Sân vận động được chỉ định.
Lịch sử
Được chính phủ Trung Quốc tài trợ, công trình được khởi công vào tháng 10 năm 2010, dự kiến hoàn thành vào tháng 6 năm 2012. Tuy nhiên ngày hoàn thành đã bị chậm trễ 15 tháng, do sự thay đổi nhằm tăng sức chứa từ 10.000 lên 15.000 chỗ ngồi, đã dời lịch khánh thành dự kiến đến tháng 10 năm 2013. Cuối cùng sân vận động đã được khai trương vào tháng 8 năm 2014.
Tham khảo
Địa điểm bóng đá Cabo Verde
Công trình xây dựng Praia
Cabo Verde
Địa điểm điền kinh Cabo Verde
Sân vận động đa năng tại Cabo Verde
|
19655036
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4i%20sao%20s%C3%A1ng%20nh%E1%BA%A5t%20b%E1%BA%A7u%20tr%E1%BB%9Di%20%C4%91%C3%AAm
|
Ngôi sao sáng nhất bầu trời đêm
|
Ngôi sao sáng nhất bầu trời đêm () là một bộ phim truyền hình trực tuyến Trung Quốc ra mắt vào năm 2019 với sự tham gia của Hoàng Tử Thao và Ngô Thiến. Đây là một câu chuyện về tuổi mới lớn bao gồm tình yêu, tình bạn và âm nhạc, lấy bối cảnh của ngành công nghiệp âm nhạc hiện nay. Bộ phim được phát sóng trên Tencent, iQiyi và Youku từ ngày 25 tháng 3 đến ngày 6 tháng 5 năm 2019.
Nội dung
Star Entertainment là công ty giải trí hàng đầu tại Trung Quốc, được thành lập bởi vợ chồng Trần Thiên Hạo và Đỗ Uyển Tình. Tuy nhiên đến cuối cùng, hai người đã chia tay do những bất đồng chính kiến trong việc quản lý công ty. Dương Chân Chân là một cô gái trẻ đầy khát vọng với niềm đam mê âm nhạc. Cô gia nhập Starry Sky Entertainment và được chỉ định làm trợ lý của Trịnh Bách Húc. Bách Húc là một thần tượng nổi tiếng kiêu ngạo và phóng túng. Với sự giúp đỡ của Chân Chân, người đã giúp anh sửa chữa những khiếm khuyết và phát huy tiềm năng của mình, Bách Húc từ từ biến thành một ca sĩ tài năng. Trong quá trình này, Chân Chân cũng tích lũy kinh nghiệm và trở thành một người quản lý thần tượng có năng lực. Đồng thời, Đỗ Uyển Tình cũng đang nâng đỡ cho một ca sĩ mới là Du Tử Duệ, người đang định hình để trở thành đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Bách Húc.
Diễn viên
Hoàng Tử Thao trong vai Trịnh Bách Húc
Một ca sĩ thần tượng nổi tiếng kiêu ngạo và phóng túng. Anh ấy có niềm đam mê âm nhạc và sự bền bỉ không ngừng để chứng minh giá trị của mình với tư cách là một ca sĩ.
Ngô Thiến trong vai Dương Chân Chân
Một người quản lý nghệ sĩ đầy tham vọng với tình yêu âm nhạc.
Ngưu Tuấn Phong trong vai Du Tử Duệ
Một ca sĩ đang lên đạt được những gì anh ấy có nhờ sự chăm chỉ và bền bỉ.
Tào Hi Nguyệt trong vai Hạ Ái
Bạn thân của Chân Chân. Trợ lý của Du Tử Duệ.
Tần Lam trong vai Phương Di Nhiên
Chị gái của Trịnh Bách Húc.
Vương Kính Tùng trong vai Trịnh Duy Quân
Cha của Trịnh Bách Húc.
Ngụy Đại Huân trong vai ca sĩ lang thang.
Trương Cẩm Trình trong vai Cốc gia
Chủ một cửa hàng bán đồ ăn nhanh mà Dương Chân Chân thường lui tới, ông cũng đã giúp ba người quan trọng có được vị trí hiện tại.
Trần Diệc Phi trong vai Trần Thiên Hạo
Người sáng lập và Giám đốc điều hành của Star Entertainment. Chồng của Đỗ Uyển Tình.
Lưu Giai trong vai Đỗ Uyển Tình
Người sáng lập và Giám đốc điều hành của Star Entertainment. Vợ của Trần Thiên Hạo.
Hoàng Chinh trong vai Thường Nhiên
Nhà sản xuất âm nhạc và đồng sáng lập Star Entertainment.
Lý Y Linh trong vai Úc Hồng
Quản lý nghệ sĩ của Star Entertainment.
Lang Phong trong vai Lưu Nghị Nam
Giám đốc quảng cáo của Star Entertainment.
Trần Hi trong vai Tôn Vũ Kỳ
Quản lý cũ của Trịnh Bách Húc. Em gái của Úc Hồng.
Triệu Dịch Hoan trong vai Ma Lina
Một bà chủ mới gia nhập công ty và là kẻ thù của Đỗ Uyển Tình.
Guan Yue trong vai Amanda
Mã Trạch Hàm trong vai Trương Tiểu Duệ
Fan cuồng của Trịnh Bách Húc.
Tương Long trong vai Cố Tân
Bạn thân của Du Tử Duệ.
Khổng Tiểu Minh trong vai Jason
Chuyên gia trang điểm của Trịnh Bách Húc.
Diệp Lệ Na trong vai Tiểu Giản
Trợ lý cũ của Trịnh Bách Húc.
Dương Chi Doanh trong vai Nhan Khả Hân
Sản xuất
Bộ phim được khởi quay từ ngày 16 tháng 6 năm 2017 đến ngày 9 tháng 10 năm 2017. Để phục vụ cho việc quay phim, một phim trường rộng 4000 mét vuông đã được xây dựng từ đầu bộ phim. Bộ phim được quay ở Bắc Kinh, Los Angeles, Ensenada, Baja California và Cancún.
Hoàng Tử Thao đóng vai trò là giám đốc âm nhạc của bộ phim.
Nhạc phim
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Chương trình chiếu mạng Trung Quốc
Chương trình truyền hình âm nhạc Trung Quốc
Phim truyền hình Trung Quốc ra mắt năm 2019
|
19712560
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ullevi
|
Ullevi
|
Ullevi, đôi khi được gọi là Nya Ullevi (, Ullevi mới), là một sân vận động đa năng ở Göteborg, Thụy Điển. Sân được xây dựng để tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 1958. Kể từ sau World Cup 1958, sân cũng đã tổ chức Giải vô địch trượt băng tốc độ vòng thế giới sáu lần; Giải vô địch điền kinh thế giới 1995 và Giải vô địch điền kinh châu Âu 2006; các trận chung kết UEFA Cup Winners' Cup vào các năm 1983 và 1990; trận chung kết Giải vô địch bóng đá châu Âu 1992, trận chung kết Cúp UEFA 2004. Hằng năm, nơi đây tổ chức lễ khai mạc Gothia Cup, giải đấu bóng đá có số lượng đội tham dự nhiều nhất thế giới. IFK Göteborg cũng đã thi đấu hai trận chung kết Cúp UEFA tại sân vận động này với tư cách là "sân nhà" vào các năm 1982 và 1987 (do trận chung kết các năm đó có hai lượt đi và về). Sân vận động thường được sử dụng để tổ chức các sự kiện, bao gồm bóng đá, khúc côn cầu trên băng, quyền Anh, đua xe, điền kinh và các buổi hòa nhạc.
Đây là một trong những sân vận động lớn nhất ở các nước Bắc Âu. Sân có sức chứa 43.000 người và trong các buổi hòa nhạc, sức chứa tối đa là 75.000 người.
Tham khảo
https://www.aftonbladet.se/nojesbladet/musik/rockbjornen/a/KVmpe/sa-bra-var-hakan-hellstroms-sista-spelning-pa-ullevi
https://www.aftonbladet.se/nojesbladet/musik/rockbjornen/a/rqjqm/sa-bra-var-hakan-hellstroms-forsta-spelning-pa-ullevi
Liên kết ngoài
Ullevi — Official site
Địa điểm điền kinh Thụy Điển
Địa điểm thể thao Göteborg
Các sân vận động giải vô địch bóng đá thế giới 1958
Địa điểm bóng đá Thụy Điển
Địa điểm bóng đá Göteborg
Địa điểm trượt băng tốc độ Thụy Điển
Địa điểm đua xe tốc độ Thụy Điển
Các sân vận động giải vô địch bóng đá châu Âu 1992
IFK Göteborg
Örgryte IS
Các sân vận động trận chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu
Địa điểm thể thao hoàn thành năm 1958
Khởi đầu năm 1958 ở Thụy Điển
|
2916035
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aucula%20byla
|
Aucula byla
|
Aucula byla là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Aucula
|
19749064
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/UD%20Almer%C3%ADa
|
UD Almería
|
Unión Deportiva Almería, S.A.D. () là một câu lạc bộ bóng đá ở Almería, trong vùng tự trị Andalusia. Câu lạc bộ được thành lập vào ngày 26 tháng 7 năm 1989 và được gọi là Almería Club de Fútbol cho đến năm 2001, khi câu lạc bộ được đổi tên thành Unión Deportiva Almería. Câu lạc bộ hiện đang chơi ở giải La Liga của Tây Ban Nha sau khi vô địch Segunda División vào năm 2022, và chơi các trận đấu sân nhà của họ tại sân vận động Power Horse có sức chứa 15.274 chỗ ngồi.
Lịch sử
Câu lạc bộ bóng đá đầu tiên ở Almería được thành lập vào năm 1909 với tên Almería Foot-Ball Club. Từ đó đến nay, đã có một vài câu lạc bộ ở Almería được thành lập hoặc giải thể. Một trong số đó là AD Almería, một đội bóng thi đấu ở La Liga giữa năm 1979-81, nhưng giải thể vào năm 1982, và được cho là tiền thân của UD Almería.
Vào năm 1989, câu lạc bộ có tên Almería Club de Fútbol được thành lập, nhưng vào năm 2001 thì đổi tên thành Unión Deportiva Almería. Vào ngày 19 tháng 1 năm 2001 thị trưởng của thành phố Almería là Santiago Martínez Cabrejas thông báo trước hội đồng thành phố rằng câu lạc bộ mới UD Almería đã được thành lập sau khi hợp nhất hai đội của thành phố - Polideportivo Almería và Almería CF. Nhưng UD Almería chưa là câu lạc bộ chính thức cho đến ngày 28 tháng 6 năm 2001, khi Almería CF phê duyệt tại Đại hội đồng cổ đông về việc đổi tên. Sau khi chơi một mùa giải ở giải hạng hai, họ bị xuống hạng xuống giải hạng ba và hạng tư.
Sau khi trải qua vài mùa giải ở giải hạng hai, đội bóng của Almería lần đầu tiên được thăng hạng lên La Liga sau khi về nhì ở mùa giải 2006–07. Sau khi có một màn trình diễn xuất sắc, như trận thắng Deportivo de La Coruña 3–0 trên sân khách trong trận đầu tiên tại La Liga, đội bóng đã giành được vị trí thứ 8 chung cuộc trong mùa giải 2007–08. Người dẫn dắt câu lạc bộ là huấn luyện viên Unai Emery, tiền đạo Álvaro Negredo đã được danh hiệu danh hiệu Vua phá lưới với 13 bàn thắng.
trái|nhỏ|Cầu thủ của UD Almería gặp cầu thủ của Real Madrid's Cristiano Ronaldo vào năm 2011.
Sau khi Emery đến Valencia CF, Gonzalo Arconada tiếp quản chiếc ghế huấn luyện viên, nhưng bị sa thải vào ngày 21 tháng 12 năm 2008 sau một chuỗi kết quả bết bát, mặc dù chưa từng lọt vào nhóm xuống hạng. Huấn luyện viên Mexico Hugo Sánchez đã đảm nhận công việc và đã có kết quả tốt hơn một chút, cho vị trí cuối cùng ở giữa bảng xếp hạng.
Vào mùa giải 2010–11, Almería lần đầu tiên lọt vào bán kết Copa del Rey. Tuy nhiên, ở La Liga, câu lạc bộ cuối cùng đã phải xuống hạng sau bốn năm thi đấu ở giải đấu hàng đầu Tây Ban Nha; vào tháng 11 năm 2010, huấn luyện viên Juan Manuel Lillo bị sa thải sau trận thua 0-8 trên sân nhà trước FC Barcelona (chính xác là đội đã loại Andalusians ở vòng tứ kết Cúp Nhà Vua Tây Ban Nha, với cùng tỷ số, nhưng tính tổng), và người kế nhiệm José Luis Oltra cũng cùng chung số phận, vào tháng 4 năm 2011. Ông được thay thế bởi Roberto Olabe.
Sau hải mùa giải ở giải hạng hai, Almería quay trở lại hạng đấu cao nhất Tây Ban Nha vào 20 tháng 6 năm 2013, sau khi đánh bại Girona FC ở play-offs. Sau sự ra đi của huấn luyện viên Javi Gracia, câu lạc bộ đã bổ nhiệm cựu cầu thủ và huấn luyện viên đội B Francisco Javier Rodríguez Vílchez; câu lạc bộ đã thoát cảnh xuống hạng vào mùa giải 2013–14, kết thúc ở vị trí thứ 16.
Fransico bị sa thải vào tháng 12 năm 2014, sau khi chỉ giành được 2 điểm sau tổng số 24 trận đấu, và được thay thế bởi Juan Ignacio Martínez. "JIM" cũng chỉ dẫn dắt đội đến tháng tư năm sau, và được thay thế với Sergi Barjuán, câu lạc bộ cuối cùng xuống hạng với vị trí thứ 19.
Vào mùa giải 2018-19, Almería cuối cùng đã thoát khỏi cuộc chiến khó khăn để trụ lại Segunda División cho đến những trận đấu cuối cùng cũng như trong suốt 3 mùa giải trước đó. Lần này họ tiến gần hơn đến trận play-off thăng hạng lên La Liga, và đứng thứ 10 trong tổng số 22 đội.
nhỏ|Turki Al-Sheikh trong cuộc họp báo vào năm 2019
Vào ngày 2 tháng 8 năm 2019, Turki Al-Sheikh trở thành chủ sở hữu của Almería, thay thế Alfonso García Gabarrón. Ông bổ nhiệm Mohamed El Assy làm tổng giám đốc, Dario Drudi là giám đốc thể thao, thay thế Miguel Ángel Corona, và huấn luyện viên Óscar Fernández được thay thế bởi Pedro Emanuel. Vào ngày 5 tháng 11 năm 2019, Guti được công bố thay thế Emanuel. Vào ngày 26 tháng 6 năm 2020, anh bị thôi việc và được thay thế bởi Mario Silva, người được thay thế bởi José Gomes vào ngày 27 tháng 7.
Vào tháng 8 năm 2021, UD Almería (Mohamed El Assy) và () đã đồng ý về việc giải trí hoạt động của Estadio de los Juegos Mediterráneos thuộc sở hữu của thành phố với khoảng thời gian 25 năm. Vào tháng 7 năm 2022, câu lạc bộ đã được lên chơi La Liga một lần nữa sau khi vô địch Segunda División một cách thuyết phục, ở vòng cuối cùng của mùa giải 2021-2022, sau bảy năm chơi bóng ở giải hạng hai.
Lịch sử mùa giải
7 mùa giải ở La Liga
16 mùa giải ở Segunda División
6 mùa giải ở Segunda División B
2 mùa giải ở Tercera División
3 mùa giải ở Categorías Regionales
Đội hình hiện tại
Những cầu thủ khác ở trong hợp đồng
Cho mượn
Ban huấn luyện
Juan Ventaja Mateo Ruiz
Những cầu thủ nổi bật
Ghi chú: trong danh sách này cầu thủ ít nhất có 100 lần thi đấu cho câu lạc bộ/đội tuyển quốc gia
Trang phục
nhỏ|159x159px|Trang phục của Almería mùa giải 2020–21.
1 Áo có chứa những thông điệp như Isla del Fraile hoặc Corredor de Vida.
Danh hiệu
Segunda División: 2021–22
Xem thêm
UD Almería B – đội B của Almería
AD Almería
Danh sách huấn luyện viên
Danh sách thống kê
Tham khảo
Liên kết ngoài
Official website
Futbolme team profile
BDFutbol team profile
Almeria on kouragoal site
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1989
Khởi đầu năm 1989 ở Tây Ban Nha
UD Almería
Câu lạc bộ bóng đá Andalusia
Câu lạc bộ bóng đá Segunda División
Câu lạc bộ bóng đá La Liga
|
2595657
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aplocera%20conflua
|
Aplocera conflua
|
Aplocera conflua là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Aplocera
|
3265876
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20U21%20qu%E1%BB%91c%20gia%202011
|
Giải bóng đá U21 quốc gia 2011
|
Giải bóng đá U21 Quốc gia 2011 có tên gọi chính thức là Giải bóng đá U21 Quốc gia - Cúp Báo Thanh Niên lần XV - 2011 là mùa giải thứ 15 do VFF tổ chức và Báo Thanh Niên tài trợ. Giải đấu này diễn ra theo hai giai đoạn, vòng loại sẽ khởi tranh từ ngày 18/6/2011 và kết thúc vào ngày 30/6/2011. Vòng chung kết diễn ra từ 8/9 đến ngày 18/9/2011 tại Sân vận động Gò Đậu, Bình Dương.
Điều lệ
24 đội bóng đăng ký tham dự vòng loại, chia thành 6 bảng:
Bảng A: Chọn 1 đội vào Vòng chung kết, do Trung tâm đào tạo VĐV bóng đá Nam Định nhận đăng cai làm bảng trưởng, gồm 4 đội đăng ký tham dự vòng loại, cụ thể: Mikado Nam Định, Hà Nội T&T, Hòa Phát Hà Nội và Vicem Hải Phòng.
Bảng B: Chọn 1 đội vào Vòng chung kết, do CLB bóng đá Sông Lam Nghệ An nhận đăng cai làm bảng trưởng, gồm 3 đội đăng ký tham dự vòng loại, cụ thể: Sông Lam Nghệ An, Hà Nội ACB và Than Quảng Ninh.
Bảng C: Chọn 1 đội vào Vòng chung kết, do Sở VHTT&DL Phú Yên nhận đăng cai làm bảng trưởng, gồm 4 đội đăng ký tham dự vòng loại, cụ thể: V&V United, Sài Gòn Xuân Thành, SHB Đà Nẵng và SQC Bình Định.
Bảng D: Chọn 1 đội vào Vòng chung kết, do CLB Bóng đá Hoàng Anh Gia Lai nhận đăng cai làm bảng trưởng, gồm 4 đội đăng ký tham dự vòng loại, cụ thể: Hoàng Anh Gia Lai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Thuận và Đăk Lăk.
Bảng E: Chọn 1 đội vào Vòng chung kết, do CLB bóng đá Khatoco Khánh Hòa nhận đăng cai làm bảng trưởng, gồm 3 đội đăng ký tham dự vòng loại, cụ thể: Khatoco Khánh Hòa, Đồng Tâm Long An và Tiền Giang.
Bảng F: Chọn 1 đội vào Vòng chung kết, do CLB Bóng đá Navibank Sài Gòn nhận đăng cai làm bảng trưởng, gồm 4 đội đăng ký tham dự vòng loại, cụ thể: Navibank Sài Gòn, Cần Thơ, Kiên Giang và TĐCS Đồng Tháp.
Các đội trong bảng sẽ thi đấu vòng tròn một lượt tính điểm xếp hạng để chọn đội cao điểm nhất dự vòng chung kết cùng 2 đội được vào thẳng là Đồng Nai (đương kim vô địch) và Becamex Bình Dương (chủ nhà).
Vòng loại
Kết thúc vòng loại, 8 đội trong bảng dưới đây giành quyền vào chơi vòng chung kết.
Vòng chung kết
Vòng bảng
Vòng bán kết
Trận chung kết
Tổng kết mùa giải
Vô địch: U21 Nam Định
Á quân: U21 Becamex Bình Dương
Đồng Giải ba: U21 Sông Lam Nghệ An và U21 Đồng Nai
Giải phong cách: U21 Becamex Bình Dương
Cầu thủ xuất sắc nhất giải: Lâm Anh Quang (Nam Định)
Thủ môn xuất sắc nhất giải: Nguyễn Tiến Tạo (1-Nam Định)
Vua phá lưới: Trịnh Hoài Nam (Bình Dương)-4 bàn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá U21 Quốc gia Việt Nam
Bóng đá Việt Nam năm 2011
|
2577901
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Steirastoma%20senex
|
Steirastoma senex
|
Steirastoma senex là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Steirastoma
|
2918999
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brithysana%20africana
|
Brithysana africana
|
Brithysana africana là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Brithysana
|
19807441
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fuji%20FA-200%20Aero%20Subaru
|
Fuji FA-200 Aero Subaru
|
Fuji FA-200 Aero Subaru là một loại máy bay dân dụng hạng nhẹ một tầng cánh một động cơ do Fuji Heavy Industries thiết kế chế tạo.
Thiết kế và phát triển
Fuji bắt đầu phát triển FA-200 vào năm 1964, nguyên mẫu bay thử lần đầu vào ngày 12 tháng 8 năm 1965. Nó có cấu tạo hoàn toàn làm bằng kim loại, thiết kế cánh thấp, thiết bị hạ cánh 3 bánh xe và mái che buồng lái dạng trượt. Mẫu máy bay này được cấp chứng nhận lần đầu tại Nhật Bản vào ngày 6 tháng 7 năm 1966, và chứng nhận tại Hoa Kỳ diễn ra ngày 26 tháng 9 năm 1967.
Việc sản xuất hàng loạt bắt đầu từ tháng 3 năm 1968 cho đến năm 1986, với tổng số 275 chiếc được chế tạo.
Biến thể
F-200-II
Nguyên mẫu trang bị động cơ Lycoming O-320 sức mạnh 120 kW (160 mã lực).
FA-200-160
Phiên bản đầu tiên, trang bị động cơ Lycoming O-320 sức mạnh 120 kW.
FA-200-180
Phiên bản sử dụng động cơ Lycoming IO-360 sức mạnh 130 kW (180 mã lực).
FA-200-180AO
Sử dụng động cơ Lycoming IO-320 sức mạnh 130 kW.
FA-203-S
Phiên bản thử nghiệm cất và hạ cánh quãng đường ngắn (STOL) trang bị hệ thống kiểm soát lớp ranh giới, được phát triển bởi Phòng thí nghiệm Hàng không Vũ trụ Quốc gia Nhật Bản.
F-201
Biến thể ba chỗ ngồi được đề xuất, nhưng không được chế tạo.
F-202
Biến thể bay biểu diễn nhào lộn trên không hai chỗ ngồi được đề xuất, nhưng không được chế tạo.
F-203
Biến thể STOL được đề xuất.
F-204
Biến thể phun thuốc nông nghiệp được đề xuất, nhưng không được chế tạo.
Tai nạn và sự cố
Ngày 13 tháng 5 năm 2017, một chiếc FA-200-160 có số hiệu E7-AAS, đã bị rơi ở Jasenica, gần Mostar thuộc Bosnia và Hercegovina, khiến cả 5 người trên máy bay thiệt mạng, trong đó có 3 trẻ em.
Thông số kỹ thuật (FA-200-180)
Dữ liệu lấy từ Jane's All The World's Aircraft, 1976–1977
Đặc điểm tổng quát
Kíp lái: 1 hoặc 2 người
Sức chứa: 2 hoặc 3 hành khách
Chiều dài: 8,17 m (26 ft 10 in)
Sải cánh: 9,42 m (30 ft 11 in)
Chiều cao: 2,59 m (8 ft 6 in)
Diện tích cánh: 14 m2 (151 ft2)
Trọng lượng không tải: 650 kg (1.433 lb)
Trọng lượng cất cánh tối đa: 1.150 kg (2.535 lb)
Sức chứa nhiên liệu: 204,5 lít
Động cơ: 1 × động cơ pít-tông nằm đối diện theo chiều ngang bốn xi lanh làm mát bằng không khí Lycoming IO-360B1B, cung cấp sức mạnh 130 kW (180 mã lực)
Cánh quạt: Cánh quạt 2 cánh tốc độ không đổi McCauley B2D34C53/74E-0; đường kính 1,88 m (6 ft 2 in)
Hiệu suất bay
Vận tốc tối đa: 233 km/h (145 dặm/giờ, 126 hải lý)
Vận tốc bay hành trình: 167 km/h (104 dặm/giờ, 90 hải lý) ở độ cao 1.525 m (5.000 ft)
Tầm bay: 1.343 km (834 dặm, 725 hải lý) khi bay vận tốc hành trình ở độ cao 2.300 m (7.500 ft) với đầy nhiên liệu
Trần bay: 4.200 m (13.700 ft)
Vận tốc tăng độ cao: 3,9 m/giây (760 ft/phút)
Tham khảo
Liên kết ngoài
FUJI/FA-200 AERO SUBARU
Máy bay một động cơ cánh quạt
Máy bay Fuji
Subaru
|
2581892
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thranius%20irregularis
|
Thranius irregularis
|
Thranius irregularis là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Thranius
|
2594231
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anisodes%20ockendeni
|
Anisodes ockendeni
|
Anisodes ockendeni là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
O
O
|
19272628
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pyotr%20Petrovich%20Sobennikov
|
Pyotr Petrovich Sobennikov
|
Pyotr Petrovich Sobennikov (; 1894 - 1960) là một tướng lĩnh quân đội Liên Xô, hàm Trung tướng.
Sự nghiệp
Sobennikov sinh năm 1894 ở Kronstadt, trong một gia đình quý tộc Nga. Ông tham gia quân đội đế quốc Nga từ năm 1914, tốt nghiệp trường Kỵ binh Nikolayev năm 1916. Ông tham gia Thế chiến thứ nhất trong cấp bậc của Cornet (Корнет, tương đương Thiếu úy kỵ binh).
Tháng 5 năm 1918, Sobennikov gia nhập Hồng quân tham gia Nội chiến Nga. Khởi đầu với chức vụ chỉ huy trung đội trong trung đoàn kỵ binh, thăng dấn đến chỉ huy Sư đoàn kỵ binh số 13. Ngày 19 tháng 10 năm 1921, ông được trao tặng Huân chương Cờ đỏ cho chiến dịch thành công để tiêu diệt quân đoàn của A.S. Bakich trong lãnh thổ của tỉnh Tân Cương của Trung Quốc.
Sau Nội chiến, Sobennikov được cử tham gia các khóa học quân sự của Bộ tư lệnh tối cao của Hồng quân. Tháng 8 năm 1926, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy lữ đoàn kỵ binh độc lập 4. Từ tháng 11 năm 1931 - trợ lý thanh tra kỵ binh của Hồng quân, sau đó - thanh tra kỵ binh OKDVA. Từ tháng 12 năm 1936 - chỉ huy sư đoàn 8 kỵ binh. Tháng 2 năm 1939 - Giảng viên cao cấp về Chiến thuật chung của Học viện Quân sự Hồng quân Frunze. Tháng 1 năm 1940, ông tham gia vào cuộc chiến Xô-Phần, dựoci sự chỉ huy của Tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc S.K. Timoshenko. Ông gia nhập CPSU (b) từ năm 1940.
Tháng 6 năm 1940 - ông được bổ nhiệm làm phó thanh tra kỵ binh Hồng quân, từ tháng 8 năm 1940 - phó tổng thanh tra kỵ binh Hồng quân. Ông lần lượt giữ các chức vụ Tư lệnh Tập đoàn quân 8 (tháng 3-6 năm 1941), rồi Tư lệnh Phương diện quân Tây Bắc (tháng 7 năm 1941) và sau đó là Tư lệnh Tập đoàn quân 43 (tháng 9-10 năm 1941).
Ngày 16 tháng 10 năm 1941, Sobennikov bị bắt và bị kết án vào tháng 2 năm 1942 với năm năm lao động khổ sai trong các trại. Ông cũng bị tước Huân chương Sao đỏ và Huy chương Kỷ niệm 20 năm Hồng quân. Tuy sau đó được ân xá, nhưng ông cũng bị kỷ luật giáng chức.
Từ tháng 11 năm 1942 cho đến khi kết thúc chiến tranh, ông là phó chỉ huy của Tập đoàn quân 3. Ông tham gia Trận Vòng cung Kursk và chiến dịch Smolensk gần Bryansk, trong các chiến dịch tại Gomel-Retchytsa và Rahatchow-Jlobine. Năm 1944, ông tham gia Chiến dịch Bagration trong đội hình Phương diện quân Belorussia 1 cho đến cuối cuộc chiến, trong các cuộc tấn công ở Đông Phổ, miền đông nước Đức, cũng như Trận chiến Berlin.
Sau chiến tranh, từ năm 1955 đến 1959, ông lãnh đạo Trường quân sự đặc biệt ở Solnechnogorsk, hay còn gọi là khóa học Vystrel.
Sobennikov qua đời năm 1960. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Novodevichy.
Huân chương
Huân chương Lenin
Huân chương Cờ đỏ
Huân chương Bogdan Khmelnitsky (Liên Xô)
Huân chương Suvorov
Huân chương Kutuzov
Воинские звания
Lữ đoàn trưởng (комбриг) — 23 tháng 11 năm 1935
Thiếu tướng (генерал-майор) — 4 tháng 6 năm 1940
Đại tá (полковник) — tháng 2 năm 1942
Thiếu tướng (генерал-майор) — 17 tháng 4 năm 1943
Trung tướng (генерал-лейтенант) — 22 tháng 2 năm 1944
Chú thích
Tham khảo
Собенников П. Ликвидация Бакича. // Красная конница. — 1935. С. 51-58.
Пишу исключительно по памяти... Командиры Красной Армии о катастрофе первых дней Великой Отечественной войны: В 2 т. Том 1. / Сост., авт. предисл., коммент. и биогр. очерков С. Л. Чекунов. — М.: Русский фонд содействия образованию и науке, 2017. — 560 с.: ил. — ISBN 978-5-91244-208-7, 978-5-91244-209-4 (т. 1). — С.258-265.
Коллектив авторов. Великая Отечественная. Командармы. Военный биографический словарь / Под общей ред. М. Г. Вожакина. — М.; Жуковский: Кучково поле, 2005. — С. 215—216. — ISBN 5-86090-113-5.
Командный и начальствующий состав Красной Армии в 1940-1941 гг.: Структура и кадры центрального аппарата НКО СССР, военных округов и общевойсковых армий: Документы и материалы / Под ред. В. Н. Кузеленкова. — М.-СПб.: Летний сад, 2005. — С. 200. — 1000 экз. — ISBN 5-94381-137-0.
Биография П. П. Собенникова на сайте Министерства обороны Российской Федерации
Пётр Петрович Собенников на сайте «60 лет Великой Победе».
Так начиналась война
Huân chương Cờ đỏ
Quân nhân Nga Thế chiến thứ nhất
Trung tướng Liên Xô
Huân chương Lenin
Huân chương Suvorov
Huân chương Kutuzov
|
3149555
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20%C4%90%E1%BB%93i%20Cheongna
|
Ga Đồi Cheongna
|
Ga Đồi Cheongna (Tiếng Hàn: 방배역, Hanja: 方背驛) là ga của Tàu điện ngầm Daegu tuyến 2 ở Daesin-dong, Dongsan-dong, và Namsan-dong, quận Trung, Daegu, Hàn Quốc.
Liên kết
Trạm thông tin mạng từ Tổng công ty đường sắt cao tốc đô thị Daegu
Tham khảo
Ga tàu điện ngầm Daegu
Quận Trung, Daegu
Nhà ga mở cửa vào 2005
|
2937861
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nolaseniola%20plecopteroides
|
Nolaseniola plecopteroides
|
Nolaseniola plecopteroides là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Nolaseniola
|
19805414
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A9o%20Leroy
|
Léo Leroy
|
Léo Leroy (sinh ngày 14 tháng 2 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Montpellier tại Ligue 1.
Sự nghiệp thi đấu
Leroy gia nhập lò đào tạo trẻ Rennes năm 8 tuổi, và dành phần lớn thời gian phát triển kỹ năng bóng đá của mình tại đây. Ngày 6 tháng 2 năm 2019, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Châteauroux. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho Châteauroux trong trận hòa 2–2 tại Ligue 2 trước Brest vào ngày 1 tháng 3 năm 2019.
Ngày 28 tháng 5 năm 2021, anh gia nhập Montpellier.
Đời tư
Leroy là con của cựu cầu thủ bóng đá Pháp Jérôme Leroy.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ bóng đá LB Châteauroux
Cầu thủ bóng đá Montpellier HSC
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Ligue 2
Cầu thủ bóng đá Championnat National
Cầu thủ bóng đá Championnat National 2
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
|
19519445
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20C%E1%BA%A3nh%20B%C3%ACnh
|
Ga Cảnh Bình
|
Ga Cảnh Bình là một ga tàu điện ngầm trên Tuyến vòng thuộc Hệ thống đường sắt đô thị Đài Bắc mở cửa vào ngày 31 tháng 1 năm 2020. Nó nằm ở Trung Hòa, Tân Bắc, Đài Loan, tại giao lộ đường (景平路) và làn 123.
Bố trí ga
Tham khảo
Nhà ga mở cửa vào 2020
Khởi đầu năm 2020 ở Đài Loan
Ga tuyến vòng
|
2592106
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phaeosia%20intermedia
|
Phaeosia intermedia
|
Phaeosia intermedia là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phaeosia
|
15110720
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Frikeh%2C%20Idlib
|
Frikeh, Idlib
|
Frikeh, Idlib () là một ngôi làng Syria nằm ở Jisr al-Shughur Nahiyah ở huyện Jisr al-Shughur, Idlib. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria (CBS), Frikeh, Idlib có dân số 3261 trong cuộc điều tra dân số năm 2004.
Tham khảo
|
2928803
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lacinipolia%20imbuna
|
Lacinipolia imbuna
|
Lacinipolia imbuna là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lacinipolia
|
14200414
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Miyauchi%20Ryuta
|
Miyauchi Ryuta
|
Ryuta Miyauchi (sinh ngày 2 tháng 3 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Ryuta Miyauchi đã từng chơi cho Kashima Antlers.
Tham khảo
Sinh năm 1994
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá J1 League
Cầu thủ bóng đá J3 League
Cầu thủ bóng đá Kashima Antlers
|
19751560
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tennis%20in%20the%20Land%202022%20-%20%C4%90%C3%B4i
|
Tennis in the Land 2022 - Đôi
|
Nicole Melichar-Martinez và Ellen Perez là nhà vô địch, đánh bại Anna Danilina và Aleksandra Krunić trong trận chung kết, 7–5, 6–3.
Shuko Aoyama và Ena Shibahara là đương kim vô địch, nhưng Shibahara tham dự ở Granby. Aoyama đánh cặp với Chan Hao-ching, nhưng thua ở vòng bán kết trước Melichar-Martinez và Perez.
Hạt giống
Kết quả
Kết quả
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kết quả vòng đấu chính
Tennis in the Land - Đôi
|
7961772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dietrich%20Bonhoeffer
|
Dietrich Bonhoeffer
|
Dietrich Bonhoeffer (4 tháng 2 năm 1906 - 9 tháng 4 năm 1945) là một mục sư, nhà thần học, gián điệp người Đức, nhà bất đồng chính kiến chống lại Đức Quốc xã, và thành viên sáng lập chính của Confessing Church. Các bài viết của ông về vai trò của Thiên chúa giáo trong thế giới thế tục đã trở nên có ảnh hưởng rộng rãi, và cuốn sách của ông về Chi phí của Tôn giáo đã trở thành một cuốn sách kinh điển thời hiện đại.
Ngoài những bài viết thần học của mình, Bonhoeffer được biết đến với sự phản kháng mạnh mẽ của ông đối với chế độ độc tài của Đức Quốc xã, bao gồm cả sự phản đối tiếng nói của Hitler đối với chương trình euthanasia của Hitler và chính sách khủng bố diệt chủng người Do Thái. Ông bị Gestapo bắt vào tháng 4 năm 1943 và bị giam tại nhà tù Tegel trong một năm rưỡi. Sau đó, ông được chuyển đến một trại tập trung của Đức quốc xã. Sau khi bị buộc tội liên quan đến âm mưu ám sát Adolf Hitler, ông đã nhanh chóng bị kết án, cùng với các người đồng mưu bị buộc tội khác, bao gồm các cựu thành viên của Abwehr (Văn phòng Tình báo quân đội Đức), và sau đó bị treo cổ vào ngày 9 tháng 4 năm 1945 trong thời kì chế độ Đức Quốc xã dần sụp đổ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dbonhoeffer.org
Dietrich Bonhoeffer on Encyclopædia Britannica
Bonhoeffer Reading Room with extensive links to on-line primary and sesources, Tyndale Seminary
Article by Douglas Huff in The Internet Encyclopedia of Philosophy
Great Lives: Dietrich Bonhoeffer
See: Maria von Wedemeyer-Weller
"Prison Writings in a World Come of Age: The Special Vision of Dietrich Bonhoeffer", Martin E. Marty, Berfrois, ngày 12 tháng 5 năm 2011
Richard Beck (ngày 8 tháng 12 năm 2010), Bonoheffer: etsi deus non daretur
Westminster Abbey: Dietrich Bonhoeffer
Sinh năm 1906
Mất năm 1945
Nhà triết học Đức
Người Wrocław
|
13567483
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%20XIII%20c%E1%BB%A7a%20Th%E1%BB%A5y%20%C4%90i%E1%BB%83n
|
Karl XIII của Thụy Điển
|
Karl XIII & II còn gọi là Carl, (7 tháng 10 năm 1748 – 5 tháng 2 năm 1818, là Vua của Thụy Điển (Karl XIII) từ năm 1809 và Vua Na Uy (Karl II) từ năm 1814 đến khi ông mất. Ông là con trai thứ hai của Vua Adolf Frederick của Thụy Điển và Louisa Ulrika của Phổ, em trai của Friedrich II của Phổ.
Tham khảo
Quốc vương Thụy Điển
Quốc vương Na Uy
|
19511479
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cung%20%C4%91i%E1%BB%87n%20%E1%BB%9F%20Barcinek
|
Cung điện ở Barcinek
|
Cung điện ở Barcinek (tiếng Ba Lan: Pałac w Barcinku) là một cung điện có từ thế kỷ 16, nằm trong làng Barcinek, huyện Jeleniogórski, tỉnh Dolnośląskie, Ba Lan. Công trình kiến trúc này có tên trong danh sách đăng ký di tích.
Lịch sử
Năm 1772: Cung điện ở Barcinek được Bá tước von Rothkirch xây dựng.
Năm 1890: Cung điện được xây dựng lại và có thêm một tòa tháp ở phía Bắc. Phần thiết kế nội thất ở tầng trệt và phần mặt tiền cũng được thay đổi theo chủ nghĩa chiết trung đang thịnh hành lúc bấy giờ. Gia đình quý tộc Wartenberg sở hữu cung điện này mãi cho đến năm 1945.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc: Đây từng là nơi ở mùa hè của Tổng thống Cộng hòa Ba Lan, và sau đó mới được chuyển giao lại cho một trang trại địa phương thuộc sở hữu nhà nước.
Sau năm 1980: Cung điện không còn được sử dụng.
Hiện nay: Cung điện ở Barcinek đang trong tình trạng xuống cấp.
Kiến trúc
Đây là một cung điện ba tầng, được xây dựng trên một mặt phẳng hình chữ nhật. Tòa tháp, tường chịu lực và các phòng ở tầng trệt vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Tham khảo
Thư mục
Słownik geografii turystycznej Sudetów. Marek Staffa (redakcja). T. 2: Pogórze Izerskie. Wrocław: Wydawnictwo I-BiS, 2003, , s. 93
Cung điện Ba Lan
|
2567972
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Othelais%20histrio
|
Othelais histrio
|
Othelais histrio là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Othelais
|
2573783
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pterolophia%20plurifasciculata
|
Pterolophia plurifasciculata
|
Pterolophia plurifasciculata là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Pterolophia
|
3220218
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c%20%C4%90o%20l%C6%B0%E1%BB%9Dng%20H%E1%BB%A3p%20ph%C3%A1p%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF
|
Tổ chức Đo lường Hợp pháp Quốc tế
|
{{Infobox organization
| name = Tổ chức Đo lường Hợp pháp Quốc tế Organisation Internationale de Métrologie Légale
| image =
| image_border =
| size =
| alt =
| caption =
| map =
| msize =
| malt =
| mcaption =
| abbreviation = OIML
| motto =
| formation = 1955
| extinction =
| type = Tổ chức phi chính phủ quốc tế về khoa học
| status =
| purpose =
| headquarters =
| location = Paris,
| region_served = Toàn cầu
| membership =
| language = Tiếng Anh, Pháp
| leader_title = Chủ tịch
| leader_name = Dr. Roman Schwartz
| main_organ =
| parent_organization =
| affiliations =
| num_staff =
| num_volunteers =
| budget =
| website = OIML Official website
| remarks =
}}Tổ chức Đo lường Hợp pháp Quốc tế, viết tắt theo tiếng Pháp là OIML' (Organisation Internationale de Métrologie Légale, tiếng Anh: International Organization of Legal Metrology, IOLM), là một tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận quốc tế hoạt động trong lĩnh vực đơn vị đo lường.
OIML thành lập năm 1955 . Điều hành OIML là ủy ban quốc tế CIML (Comité international de Métrologie légale) có chủ tịch và các phó chủ tịch và ủy viên. Chủ tịch CIML từ 2017 là Dr. Roman Schwartz từ .
Hoạt động OIML để thúc đẩy sự hài hòa toàn cầu các thủ tục đo lường hợp pháp, là nền tảng và tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế.
Hài hòa như vậy bảo đảm rằng chứng nhận phương tiện đo trong các quốc gia là tương thích lẫn nhau, do đó tạo thuận lợi cho thương mại các thiết bị đo lường và các sản phẩm dựa trên các thiết bị đo.
Các sản phẩm này bao gồm các thiết bị nặng, taxi mét, tốc độ kế, các thiết bị đo nông sản như đo độ ẩm ngũ cốc, các thiết bị y tế liên quan như đo khí thải và nồng độ cồn.
OIML làm việc chặt chẽ với các tổ chức quốc tế khác như Văn phòng Cân đo Quốc tế (BIPM), Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế'' (ISO) để đảm bảo khả năng tương thích giữa công việc của mỗi tổ chức.
Các tổ chức không có thẩm quyền pháp lý để áp đặt giải pháp lên các thành viên của nó, nhưng khuyến nghị của OIML thường được các quốc gia thành viên sử dụng như là một phần của pháp luật trong nước của chính họ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
OIML Official website
Website ISC, Hội đồng Khoa học Quốc tế
Tổ chức khoa học quốc tế
Sản xuất
Đo lường
Tổ chức tiêu chuẩn
Tổ chức có trụ sở tại Paris
|
3234235
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yanornis
|
Yanornis
|
Yanornis là một chi chim ăn cá sống vào thời kỳ Creta sớm. Hai loài đã được mô tả, cả hai đều đến từ Liêu Ninh, Trung Quốc: Yanornis martini, dựa trên nhiều hóa thạch từ thành hệ Jiufotang (cách nay 120 triệu năm) tại Triều Dương, và Yanornis guozhangi, từ thành hệ Yixian (cách nay 124 triệu năm).
Tham khảo
Chim kỷ Creta
Chim tiền sử châu Á
Danh sách các chi chim
Songlingornithidae
Dự án Khủng long/Theo dõi
|
3388122
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gioan%20Baotixita%20L%C3%AA%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Th%E1%BB%8Bnh
|
Gioan Baotixita Lê Đức Thịnh
|
Gioan Baotixita Lê Đức Thịnh (sinh 1961) là một giáo dân Công giáo Việt Nam được Tòa Thánh Vatican phong tước phẩm Hiệp sĩ Đại Thánh giá, tước phẩm cao nhất của Hiệp sĩ Dòng Thánh Grêgôriô Cả vào năm 2007, thuộc Kỵ sĩ đoàn của Giáo hoàng. Ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người châu Á đầu tiên được nhận tước phẩm này kể từ khi được lập vào năm 1831. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Kim Yến, cũng được phong Hiệp sĩ phu nhân theo tước phẩm của ông.
Cuộc sống giáo dân hiệp sĩ
G.B. Lê Đức Thịnh sinh 1961 tại giáo xứ Phúc Nhạc (thuộc xã Gia Tân 3, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai). Ông là con thứ 2 trong một gia đình nông dân nghèo.
Sau khi học xong lớp 9, ông thi vào Trung học sư phạm với ước mơ trở thành thầy giáo dạy học. Sau khi tốt nghiệp, ông đi dạy học một thời gian ngắn, nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông bỏ dở công việc. Ông lên Thành phố Hồ Chí Minh, vừa tiếp tục học hết cấp III bổ túc và một số chuyên ngành đào tạo nghề ngắn hạn; vừa đi làm lấy tiền trang trải cuộc sống và gửi về hỗ trợ gia đình. Nhờ bản tính cần cù, ông dần tạo riêng một cơ sở kinh doanh cà phê bột và sau đó mở rộng kinh doanh các lĩnh vực khác.
Là một giáo dân thấm nhuần đời sống bác ái, dù khời đầu trong hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Việc kinh doanh có lợi nhuận, ông trích ra làm từ thiện cho các đồng bào lương giáo còn khó khăn. Bên cạnh đó, ông còn vận động quyên góp hàng trăm tỷ đồng làm đường giao thông thôn, tạo công ăn việc làm cho thanh niên nghèo, xây nhà tình thương, mổ mắt, mổ tim, chăm sóc người già neo đơn, tàn tật, đặc biệt là công tác khuyến học, chăm lo cho trẻ em nghèo được đến trường.
Với những cống hiến của mình, ông được Hội đồng Giám mục Việt Nam đồng thuận khi Giám mục giáo phận Xuân Lộc thỉnh nguyện lên Giáo hoàng phong cho ông tước hiệu Hiệp sĩ Đại Thánh giá. Đây là vinh dự lớn nhất không chỉ cho giáo dân Việt Nam mà cả châu Á nói riêng. Ông cũng được Nhà nước VIệt Nam phong tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua yêu nước toàn quốc.
Chú thích
Tham khảo
Lời kêu gọi của Hiệp sỹ Đại thánh giá Lê Đức Thịnh
Hiệp sĩ Đại Thánh giá Lê Đức Thịnh - hình ảnh người Công giáo Việt Nam "Sống phúc âm giữa lòng dân tộc"
Hiệp sĩ Đại thánh giá thầm lặng giúp đời
Người Việt đầu tiên được phong tước Hiệp sỹ Đại Thánh Giá: Ông là ai?
Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân thăm Hiệp sĩ Đại Thánh Giá Lê Đức Thịnh
Người Đồng Nai
Người họ Lê tại Việt Nam
Tín hữu Công giáo Việt Nam
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.