id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
381
| title
stringlengths 1
211
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
2608471
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ematurga%20gynaekoides
|
Ematurga gynaekoides
|
Ematurga gynaekoides là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Ematurga
|
2578427
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stenomesosa%20flavomaculata
|
Stenomesosa flavomaculata
|
Stenomesosa flavomaculata là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Stenomesosa
|
18989781
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Arawak
|
Người Arawak
|
Người Arawak là một nhóm các bộ tộc bản địa người da đỏ sinh sống ở Nam Mỹ và Caribê, thuật ngữ "Arawak" đã được áp dụng vào nhiều thời điểm khác nhau đối với người Lokono ở Nam Mỹ và Taíno, người có lịch sử sống ở Đại Antilles và phía bắc tiểu Antilles ở Caribbe, tất cả các nhóm nói ngôn ngữ Arawakan liên quan. những người nói ngôn ngữ Arawakan có thể đã xuất hiện trong thung lũng sông Orinoco. Sau đó, lan truyền rộng rãi, trở thành ngôn ngữ rộng lớn nhất ở Nam Mỹ vào thời điểm tiếp xúc với người châu Âu, nhóm tự nhận là Arawak, còn được gọi là thổ dân Lokono đã định cư các khu vực ven biển của ngày nay là Guyana, Suriname, Grenada, Jamaica và một phần của các đảo Trinidad và Tobago.
Lịch sử
Người Arawak sống trong các cộng đồng làng, làm nông nghiệp, trồng ngô, khoai, sắn. Họ đã biết se sợi và dệt vải, nhưng họ không có ngựa hay gia súc kéo. Họ không có sắt thép, nhưng trên tai họ đeo những món đồ trang sức nhỏ bằng vàng. Thổ dân Arawak trên Quần đảo Bahamas cũng giống như thổ dân da đỏ trên đất liền, những người rất dễ nhận biết vì lòng hiếu khách và niềm tin vào sự sẻ chia. Khi đang tiến vào đất liền, đoàn của Cristoforo Colombo được những thổ dân da đỏ Arawak bơi ra chào đón. Khi nhóm người da trắng mang theo kiếm bước lên bờ, cất lên thứ ngôn ngữ lạ lùng, thổ dân Arawak tiến tới chào đón họ, mang đến thức ăn, nước uống và những món quà, cả đàn ông và đàn bà đều ở trần, da ngăm ngăm, vẻ mặt đầy kinh ngạc, ló ra từ những ngôi làng trên bãi biển, bơi lại gần để nhìn rõ hơn con tàu lạ.
Sau này Columbus viết trong nhật ký hành trình của mình: "Họ mang đến cho chúng tôi những con vẹt, cuộn sợi bông, xiên cá và nhiều thứ khác nữa để đổi lấy chuỗi hạt thủy tinh hay cái chuông. Họ sẵn sàng trao đổi tất cả những gì mình có… Họ sở hữu vóc dáng khỏe mạnh, cơ thể cường tráng và gương mặt ưa nhìn… Họ không mang vũ khí và cũng không có khái niệm về vũ khí vì khi tôi đưa cho họ một thanh kiếm, họ cầm đằng lưỡi và bị cắt vào tay vì thiếu hiểu biết. Họ không có sắt thép. Họ làm những cái xiên cá bằng thân lau sậy… Họ có thể trở thành nô lệ trung thành… Chỉ với 50 người, chúng tôi đã có thể khuất phục được họ và buộc họ làm bất cứ điều gì chúng tôi muốn". Columbus bắt một số người trong bọn họ lên tàu làm tù nhân, bởi ông tin chắc rằng họ sẽ chỉ lối cho ông tới các mỏ vàng.
Năm 1495, người Tây Ban Nha tiếp tục các chiến dịch lớn tìm kiếm nô lệ và bắt giữ khoảng 1.500 thổ dân Arawak, cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em, nhốt trong những trại được lính Tây Ban Nha và chó canh phòng nghiêm ngặt. Sau đó, họ chọn ra 500 nô lệ tốt nhất đưa lên tàu. Trong số 500 người đó, 200 người đã chết trên đường đi. Số sống sót còn lại về tới Tây Ban Nha và được viên phó chủ giáo thành phố đem bán, những nô lệ "vẫn trần truồng như lúc mới sinh ra" và dường như "chẳng cảm thấy xấu hổ như loài vật". Columbus sau này viết: "Nhân danh Đức Chúa trời, hãy để chúng tôi tiếp tục bán những nô lệ có thể bán được" Nhưng có quá nhiều nô lệ chết trong các trại giam. Columbus lo ngại phải trả lại tiền thưởng cho những nhà đầu tư, vậy nên ông buộc phải thực hiện lời hứa đưa những con tàu chất đầy vàng trở về bằng mọi giá.
Ở khu vực Cicao thuộc đảo Haiti, nơi Columbus và người của ông tưởng tượng ra những mỏ vàng khổng lồ, họ ra lệnh cho tất cả những ai từ 14 tuổi trở lên cứ ba tháng một lần phải nộp đủ một lượng vàng. Khi đem vàng đến nộp, những người này được đeo một xu bằng đồng vào cổ. Thổ dân nào bị phát hiện không có xu đồng sẽ bị chặt tay cho đến chết. Những thổ dân này đã phải thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi. Thứ vàng duy nhất có được ở đây chỉ là số bụi vàng ít ỏi gom góp từ các dòng suối. Họ phải bỏ trốn, bị chó săn đuổi và bị giết chết. Người Arawak cố gắng tập hợp thành một đội quân chiến đấu chống lại người Tây Ban Nha những kẻ thù có áo giáp, súng hỏa mai, kiếm và ngựa chiến, nên khi người Tây Ban Nha bắt được tù nhân, họ thường đem treo cổ hoặc thiêu sống.
Những vụ tự sát tập thể của người Arawak đã xảy ra, chủ yếu bằng nhựa độc từ cây sắn. Trẻ sơ sinh cũng bị giết nhằm tránh bị người Tây Ban Nha giết. Trong vòng hai năm, các vụ giết người, tự sát đã khiến số lượng khoảng 250 nghìn thổ dân da đỏ trên đảo Haiti giảm xuống chỉ còn một nửa. Khi đã chắc chắn không còn vàng trên đảo, thổ dân da đỏ bị bắt làm nô lệ lao động trong các đồn điền lớn được lập dựa theo chế độ ủy trị kiểu Tây Ban Nha sau này được đặt tên là Encomiendas. Phải làm việc với cường độ chóng mặt, hàng nghìn nô lệ đã chết. Đến năm 1515, chỉ còn khoảng 50 nghìn thổ dân sống sót, đến năm 1550 thì còn 500 người và báo cáo năm 1560 cho thấy không còn thổ dân Arawak bản địa hay con cháu nào của họ còn sống trên đảo.
Tham khảo
Jesse, C., (2000). The Amerindians in St. Lucia (Iouanalao). St. Lucia: Archaeological and Historical Society.
Haviser, J. B.,Wilson, S. M. (ed.), (1997). Settlement Strategies in the Early Ceramic Age. In The Indigenous People of the Caribbean, Gainesville, Florida: University Press.
Hofman, C. L., (1993). The Native Population of Pre-columbian Saba. Part One. Pottery Styles and their Interpretations. [Ph.D. dissertation], Leiden: University of Leiden (Faculty of Archaeology).
Haviser, J. B., (1987). Amerindian cultural Geography on Curaçao. [Unpublished Ph.D. dissertation], Leiden: Faculty of Archaeology, Leiden University.
Joseph, P. Musée, C. Celma (ed.), (1968). "LГhomme Amérindien dans son environnement (quelques enseignements généraux)", In Les Civilisations Amérindiennes des Petites Antilles, Fort-de-France: Départemental d’Archéologie Précolombienne et de Préhistoire.
Bullen, Ripley P., (1966). "Barbados and the Archeology of the Caribbean", The Journal of the Barbados Museum and Historical Society, 32.
Haag, William G., (1964). A Comparison of Arawak Sites in the Lesser Antilles. Fort-de-France: Proceedings of the First International Congress on Pre-Columbian Cultures of the Lesser Antilles, pp. 111–136
Deutsche, Presse-Agentur. "Archeologist studies signs of ancient civilization in Amazon basin", Science and Nature, M&C, 08/02/2010. Web. ngày 29 tháng 5 năm 2011.
Người bản địa
Nhóm sắc tộc ở Caribe
Lịch sử Hispaniola
Lịch sử của các dân tộc bản địa châu Mỹ
Lịch sử Caribe
Văn hóa bản địa châu Mỹ
Tây Ấn thuộc Tây Ban Nha
|
2627788
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ixala%20klotsi
|
Ixala klotsi
|
Ixala klotsi là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Ixala
|
2607996
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Exheterolocha%20niphas
|
Exheterolocha niphas
|
Exheterolocha niphas là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Exheterolocha
|
14018972
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ibrahima%20Traor%C3%A9
|
Ibrahima Traoré
|
Ibrahima Traoré (sinh ngày 21 tháng 4 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh trái.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Borussia Mönchengladbach
Cầu thủ bóng đá Hertha Berlin
Cầu thủ bóng đá VfB Stuttgart
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Guinée
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Guinée
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức
|
3692409
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20l%E1%BB%9Bp
|
Siêu lớp
|
Trong lập trình hướng đối tượng, siêu lớp (tiếng Anh: metaclass) là một lớp mà thực thể của nó là lớp. Giống như một lớp thông thường định nghĩa hành vi của những đối tượng nhất định, một siêu lớp định nghĩa hành vi của những lớp nhất định và các thực thể của chúng. Không phải tất cả các ngôn ngữ hướng đối tượng đều hỗ trợ siêu lớp. Trong số đó, mức độ mà siêu lớp có thể ghi đè lên khía cạnh nhất định của hành vi lớp sẽ khác nhau. Siêu lớp có thể được hiện thực bằng cách có nhiều lớp loại công dân hạng nhất, trong trường hợp đó một siêu lớp chỉ đơn giản là một đối tượng tạo nên lớp các lớp khác. Mỗi ngôn ngữ đều có giao thức siêu đối tượng của riêng nó, là một tập hợp các quy tắc chi phối các mà các đối tượng, lớp và siêu lớp tương tác với nhau.
Tham khảo
Lớp (lập trình máy tính)
|
12572357
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gunnar%20Gren
|
Gunnar Gren
|
Johan Gunnar Gren (; sinh ngày 31 tháng 10 năm 1920 - mất ngày 10 tháng 11 năm 1991) là một cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Thụy Điển. Ông được biết đến nhiều nhất khi chơi cho IFK Göteborg và A.C. Milan. Ông là một tiền đạo, nổi tiếng với khả năng kỹ thuật, quan sát, thông tin chiến thuật, và khả năng chuyền bóng như một tiền vệ tổ chức tấn công, ông là một phần của "Gre-No-Li", bộ ba tiền đạo nổi tiếng ở Milan và đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển. Gren đã giành được nhiều danh hiệu trong sự nghiệp của mình, trong đó có một huy chương vàng Olympic 1948, Guldbollen (Giải thưởng Quả bóng vàng Thụy Điển) vào năm 1946, và là một phần của Đội tuyển quốc gia Thụy Điển giành Á quân World Cup 1958. Gren được xem là một trong những tượng đài bóng đá vĩ đại nhất tại Thụy Điển. Một bức tượng đã được xây dựng để vinh danh của ông bên ngoài sân vận động Gamla Ullevi.
Những năm đầu
Gren sinh ngày 31 tháng 10 năm 1920 trong gia đình làm mộc tại Majorna, Gothenburg có cha là Johan Olsson và mẹ là Gerda Maria Olsson. Từ khi còn nhỏ, Gren nổi bật trong bóng đá. Vào ngày 7 tháng 10 năm 1934, Chủ tịch Hiệp hội bóng đá Gothenburg Carl "Ceve" Linde tổ chức một cuộc thi đấu. Ông đã giành được giải thưởng đầu tiên của mình. Năm 13 tuổi, Gren chơi cho Bollklubben Strix. Trong thời niên thiếu, ông đã từng chơi cho Lindholmens BK và GAIK trước khi chơi cho Gårda BK.
Sự nghiệp và câu lạc bộ
Gårda BK
Năm 1937, ông bắt đầu chơi cho Gårda BK và bắt đầu thi đấu tại giải Allsvenskan vào ngày 1 tháng 5 năm 1938 trong trận đấu gặp Malmö FF, một trận đấu có kết quả hòa không bàn thắng. Trong thời gian của mình ở đó, Gren đã có tổng cộng 54 trận đấu, ghi được 16 bàn thắng.
IFK Göteborg
Năm 1941, ông được IFK Göteborg đưa về. Trong thời gian của mình ở đây, Gren giành được một chức vô địch quốc gia trong mùa giải 1941/42 và là vua phá lưới vào năm 1947. Ông đã giành luôn danh hiệu Guldbollen (Cầu thủ xuất sắc nhất Thụy Điển) vào năm 1946, và là cầu thủ đầu tiên giành danh hiệu này. Trận đấu đầu tiên của ông cho IFK là vào tháng 8 năm 1941, trong chiến thắng trước Gårda BK với tỉ số 6-1, trong đó Gren có bàn thắng mở tỉ số trận đấu. Trận đấu cuối cùng ông thi đấu trong màu áo của IFK Göteborg vào ngày 6 tháng 6 năm 1949 trong trận đấu với IFK Norrköping tại sân vận động Gamla Ullevi, và Göteborg đã thua 0-1. Tổng cộng, Gren đã thi đấu 164 trận cho IFK Göteborg và ghi được 78 bàn.
AC Milan
Cái tên của ông đã vượt ra khỏi Thụy Điển khi mà A.C. Milan đã đưa ông về. Ngày 11 tháng 9 năm 1949, ông ra mắt A.C. Milan trong trận đấu với Sampdoria, và Milan đã giành chiến thắng 3-1. Trong thời gian của mình tại Milan, ông là "Gre", một phần của bộ ba "Gre-No-Li" nổi tiếng cùng với các đồng đội Thụy Điển khác là Gunnar Nordahl ("No") và Nils Liedholm ("Li"). Ông cũng có biệt danh là "Il Professore" là "Giáo sư" trong tiếng Ý. Tại A.C. Milan, ông đã cùng câu lạc bộ giành chức vô địch mùa giải 1950/51. Tổng cộng ông đã thi đấu 133 trận ở Serie A và ghi được 38 bàn. Gren cũng là huấn luyện viên của A.C. Milan năm 1952 trước khi chuyển đến ACF Fiorentina.
Các đội bóng khác
Năm 1953, Gren chuyển tới Fiorentina, nơi ông đã có 55 trận và ghi được 5 bàn. Sau đó vào năm 1955, Gren chuyển tới Genoa C.F.C., nơi ông đã có 29 trận và ghi được 2 bàn thắng. Mệt mỏi sau quãng thời gian thi đấu tại Ý, Gren quyết định quay lại Thụy Điển. Năm 1956, Gren trở lại Gothenburg để gia nhập Örgryte IS trên cương vị vừa là cầu thủ vừa là huấn luyện viên. Gren rời đội bóng năm 1959 và tiếp tục chuyển qua chơi cho GAIS năm 1963.
Sự nghiệp quốc tế
Gren có trận đấu ra mắt trong màu áo của đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển vào ngày 29 tháng 8 năm 1940 trong chiến thắng 3-2 trước Phần Lan. Trong thập niên 40, ông đã thi đấu 40 trận cho đội tuyển quốc gia và trận đấu cuối cùng năm 1949 là trận đấu mà Thụy Điển giành chiến thắng 3-1 trước Ireland ở Vòng loại World Cup 1950 và 2-2 trong trận giao hữu với Hungary. Trong thời kỳ này, Gren là một phần của đội tuyển giành huy chương vàng trong Thế vận hội Mùa hè 1948 ở Luân Đôn, ghi hai bàn thắng trong trận chung kết với Nam Tư tại Wembley.
Là một người đã không còn thi đấu tại giải đấu hàng đầu Thụy Điển, Gren không được gọi vào đội tuyển quốc gia. Tuy nhiên, khi World Cup năm 1958 được tổ chức ngay trên sân nhà, đội tuyển Thụy Điển có vẻ như quá yếu trong giải đấu này, Hiệp hội Bóng đá Thụy Điển đã thay đổi quy định, và Gren, một người đã kết thúc sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp và hiện giờ chỉ còn thi đấu tại Giải Hạng Hai Bóng đá Thụy Điển lại đủ điều kiện. Gren đã trở thành cầu thủ lớn tuổi nhất tại World Cup khi đã 37 tuổi và đã đóng vai trò quan trọng trong việc đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển giành Á quân. Ông đã chơi 5 trận tại World Cup 1958 và ghi 1 bàn thắng, đó là bàn thắng trong trận thắng 2-1 trước Tây Đức ở bán kết. Ông đã được đề cử vào đội hình tiêu biểu tại World Cup 1958.
Trận đấu quốc tế cuối cùng Gren thi đấu là vào ngày 26 tháng 10 năm 1958 trong trận đấu hòa 4-4 với đội tuyển Đan Mạch. Vào thời điểm đó, ông đã 37 năm 360 ngày tuổi. Trong toàn bộ sự nghiệp, ông đã có 57 lần ra sân trong màu áo đội tuyển quốc gia, ghi 32 bàn.
Huấn luyện viên
Trong khi thi đấu ở A.C. Milan, Gren cũng từng là huấn luyện viên của đội bóng vào năm 1952. Ngoài ra, Gren cũng từng là huấn luyện viên của Örgryte IS và GAIS trên cương vị vừa là cầu thủ vừa là huấn luyện viên. Sau khi giải nghệ trên cương vị cầu thủ, Gren đã từng là huấn luyện viên của nhiều đội bóng. Gren là đồng huấn luyện viên của Juventus trong một thời gian ngắn vào năm 1961 cùng với Július Korostelev, sau đó là huấn luyện viên của GAIS, IFK Värnamo, Redbergslids IK, Skogens IF, IK Oddevold và Fässbergs IF.
Nghỉ hưu
Ông nghỉ hưu vào những năm 1970. Mười ngày sau sinh nhật 71 tuổi, ông qua đời và được chôn cất tại nghĩa trang Västra Kyrkogården, Gothenburg, Västra Götaland, Thụy Điển.
Thống kê
*Thống kê không bao gồm 4 lần thi đấu tại Latin Cup cho Milan
Danh hiệu
Câu lạc bộ
IFK Göteborg
Allsvenskan: 1941
A.C. Milan
Serie A: 1950–51; Á quân 1949–50, 1951–52
Latin Cup: 1950–51
Quốc tế
Sweden
FIFA World Cup: Á quân 1958
Thế vận hội Mùa hè 1948: Huy chương vàng
Cá nhân
Guldbollen: 1946
Vua phá lưới Allsvenskan: 1947
Juggling Award của Hiệp hội Bóng đá Goteborg: 1934
Đội hình toàn sao tại FIFA World Cup: 1958
Phòng danh dự A.C. Milan
Tham khảo
Liên kết ngoài
Detail of international appearances and goals – by Roberto Mamrud, RSSSF
Sinh năm 1920
Mất năm 1991
Cầu thủ bóng đá Thụy Điển
Cầu thủ bóng đá A.C. Milan
Cầu thủ bóng đá ACF Fiorentina
Cầu thủ bóng đá Genoa C.F.C.
Huấn luyện viên A.C. Milan
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1958
Huy chương bóng đá Thế vận hội
Tiền đạo bóng đá
Huấn luyện viên Juventus F.C.
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội của Thụy Điển
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
|
2808471
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joppocryptus%20esurialis
|
Joppocryptus esurialis
|
Joppocryptus esurialis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Joppocryptus
|
2801817
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glypta%20abrupta
|
Glypta abrupta
|
Glypta abrupta là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Glypta
|
2916345
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Autographa%20anatolica
|
Autographa anatolica
|
Autographa anatolica là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Autographa
|
14932923
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Christine%20Ouinsavi
|
Christine Ouinsavi
|
Christine Ouinsavi là một nhà nghiên cứu sinh học lâm nghiệp, người nhận học bổng quốc tế UNESCO-L'ORÉAL 2007 cho phụ nữ trong khoa học, và chính trị gia từ Bénin. Tính đến tháng 6 năm 2017, cô là bộ trưởng phụ trách Giáo dục Tiểu học, Văn học và Ngôn ngữ Quốc gia của Benin.
Tiểu sử
Trong số mười lăm nhà nghiên cứu nữ trẻ trong lĩnh vực khoa học đời sống, Christine Ouinsavi đã nhận được giải thưởng học bổng quốc tế UNESCO-L'ORÉAL dành cho phụ nữ trong khoa học năm 2007. Cô là một trong ba phụ nữ từ Châu Phi nhận được học bổng. Cô quan tâm đến sinh học rừng và cô đã được Trung tâm nghiên cứu rừng Laval, Đại học Laval, Québec, Canada tổ chức để "nghiên cứu sử dụng bền vững ba loài thực vật rừng được khai thác như một nguồn thu quan trọng của người dân nông thôn ở Benin ".
Christine Ouinsavi là một thành viên của chính phủ của Tiến sĩ Boni Yayi. Cô chuyên trách danh mục đầu tư của Bộ phụ trách Giáo dục Tiểu học, Văn học và Ngôn ngữ quốc gia của Bêlarut.
Năm 2017, cô có bằng tiến sĩ về Khoa học Nông nghiệp được nhận vào vị trí giáo sư đầy đủ tại Đại học Parakou, người phụ nữ đầu tiên có được học vị giáo sư đầy đủ trong trường đại học đó. Trước đó, cô được nhận vào trường đại học với tư cách là trợ giảng giáo sư vào năm 2009 với bằng thạc sĩ khoa học về kỹ thuật nông học.
Tham khảo
Nhà khoa học nữ thế kỷ 21
Nhân vật còn sống
|
18985186
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh%20ph%E1%BA%A1t%20t%E1%BB%AD%20h%C3%ACnh%20%E1%BB%9F%20Afghanistan
|
Hình phạt tử hình ở Afghanistan
|
Hình phạt tử hình ở Afghanistan là hợp pháp và có thể được thực hiện bí mật hoặc công khai. Người bị kết án tử hình có thể thi hình án bằng hình thức treo cổ hoặc xử bắn. Ném đá, cắt cụt chi và hình phạt bằng roi đôi khi cũng được sử dụng như một phương pháp trừng phạt, đặc biệt là vào cuối những năm 1990. Các vụ xử tử công khai đã tồn tại trong suốt lịch sử của Afghanistan. Hình phạt này vẫn tiếp tục được thi hành sau khi Taliban trở lại nắm quyền vào tháng 8 năm 2021. Một số vụ xử tử gần đây đã bị lên án bởi Liên Hiệp Quốc. Các tội tử hình thường bao gồm các tội ác ghê rợn như giết người hàng loạt và được chi phối bởi Sharia, bên cạnh luật dân sự.
Tội tử hình
Các tội tử hình bao gồm các tội nghiêm trọng và được chi phối bởi luật Sharia, cùng với luật dân sự. Các tội tử hình bao gồm:
Ngoại tình
Gian dâm
Giết người
Bội giáo
Đốt phá
Báng bổ
Quan hệ tình dục đồng giới
Gián điệp
Bội ước
Khủng bố
Vụ xử tử nổi bật
Năm 1999/2000 - Một đao phủ Taliban hành quyết một phụ nữ ở nơi công cộng.
Tháng 4 năm 2004 – Abdullah Shah bị xử tử tại nhà tù Pul-e-Charkhi bên ngoài Kabul.
Tháng 10 năm 2007 – 15 tù nhân bị xử bắn tại nhà tù Pul-e-Charkhi tại Kabul, trong đó bao gồm Reza Khan.
Tháng 6 năm 2011 – Hai kẻ giết người hàng loạt bị xử tử bằng cách treo cổ tại nhà tù Pul-e-Charkhi. Một trong hai kẻ giết người là Zar Ajam, một thiếu niên 17 tuổi người Waziristan, Pakistan, kẻ đã bắn chết ngẫu nhiên 40 người bên trong một chi nhánh của Ngân hàng Kabul tại Jalalabad, Afghanistan.
Tháng 11 năm 2012 – 14 tù nhân bị treo cổ tại nhà tù Pul-e-Charkhi.
Tháng 10 năm 2014 – Năm người đàn ông bị xử tử bằng cách treo cổ tại nhà tù Pul-e-Charkhi. Những phạm nhân bị buộc tội cướp bóc và hãm hiếp tập thể.
Tháng 5 năm 2016 – Sáu người đàn ông bị xử tử bằng cách treo cổ tại nhà tù Pul-e-Charkhi với tội danh khủng bố.
Tháng 12 năm 2022 - Một người đàn ông thú nhận tội giết người bị hành quyết công khai tại một sân vận động đông đúc ở phía tây nam tỉnh Farah. Đây là trường hợp hành quyết công khai đầu tiên kể từ khi Taliban lên nắm quyền vào năm 2021.
Xem thêm
Luật trừng phạt thân thể ở Afghanistan
Danh sách nhà tù ở Afghanistan
Hình phạt tử hình theo quốc gia và vùng lãnh thổ
Tham khảo
Afghanistan
Giết người ở Afghanistan
Thực thi pháp luật ở Afghanistan
Vi phạm nhân quyền ở Afghanistan
|
2708385
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lamprosema%20bonitalis
|
Lamprosema bonitalis
|
Lamprosema bonitalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lamprosema
|
19482368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pat%20Jackson%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
|
Pat Jackson (cầu thủ bóng đá)
|
Pat Jackson (8 tháng 12 năm 1924 - 6 tháng 9 năm 1974) là một cầu thủ bóng đá người Anh, thi đấu ở vị trí tiền đạo ở Football League cho Tranmere Rovers.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Tranmere Rovers F.C.
Mất năm 1974
Cầu thủ bóng đá Swindon Town F.C.
Tiền đạo bóng đá
Cầu thủ bóng đá English Football League
Sinh năm 1924
Cầu thủ bóng đá từ Liverpool
Cầu thủ bóng đá Anh
|
2606173
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dilophodes%20contaminata
|
Dilophodes contaminata
|
Dilophodes contaminata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Dilophodes
|
18213953
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/NK%20Rudar%20Trbovlje
|
NK Rudar Trbovlje
|
Nogometni klub Rudar Trbovlje (), thường hay gọi NK Rudar Trbovlje hoặc đơn giản Rudar, là một câu lạc bộ bóng đá Slovenia đến từ Trbovlje, thi đấu ở Regional Ljubljana League, cấp độ 4 của hệ thống giải bóng đá Slovenia. Câu lạc bộ có mối kình địch lâu dài với NK Zagorje, còn được gọi là derby Zasavje.
Lịch sử câu lạc bộ
Lịch sử bóng đá ở Trbovlje trở lại năm 1922, lúc bóng đá được sinh ra ở Trbovlje, khi đội bóng được thành lập với tên gọi ŠK Zora. Cùng năm đó, ŠK Zora thu hút rất nhiều sự chú ý trong môn thể thao này với tầng lớp lao động trẻ. Năm 1924 câu lạc bộ đã bị cấm sau một cuộc đối đầu chính trị với Orjuna. Một số thành viên cũ sau đó thành lập DSK Svoboda, đổi tên thành SK Amater năm 1927.
Vào lúc kỉ niệm 50 thành lập, đội bóng đã có lần đầu tiên vô địch giải vô địch Slovenia. Một giai đoạn thành công kéo dài đến năm 1980, khi NK Rudar vô địch thêm hai lần từ năm 1974 đến năm 1979. Đội được dẫn dắt bởi chuyên gia bóng đá Zdenko Verdenik.
Với sự sụp đổ của Nam Tư và Slovenia tuyên bố độc lập, tất cả các đội bóng Slovenia trở lại các giải đấu khu vực. Một số cầu thủ chủ chốt rời câu lạc bộ và Rudar bị loại khỏi giải đấu mới có tên Giải bóng đá vô địch quốc gia Slovenia. Họ chưa bao giờ trở lại hạng cao nhất thêm lần nào.
Danh hiệu
Yugoslav Third League: 3
1971-72, 1973-74, 1978-79
Giải bóng đá hạng tư quốc gia Slovenia: 1
2011-12
Tham khảo
Liên kết ngoài
Official website
Câu lạc bộ bóng đá khởi đầu năm 1922
Câu lạc bộ bóng đá Slovenia
Khởi đầu năm 1922 ở Slovenia
|
2636308
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oenoptila%20rufula
|
Oenoptila rufula
|
Oenoptila rufula là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Oenoptila
|
19433751
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n%20x%E1%BB%AD%20%C3%A1n
|
Truyện xử án
|
Truyện xử án (tiếng Anh: gong'an fiction; ) hay tiểu thuyết công án, bao gồm cả các bộ phim xử án, là một nhánh nhỏ của dòng truyện tội phạm Hoa ngữ trong đó các viên quan Huyện lệnh của triều đình sẽ đứng ra xét xử các vụ án. Dòng truyện xử án xuất hiện lần đầu trong các câu chuyện thông tục dân gian triều Tống ở Trung Quốc. Sau đó nó dần phát triển và trở thành một trong những trường phái tiểu thuyết phổ biến nhất trong hai triều đại nhà Minh và nhà Thanh. Các câu chuyện về hai vị quan thanh liêm, công minh chính trực là Địch Nhân Kiệt (đời Đường) và Bao Công (đời Tống) chính là những ví dụ tiêu biểu nhất cho dòng truyện này.
Lịch sử
Cho đến nay không còn sót lại một tác phẩm về xử án nào của đời Tống, bao gồm các hình thức múa rối và sân khấu kịch truyền miệng. Truyện về Bao Thanh Thiên dựa trên cuộc đời và sự nghiệp của vị quan Bao Chửng, một vai chính thường thấy của dòng truyện xử án, xuất hiện lần đầu dưới triều đại nhà Nguyên (Trung Quốc).
Phim truyền hình hiện đại dựa trên truyện xử án
Lấy nguyên mẫu từ các tác phẩm truyện xử án truyền thống như Địch Nhân Kiệt và Bao Thanh Thiên, nhiều bộ phim truyền hình đã được sản xuất và lên sóng nhằm khắc họa sinh động các câu chuyện cổ bằng con mắt hiện đại. Một số ví dụ tiêu biểu có thể kể đến như:
Thần Thám Địch Nhân Kiệt -
Thần Thám Địch Nhân Kiệt 2 -
Thần Thám Địch Nhân Kiệt 3 -
Đại Đường Nữ Tuần Án -
Thất Hiệp Ngũ Nghĩa Nhân Gian Đạo -
Bao Thanh Thiên (bản 1993) -
Bao Thanh Thiên (bản 2008) -
Tân Bao Thanh Thiên (bản 2010) -
Thần Đoạn Địch Nhân Kiệt -
Thi Công kỳ án (bản 1997) -
Thi Công kỳ án (bản 2006) -
Thi Công kỳ án (bản 2010) -
Tam Hiệp Ngũ Nghĩa -
Ngũ Thử Náo Đông Kinh -
Thiếu Niên Thần Thám Địch Nhân Kiệt -
Chú thích
Tham khảo
Cawelti, J. G. (1997). Canonization, Modern Literature, and the Detective Story. In Mystery, Violence, and Popular Culture: Essays (pp. 278–287). Madison: The University of Wisconsin Press
Latch, D. (1961). Introduction. In The Chinese Nail Murders (pp. 1–13). Chicago: The University of Chicago Press.
St. André, J. (2002). Picturing Judge Bao in Ming Shangtu xiawen Fiction. Chinese Literature: Essays, Articles, Reviews (CLEAR),24, 43-73. doi:10.2307/823476
Yau-woon Ma, "The Textual Tradition of Ming Kung-an Fiction", Harvard Journal of Asiatic Studies 35 (1975): 190–220.
黄岩柏:《中国公案小说史》
鄭春子:《明代公案小說研究》
孟犁野:《中国公案小说艺术发展史》
王俊年: 《侠义公案小说的演化及其在晚清繁盛的原因》
"Canonization, Modern Literature, and the Detective Story, John G. Cawelti, from Theory and practice of classic detective fiction, Jerome Delamater, etc., Hofstra University, 1997, p. 8
Truyện xử án
Văn học Trung Quốc
Truyện điều tra phá án
Truyện trinh thám
Thể loại văn học
Thể loại truyền hình
Thể loại phim
Tác phẩm lấy bối cảnh phong kiến Trung Quốc
|
3228442
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/North-Western%20European%20Journal%20of%20Mathematics
|
North-Western European Journal of Mathematics
|
North-Western European Journal of Mathematics là một tập san khoa học về chuyên ngành toán,
được xuất bản bởi các Phòng thí nghiệm Toán học thuộc vùng Hauts-de-France, Pháp.
Sự hình thành
Các Phòng thí nghiệm Toán học vùng Hauts-de-France đã thành lập nên tạp chí
North-Western European Journal of Mathematics trong năm 2015. Tạp chí hoan
nghênh những công trình nghiên cứu trong cả hai lĩnh vực toán lý thuyết và toán ứng dụng,
cũng như trong lĩnh vực lịch sử toán học. Tính độc đáo của tạp chí so với hệ thống tạp chí khoa học
Pháp là có một cơ sở có tính chất liên vùng và xuyên quốc gia (Nord-Pas-de-Calais/ Bỉ/ Hà Lan).
North-Western European Journal of Mathematics được lãnh đạo bởi một ban biên tập quốc tế
và nhận được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức xã hội, bao gồm
Hiệp hội Toán học Pháp (Société mathématique de France ),
Hiệp hội Toán ứng dụng và Công nghiệp Pháp (Société mathématiques appliquées et industrielles ),
Hiệp hội Toán học Hoàng gia Hà Lan (The Royal Dutch Mathematical Society) và Viện Fields (Fields Institute).
Chính sách xuất bản
Tạp chí là một hệ thống truy cập mở trực tuyến: người dùng có thể truy cập miễn phí tới các bài báo
của tạp chí. Phiên bản in được xuất bản với một mức giá thấp (bao gồm chi phí in bìa và chuyển phát).
Các tác giả sẽ không bị tính bất kỳ phí xuất bản nào và giữ quyền tác giả đối với các bài báo của họ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
1. Bài báo của Hiệp hội toán học Pháp (Société mathématique de France).
2. Thư hỗ trợ từ Hiệp hội Toán Ứng dụng và Công nghiệp Pháp (Société de Mathématiques Appliquées et Industrielles).
Tập san toán học
|
2841786
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Epactoides%20madecassus
|
Epactoides madecassus
|
Epactoides madecassus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
Epactoides
|
3523645
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn%20ho%C3%A0ng%20Go-Reizei
|
Thiên hoàng Go-Reizei
|
là Thiên hoàng thứ 70 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống
Triều đại của Go-Reizei kéo dài trong những năm 1045-1068.
Tường thuật truyền thống
Trước khi lên ngôi, ông có tên cá nhân (imina) là Chikahito -shinnō (親仁親王).
Ông là con trai cả của Hoàng đế Go-Suzaku. Mẹ ông là Fujiwara no Kishi (藤原嬉子), trước đây gọi là Naishi-no kami, con gái của Fujiwara no Michinaga.
Go-Reizei có ba hoàng hậu, nhưng không người nào có con.
Lên ngôi Thiên hoàng
Ngày 05 tháng 2 năm 1045 (Kantoku thứ 2, ngày 16 tháng 1): Thiên hoàng Go-Suzaku thoái vị và con trai cả của ông, thân vương Chikahito mới 20 tuổi đã lên ngôi, hiệu là Thiên hoàng Go-Reizei. Ông cải niên hiệu của cha mình thành niên hiệu Kantoku nguyên niên (1045 - 1046).
Năm 1051, viên tướng Abe no Sadatō và Munetō nổi loạn chống chính quyền Thiên hoàng ở tỉnh Michinoku (tức tỉnh Mutsu) ở phía Bắc nước Nhật. Để đối phó, Thiên hoàng cử viên thống đốc tỉnh mới đến là Minamoto no Yoriyoshi, phong ông ta làm Shogun để dẹp loạn. Cuộc nổi loạn của họ Abe kéo dài đến năm 1062 mới bị dập tắt hoàn toàn.
Ngày 22 tháng 5 năm 1068, ông qua đời đột ngột mà không có người thừa kế trực tiếp. Thân vương Takahito (35 tuổi), em trai của ông sẽ lên ngôi, hiệu là Thiên hoàng Go-Sanjō.
Kugyō
Kampaku, Fujiwara Yorimichi, 992-1074.
Kampaku, Fujiwara Norimichi, 997-1075.
Daijō daijin, Fujiwara Yorimichi.
Tả đại thần, Fujiwara Norimichi.
tả đại thần
Hữu đại thần, Fujiwara Sanesuke, 957-1046.
Hữu đại thần, Fujiwara Yorimune, 993-1065.
Hữu đại thần, Fujiwara Morozane, 1042-1101.
Nadaijin, Minamoto Morofusa, 1009-1077.
đại nạp ngôn
nengō
Kantoku (1044-1046)
Eishō (1046-1053)
Tengi (1053-1058)
Kōhei (1058-1065)
Jiryaku (1065-1069)
Gia đình
Empress (chūgū): công chúa Akiko / Shoshi (章子内親王) (1026-1105), con gái đầu tiên của Thiên hoàng Go-Ichijō
Empress (Kogo): Fujiwara no Hiroko / Kanshi (藤原寛子) (1036-1127), con gái lớn của Fujiwara no Yorimichi (藤原頼通)
Empress (Kogo): Fujiwara no Kanshi (藤原歓子) (1021-1102), con gái thứ hai của Fujiwara no Norimichi (藤原教通)
Tham khảo
Thiên hoàng
|
15432220
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/NGC%20329
|
NGC 329
|
NGC 329 là một thiên hà xoắn ốc trong chòm sao Kình Ngư. Nó được phát hiện vào ngày 27 tháng 9 năm 1864 bởi Albert Marth. Nó được mô tả bởi Dreyer là "mờ nhạt, mở rộng."
Tham khảo
Thiên hà xoắn ốc
Chòm sao Kình Ngư
Thiên thể phát hiện năm 1864
Thiên thể NGC
Được phát hiện bởi Albert Marth
Thiên hà xoắn ốc có thanh
|
14687768
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fathia%20Ali%20Bouraleh
|
Fathia Ali Bouraleh
|
Fathia Ali Bouraleh (sinh ngày 14 tháng 10 năm 1987) là một vận động viên điền kinh chạy nước rút thi đấu quốc tế cho Djibouti.
Ali Bouraleh nói rằng cô trở thành một người chạy nhanh vì khi còn trẻ vì cô từng là một tên trộm. Ali Bouraleh bắt đầu tập luyện cho môn điền kinh vào năm 2004 tại trường trung học. Cô đã giành chiến thắng tại một sự kiện của trường trung học, và cô đã gây ấn tượng với huấn luyện viên đến mức ông ta mời cô tham dự chương trình đào tạo hai lần một tuần. Ông cũng tặng cô đôi giày chạy bộ, và hứa sẽ dạy kèm cô trong giờ học. Cô được đào tạo trong một sân vận động, bởi vì khi cô ấy chạy trên đường, mọi người ném đá và lăng mạ cô ấy vì khi chạy cô ấy mặc quần dài và đội khăn trùm đầu. Biệt danh của cô là "Mama" và khi khán giả xúc phạm Ali Bouraleh trong khi chạy, đồng đội của cô sẽ hét lại với họ "Đừng xúc phạm Mama của chúng tôi!"
Ali Bouraleh đại diện cho Djibouti tại Thế vận hội mùa hè 2008 ở Bắc Kinh. Cô thi đấu ở chặng nước rút 100 mét và đứng thứ tám trong lượt thi của mình nên không lọt vào vòng hai. Cô ấy đã xuất phát lỗi. Trong lần thi thứ hai, cô đã chạy với thời gian 14,29 giây, một trong những lần chậm nhất trong năm của Djibouti.. Cô ấy đã hoàn thành lượt thi cuối cùng với thời gian chậm thứ hai toàn lượt thi. Bouraleh thi đấu với khăn trùm đầu của cô ấy, mà theo cô nghĩ là không ảnh hưởng đến thành tích của cô ấy.
Cô hiện đang làm huấn luyện viên tại Câu lạc bộ Girls Run 2, cùng với Cintia Guzman. Cô sống ở thủ đô Djibouti. Ngoài việc huấn luyện các vận động viên, Bouraleh còn cung cấp thiết bị và hỗ trợ tài chính cho các vận động viên ở cả hai địa điểm đào tạo.
Tham khảo
Liên kết mở rộng
Người Djibouti
|
2606051
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eupithecia%20malformata
|
Eupithecia malformata
|
Eupithecia malformata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
M
|
2650015
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sangala%20sacrata
|
Sangala sacrata
|
Sangala sacrata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sangala
|
2839550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xanthophenax%20antennatus
|
Xanthophenax antennatus
|
Xanthophenax antennatus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xanthophenax
|
2928906
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Plecopterodes%20heterochroana
|
Plecopterodes heterochroana
|
Plecopterodes heterochroana là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Plecopterodes
|
3258269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3m%20s%C3%A1t%20Khojaly
|
Thảm sát Khojaly
|
Thảm sát Khojaly () là một cuộc thảm sát do những người Armenia vũ trang theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan gây ra cho ít nhất 161 thường dân Azerbaijan tại thành phố cổ Khojaly trong các ngày 25 và 26 tháng 2 năm 1992.
Bối cảnh lịch sử
Khojali (hay Khojaly trong ), hoặc Ivanyan (hay Ivanian trong ), còn được viết là Ay-Khodzhaly, Khodgalou, Khodzhalv, Khodzhaly, Khojalu, Khozhali... là một thành phố dưới quyền kiểm soát thực tế của Cộng hòa Nagorno-Karabakh dù trên danh nghĩa quốc tế, nó thuộc chủ quyền của Azerbaijan.
Khu vực Nagorno-Karabakh có dân cư chủ yếu là người Armenia là khu vực tranh chấp giữa Armenia và Azerbaijan khi hai quốc gia độc lập từ Đế quốc Nga vào năm 1918. Sau khi Liên Xô thiết lập quyền kiểm soát đối với khu vực, họ tạo ra tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh (NKAO) thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan vào năm 1923. Cuối thập niên 1980, vào những năm cuối cùng của Liên Xô, khu vực lại trở thành một vấn đề tranh chấp giữa Armenia và Azerbaijan, khi cộng đồng đa số là người Armenia muốn sáp nhập vào Armenia thay vì nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền thiểu số Azerbaijan.
Yêu cầu sáp nhập với Armenia, ban đầu diễn ra một cách hòa bình; nhưng khi Liên bang Xô Viết bắt đầu tan rã, đã biến thành một cuộc xung đột bạo lực giữa hai nhóm sắc tộc, dẫn đến những tố cáo về các hành vi thanh lọc sắc tộc từ cả hai phía. Chiến sự càng lúc càng gia tăng giữa chính quyền Azerbaijan muốn dập tắt phong trào ly khai tại Nagorno-Karabakh và những người Armenia ly khai, được hỗ trợ vũ trang bởi Cộng hòa Armenia.
Đỉnh điểm của các cuộc xung đột nổ ra khi Nghị viện Nagorno-Karabakh bỏ phiếu ủng hộ việc gia nhập Armenia ngày 20 tháng 2 năm 1988. Tuyên bố ly khai khỏi Azerbaijan là kết quả của sự "bất bình kéo dài từ phía cộng đồng người Armenia ở Nagorno Karabakh do sự cấm đoán tự do tôn giáo và văn hóa bởi chính quyền trung ương Xô Viết và nhà cầm quyền Azerbaijan", nhưng quan trọng hơn, là cuộc xung đột lãnh thổ. Khi Azerbaijan tuyên bố độc lập, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức tại tỉnh tự trị Nagorno-Karabakh và khu vực Shahumian lân cận, do cộng đồng Armenia chiếm đa số, bỏ phiếu tuyên bố ly khai khỏi Azerbaijan và tuyên bố thành lập nhà nước Cộng hòa Nagorno-Karabakh, và Chiến tranh Nagorno-Karabakh chính thức bùng nổ.
Cuộc thảm sát tàn bạo
Khojaly nằm cách chừng 7 km về phía bắc Stepanakert với dân cư từ 6 đến 10 ngàn người, nằm trên trục đường bộ duy nhất nối liền Armenia với vùng Karabakh xuyên qua vùng núi hành lang Lachin. Trong thành phố có một sân bay và là sân bay duy nhất ở vùng này. Thêm vào đó, Khojaly còn đóng vai trò căn cứ pháo binh kể từ ngày 23 tháng 2, bắn phá các đơn vị Armenia và SNG (với phần lớn là các binh sĩ người Armenia) đồn trú tại thủ phủ Stepanakert. Do vị trí chiến lược đó, các đơn vị quân sự Armenia đã tiến hành bao vây và cô lập thành phố. Đến cuối tháng 2 năm 1991, Khojaly hầu như đã bị phong tỏa hoàn toàn.
Ngày 26 tháng 2, các lực lượng Armenia (gồm cả quân đội Armenia, Nagorno-Karabakh và các binh sĩ người Armenia trong trung đoàn 366 của SNG hỗ trợ với các xe bọc thép), mở cuộc tấn công đánh chiếm Khojaly. Trước đó, phía Armenia đã tuyên bố họ sẽ tấn công, nhưng bỏ ngỏ một hành lang cho dân thường chạy tị nạn. Sau những đợt pháo kích trấn áp, quân Armenia dễ dàng đè bẹp quân phòng thủ và bắt đầu tiến vào thành phố. Quân Azerbaijan cùng dân chúng bỏ chạy về thành phố Agdam ở phía bắc, vẫn còn do người Azeri kiểm soát.
Theo phía Azerbaijan và một số tổ chức khác, và tiểu sử của một chỉ huy cao cấp Armenia, Monte Melkonian, do anh trai của ông ghi lại và xuất bản,, sau khi các lực lượng Armenia chiếm được Khojaly, họ tiến hành thảm sát hàng trăm dân thường Azerbaijan chạy di tản khỏi thị trấn. Lực lượng tiến công tiếp đó truy kích những người bỏ chạy và bắn vào họ, khiến cho hàng chục người thiệt mạng. Không có con số chính xác về số người thiệt mạng, nhưng ước tính tối thiểu có 485 người chết. Theo phía Azerbaijan, trong thời gian từ 25–26 tháng hai, có 613 thường dân, trong đó có 106 phụ nữ và 83 trẻ em, bị thiệt mạng.
Đối mặt với cáo buộc thảm sát dân thường, chính quyền Armenia bác bỏ việc thảm sát xảy ra, và xác nhận chiến dịch tấn công nhằm khóa họng pháo binh từ Khojaly. Họ giữ nguyên lập trường là phần lớn số dân thường thiệt mạng do bị mắc vào giữa hai làn đạn của quân Armenia và Azeri. Theo báo cáo của tổ chức quyền con người Helsinki Watch, cho biết, quân đặc nhiệm Azerbaijan OMON và "dân quân, mặc quân phục và mang theo vũ khí, chạy lẫn vào dân thường", có lẽ là nguyên nhân khiến lực lượng Armenia nổ súng vào họ.
Tưởng niệm
Phía Azerbaijan phản ứng mãnh liệt với cuộc thảm sát. Ngày 24 tháng 2 năm 1994, Quốc hội Azerbaijan (Milli Majlis) đã thông qua Nghị quyết “Về Ngày diệt chủng Hojala”.. Heydar Aliyev, Tổng thống Azerbaijan 1993-2003, tuyên bố:
Tổng thống Azerbaijan, Ilham Aliyev, con trai và người kế vị Heydar Aliyev, cũng phát biểu:
Công lý cho Khojaly
Tổ chức Quỹ Heydar Aliyev, do bà Mehriban Aliyeva, vợ tổng thống Ilham Aliyev, đứng đầu, đã vận động tích cực trong việc công bố và lên án những chủ mưu vụ thảm sát ra quốc tế. Quỹ tổ chức nhiều sự kiện tưởng niệm vụ thảm sát ở 70 nước trên thế giới, cùng nhiều buổi hội thảo, tưởng niệm, xuất bản các cuốn sách, các bản quảng cáo, phát hành đĩa DVD, quay phim trong khuôn khổ chiến dịch quốc tế “Công lý cho Khojaly” (, ), do Phó chủ tịch Quỹ, Chủ tịch Tổ chức Thanh niên Azerbaijan Nga – bà Leyla Aliyeva, con gái tổng thống Ilham Aliyev, đứng đầu. Theo công bố của tổ chức này, vụ thảm sát Khojaly đã được các đại biểu quốc hội của 31 nước công nhận là tội ác chống lại loài người.
Nghị quyết đặc biệt của Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC) liên quan đến vụ thảm sát Khojaly là tài liệu đầu tiên của một tổ chức quốc tế công nhận thảm họa này là “tội ác chống lại loài người”. Trong bản Nghị quyết do 51 thành viên thông qua này, thảm sát Khojaly được đánh giá như là “sự diệt chủng tập thể đối với dân lành, do các lực lượng vũ trang Armenia thực hiện”.
Ngày 25 tháng 2 năm 2015, nhân dịp tưởng niệm lần thứ 23 vụ thảm sản Khojaly, Đại sứ quán Azerbaijan đã tổ chức hội nghị với tựa đề Khojaly. Diệt chủng và tội ác chống nhân loại. Chiến thắng của sự không bị trừng phạt tại Hà Nội. Hội nghị trình bày video về vụ thảm sát; dành một phút mặc niệm các nạn nhân; lắng nghe các phát biểu; giới thiệu những cuốn sách, tài liệu, trang web về vụ thảm sát bằng tiếng Việt và tiếng Anh, nơi chứa đựng các thông tin về lịch sử của thảm sát Khojaly, bằng chứng từ các nguồn độc lập, giám định pháp y, lời khai nhân chứng và hình ảnh của các nạn nhân
Xem thêm
Holocaust
Cuộc diệt chủng người Armenia
Diệt chủng Rwanda
Diệt chủng người Herero và Namaqua
Chú thích
Liên kết ngoài
justiceforkhojaly.org
khojaly.org.az
khojaly.preslib.az
Khojaly genocide / Photos by Frédérique Lengaigne, a French photographer
Thảm sát ở Azerbaijan
Lịch sử Azerbaijan
Thập niên 1990
Vi phạm nhân quyền
Phân biệt đối xử
Phân biệt chủng tộc
Xung đột năm 1992
Azerbaijan năm 1992
|
13361032
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy%20t%E1%BA%AFc%20Gloger
|
Quy tắc Gloger
|
Quy tắc Gloger là một quy tắc trong sinh thái học nói rằng các loài động vật hằng nhiệt sống trong môi trường nóng ẩm, ví dụ như gần xích đạo, có xu hướng có nhiều sắc tố trên cơ thể hơn các họ hàng của chúng ở vùng lạnh và khô. Quy tắc này được đặt tên sau khi động vật học người Đức Constantin Wilhelm Lambert Gloger, người đầu tiên nhận xét hiện tượng này vào năm 1833 trong một đánh giá về hiệp phương sai giữa khí hậu và màu lông chim. Erwin Stresemann lưu ý rằng ý tưởng này đã được trình bày bởi Pallas trong Zoographia Rosso-Asiatica (1811). Gloger phát hiện ra rằng các loài chim trong môi trường ẩm ướt hơn thì màu lông có xu hướng đậm hơn so với họ hàng của chúng ở vùng khô cằn. Hơn 90% trong số 52 loài chim được nghiên cứu ở Bắc Mỹ phù hợp với quy tắc này.
Giải thích
Một lời giải thích của quy tắc Gloger trong trường hợp các loài chim: gia tăng sức đề kháng của lông vũ đối với các vi khuẩn gây rụng lông hoặc mất lông, như Bacillus licheniformit. Lông vũ trong môi trường ẩm ướt có tải lượng vi khuẩn lớn hơn và môi trường ẩm ướt phù hợp hơn cho sự phát triển của vi khuẩn, lông tối hơn thì khó rụng hơn vì sắc tố eumelanins – màu nâu đến đen – gia tăng độ đàn hồi cho lông, làm lông khó rụng. Trong khi đó, ở vùng khô cằn, sắc tố pheomelanins có màu đỏ sẫm đến màu cát giúp sinh vật chiếm ưu thế trong tìm mồi và trốn tránh kẻ thù.
Ở động vật có vú, có xu hướng rõ rệt là ở xích đạo và khu vực nhiệt đới thì có màu da sẫm hơn hơn họ hàng ở vùng cực. Trong trường hợp này, nguyên nhân là có lẽ là để bảo vệ tốt hơn chống lại bức xạ mặt trời có quá nhiều tia cực tím ở nơi vĩ độ thấp. Tuy nhiên hấp thụ một lượng bức xạ tia cực tím là cần thiết cho sự sản xuất một số vitamin, đặc biệt là vitamin D.
Nguyên tắc này cũng thể hiện rõ ràng ở các quần thể người. Quần thể người phát triển trong môi trường nắng nhiều hơn, như ở gần đường xích đạo, thì da có xu hướng sẫm màu hơn các quần thể có nguồn gốc ở xa xích đạo. Có một số trường hợp ngoại lệ, nổi tiếng nhất là người Tây Tạng và Inuit, những người có da sẫm màu hơn mong đợi, dù không hợp lý vì điều kiện vĩ độ của họ. Trong trường hợp đầu tiên, đây rõ ràng là một sự thích nghi với tia cực tím cường độ cao ở Tây Tạng. Ở trường hợp thứ hai, sắc tố là cần thiết để hấp thụ tia cực tím, vốn đã bị giảm đi bởi chế độ ăn tự nhiên giàu vitamin D của người Inuit.
Chú thích
Tài liệu khác
Động vật học
Sinh thái học
|
2926367
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Parastichtis%20nigrescens
|
Parastichtis nigrescens
|
Parastichtis nigrescens là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Parastichtis
|
14202144
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shinzato%20Shohei
|
Shinzato Shohei
|
Shohei Shinzato (sinh ngày 11 tháng 5 năm 1985) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Shohei Shinzato đã từng chơi cho Blaublitz Akita.
Tham khảo
Sinh năm 1988
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Blaublitz Akita
Cầu thủ bóng đá J3 League
Cầu thủ bóng đá Japan Football League
|
19482730
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Felix%20Jaehn
|
Felix Jaehn
|
Felix Kurt Jähn (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1994), hay còn được biết đến với nghệ danh Felix Jaehn, là một DJ và nhà sản xuất thu âm người Đức chuyên về dòng nhạc Tropical.
Tiểu sử
Jaehn sinh ra ở Hamburg và lớn lên ở Schönberg, gần Wismar ở Mecklenburg-Vorpommern, Đức. Anh theo học violin năm 5 tuổi và bắt đầu sự nghiệp DJ của mình năm 16. Jaehn sống ở London khoảng một năm, nơi anh theo học tại trường Cao đẳng Âm nhạc Point Blank năm 17 tuổi. Sau đó anh theo học trường Business Administration tại Humboldt-University ở Berlin.
Sự nghiệp
2013–nay
Tháng 8 năm 2013, anh phát hành đĩa đơn đầu tay "Sommer am Meer". Tháng 11 năm 2014 anh phát hành đĩa đơn "Shine". Tháng 3 năm 2015, anh phát hành đĩa đơn "Dance with Me". Vào tháng 4 năm 2015, anh phát hành bản phối lại của Rufus và Chaka Khan cổ điển "Ain't Nobody" được làm lại từ "Ain't Nobody (Loves Me Better)" với giọng hát của Jasmine Thompson (dựa trên phiên bản xếp hạng trước đó của bài hát của Thompson). Bản phối lại là một bản hit toàn châu Âu và quốc tế, đứng đầu Bảng xếp hạng đĩa đơn của Đức. Anh ấy hiện đã ký hợp đồng với Universal Music. Vào tháng 7 năm 2015, anh phát hành đĩa đơn "Eagle Eyes". Năm 2017, anh hợp tác với Mike Williams để phát hành đĩa đơn "Feel Good" thông qua hãng thu âm Spinnin' Records.
Anh được cho là nổi tiếng nhất với việc phối lại bài hát "Cheerleader" của ca sĩ người Jamaica Omi. Đĩa đơn này là một bản hit quốc tế giúp anh đứng đầu ở các bảng xếp hạng ở Đức, Áo, Bỉ (Flanders và Wallonia), Canada, México, Đan Mạch, Pháp, Ireland, Hà Lan, Slovakia, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Đó cũng là một bài hát ở đám cưới rất phổ biến ở Hoa Kỳ.
Năm 2018, NOTD và Jaehn phát hành đĩa đơn "So Close", với một video âm nhạc có sự tham gia của Camille Kostek - người xuất hiện ở trang bìa Sports Illustrated Swimsuit.
Eff
Năm 2015, Jaehn cho ra mắt Eff, một dự án âm nhạc của bộ đôi gồm ca sĩ người Đức Mark Forster (tên thật là Mark Cwiertnia, sinh ngày 11 tháng 1 năm 1984) với vai trò hát chính và Jaehn là DJ kiêm nhà sản xuất. Hai người gặp nhau trong một sự kiện ở Viên vào năm 2015. Eff liên tưởng đến Felix và Forster. Đĩa đơn đầu tiên và duy nhất của họ mang tên Eff là "Stimme" đã đứng đầu Bảng xếp hạng Đĩa đơn của Đức trong ba tuần liên tiếp, cũng xếp hạng ở Áo và Thụy Sĩ.
Đời sống riêng tư
Jaehn trở thành người lưỡng tính trong một cuộc phỏng vấn cho Die Zeit vào tháng 2 năm 2018. Trong cuộc phỏng vấn, anh ấy nói với Die Zeit "Đôi khi tôi quan tâm đến con gái hơn, đôi khi quan tâm đến con trai hơn".
Danh sách đĩa nhạc
I (2018)
Tham khảo
Liên kết ngoài
DJ
Nhà sản xuất âm nhạc Đức
Sinh năm 1994
Người song tính nam
Nhạc sĩ song tính
Nhân vật còn sống
|
2595830
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spilosoma%20rhodophilodes
|
Spilosoma rhodophilodes
|
Spilosoma rhodophilodes là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Spilosoma
|
2770956
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zamimus%20pendleburyi
|
Zamimus pendleburyi
|
Zamimus pendleburyi là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Zamimus
|
2595434
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spilosoma%20lentifasciata
|
Spilosoma lentifasciata
|
Spilosoma lentifasciata là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Spilosoma
|
9384919
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Takahashi%20Toyoji
|
Takahashi Toyoji
|
Takahashi Toyoji (1913 - 5 tháng 3 năm 1940) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản
Takahashi Toyoji được triệu tập vào đội tuyển Nhật Bản tham dự Thế vận hội Mùa hè 1936.
Tham khảo
Sinh năm 1913
Mất năm 1940
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Tiền đạo bóng đá
Nhân vật liên quan đến bóng đá từ Tokyo
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Nhật Bản
|
2645425
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Psaliodes%20strigosa
|
Psaliodes strigosa
|
Psaliodes strigosa là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Psaliodes
|
15128110
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Izetta%20Sombo%20Wesley
|
Izetta Sombo Wesley
|
Izetta Sombo Wesley là người đứng đầu Hiệp hội bóng đá Liberia, người điều hành bóng đá ở Liberia, bao gồm cả đội bóng đá quốc gia. Wesley là người phụ nữ đầu tiên ở châu Phi đứng đầu một hiệp hội bóng đá khi cô nắm quyền kiểm soát vào tháng 2 năm 2004. Wesley được bầu lại vào tháng 3 năm 2006 trong thời gian 4 năm.
Nguồn
"Phụ nữ có thể giúp cải thiện bóng đá ở châu Phi?" Ngày 4 tháng 3 năm 2004, BBC News
"Hai cú đấm rắn giữ lại Izetta cho đến năm 2010" 20 tháng 3 năm 2006, Người quan sát Liberia
Tham khảo
Nữ vận động viên Liberia
Nhân vật còn sống
|
2770941
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zaira%20sordicolor
|
Zaira sordicolor
|
Zaira sordicolor là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Zaira
|
2651710
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scopula%20hesycha
|
Scopula hesycha
|
Scopula hesycha là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
H
|
19696440
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kangtoap%20Padevat
|
Kangtoap Padevat
|
Kangtoap Padevat (Quân đội Cách mạng) là một tờ tuần báo tiếng Khmer của Campuchia có trụ sở tại Phnôm Pênh được xuất bản vào thập niên 1980. Số đầu tiên xuất hiện vào tháng 12 năm 1979. Kongtoap Padevat là cơ quan ngôn luận của Quân đội Cách mạng Nhân dân Campuchia, lực lượng vũ trang chính quy của Cộng hòa Nhân dân Campuchia trong thời kỳ Việt Nam đóng quân tại Campuchia năm 1979–1989. Hiện tại tờ báo này đã đình bản từ lâu.
Xem thêm
Danh sách báo chí Campuchia
Tham khảo
Báo quân sự
Báo chí Campuchia
Báo chí tiếng Khmer
Cộng hòa Nhân dân Campuchia
Báo chí thành lập năm 1979
Khởi đầu năm 1979 ở Campuchia
|
2905657
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acosmetia%20litorea
|
Acosmetia litorea
|
Acosmetia litorea là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Acosmetia
|
3525015
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Scotland%201965%E2%80%9366
|
Cúp quốc gia Scotland 1965–66
|
Cúp quốc gia Scotland 1965–66 là mùa giải thứ 81 của giải đấu bóng đá loại trực tiếp uy tín nhất Scotland. Chức vô địch thuộc về Rangers khi đánh bại Celtic in the đấu lại Chung kết.
Vòng sơ loại 1
Đấu lại
Vòng sơ loại 2
Đấu lại
Đấu lại lần 2
Vòng Một
Đấu lại
Vòng Hai
Đấu lại
Tứ kết
Đấu lại
Bán kết
Đấu lại
Chung kết
Đội bóng
Đấu lại
Đội bóng
Xem thêm
Bóng đá Scotland 1965–66
Cúp Liên đoàn Scotland 1965–66
Tham khảo
Mùa giải Cúp quốc gia Scotland
Bóng đá Scotland 1965–66
|
3198959
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/First%20Queen
|
First Queen
|
là một game thuộc thể loại nhập vai hành động pha trộn chiến lược thời gian thực được phát triển bởi hãng Kure Software Koubou. Trò chơi lần đầu tiên được phát hành trên các hệ máy tính Sharp X68000 và NEC PC-9801 tại Nhật Bản vào năm 1988, và rồi sau đó phát hành trên Super Famicom với tựa đề First Queen: Ornic Senki vào năm 1994 và Microsoft Windows với tựa đề First Queen 1 vào năm 2001. Game có tới ba phần tiếp theo. Sê-ri còn mang tính nổi bật bởi họa phẩm đặc trưng của Amano Yoshitaka, mà sau này trở nên nổi tiếng với dòng game Final Fantasy.
Lối chơi
First Queen là một tựa game độc đáo pha trộn giữa thể loại nhập vai hành động, chiến lược thời gian thực và nhập vai chiến thuật. Giống như một game nhập vai, người chơi có thể khám phá thế giới, mua bán vật phẩm và lên level, và mang hơi hướng của một game chiến lược khi tập trung vào việc chiêu mộ binh lính và chiến đấu chống lại các đạo quân lớn của đối phương, nơi mà người chơi điều khiển một đội quân lớn hơn một nhóm nhỏ. Game còn giới thiệu hệ thống "Gochyakyara" (ゴチャキャラ "Multiple Characters") giúp người chơi điều khiển một nhân vật tại một thời điểm trong khi số khác được điều khiển bởi AI của máy tính tuân theo sự chỉ huy, sự tham gia của các nhân vật và quân thù vào những trận chiến có quy mô lớn đôi khi tràn ngập toàn bộ màn hình. Kure Software Koubou còn dùng hệ thống "Gochyakyara" này đưa vào các tựa game sau của họ.
Những sinh vật giả tưởng cao độ được điều khiển y như các nhân vật về sau của Warcraft II: Tides of Darkness. Mục tiêu là nhằm đánh bại tất cả các lực lượng đối phương và chiếm làng của họ. Người chơi lựa chọn nơi để bắt đầu cuộc chiến. Nếu người chơi giành chiến thắng thì được di chuyển sang chiến trường tiếp theo và thua cuộc đồng nghĩa với game over. Tuy nhiên, không giống như Warcraft II, các công trình hay làng mạc mới không được xây dựng, khiến cho nó trông giống như một trò wargame hơn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
(Translation)
Trò chơi máy tính năm 1988
Trò chơi điện tử năm 1994
Trò chơi NEC PC-9801
Trò chơi Sharp X68000
Trò chơi Super Nintendo Entertainment System
Trò chơi trên Windows
Trò chơi điện tử được phát triển ở Nhật Bản
Trò chơi điện tử phát triển ở Nhật Bản
|
2915977
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ericeia%20fuscipuncta
|
Ericeia fuscipuncta
|
Ericeia fuscipuncta là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ericeia
|
2940641
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trichoptya%20terminata
|
Trichoptya terminata
|
Trichoptya terminata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Trichoptya
|
19333631
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%83m%20ti%E1%BA%BFp%20x%C3%BAc
|
Điểm tiếp xúc
|
Điểm tiếp xúc, hay còn gọi là điểm chạm (Tiếng Anh: Touchpoint) là điểm tương tác gián tiếp hoặc trực tiếp của khách hàng với doanh nghiệp mà mục tiêu là chuyển những đối tượng đang nhắm đến trở thành khách hàng trung thành, mang lại những trải nghiệm tích cực (theo McKinsey & Company)
Cụ thể hơn, điểm tiếp xúc là một thông điệp hoặc là cách mà doanh nghiệp dùng để tiếp cận với thị trường mục tiêu của họ, để khách hàng có cơ hội nhìn thấy, nhận biết thương hiệu, sản phẩm hay dịch vụ của mình một cách dễ dàng.
Điểm tiếp xúc tồn tại dưới dạng hữu hình như poster, pano,… và vô hình như âm thanh, video,… để thu hút sự chú ý của khách hàng vào thương hiệu. Trong truyền thông tiếp thị (IMC), điểm tiếp xúc là một nhân tố hết sức quan trọng, nó có ảnh hưởng xuyên suốt quá trình mua (Customer Journey Mapping) của khách hàng từ hành vi trước khi mua và cả sau khi mua.
Vai trò của điểm tiếp xúc trong marketing
Tạo trải nghiệm xuyên suốt và nhiều cảm xúc cho khách hàng nhằm thuyết phục khách hàng mua hàng.
Xây dựng một hệ thống những điểm tiếp xúc hoàn chỉnh và chính xác bằng sơ đồ hay danh sách là hết sức quan trọng đối với các nhà hoạch định chiến lược thương hiệu và tiếp thị truyền thông, từ đó lập ra những kế hoạch chi tiết hơn nhằm giúp khách hàng có được những trải nghiệm thương hiệu ấn tượng và giảm thiểu lãng phí khi đầu tư cho số lượng điểm tiếp xúc mà khách hàng không có cơ hội tiếp xúc và tương tác.
Thiết lập một hệ thống các điểm tiếp xúc khác biệt sẽ khiến khách hàng ấn tượng với doanh nghiệp tạo sự gắn kết và trung thành.
Các loại điểm tiếp xúc
Trong hành trình khách hàng từ trước khi mua hàng đến sau khi mua hàng trải qua các giai đoạn khác nhau, trong đó giao tiếp giữa khách hàng và doanh nghiệp hay thương hiệu xảy ra liên tục thông qua các điểm tiếp xúc. Các loại điểm tiếp xúc xuất phát từ các nguồn khác nhau, từ điểm tiếp xúc do doanh nghiệp tạo ra, điểm tiếp xúc nội tại, điểm tiếp xúc ngoài mong đợi đến điểm tiếp xúc do khách hàng tạo ra.
Điểm tiếp xúc do doanh nghiệp tạo ra
Điểm tiếp xúc do doanh nghiệp tạo ra là điểm tiếp xúc được tạo ra và kiểm soát bởi chính doanh nghiệp.
Các điểm tiếp xúc này là những phương thức truyền thông đã được lên kế hoạch trước để truyền đạt một thông điệp cụ thể nào đó của doanh nghiệp thông qua các kênh như quảng cáo biểu ngữ in ấn, quảng cáo trực tuyến, những standee hoặc màn hình LCD được trưng bày ở các cửa hàng,...
Các điểm tiếp xúc do doanh nghiệp tạo ra thường hoạt động theo cách khá truyền thống, hiển thị rõ ràng thông điệp mà doanh nghiệp muốn truyền đạt, được doanh nghiệp sử dụng để quảng cáo sản phẩm, dịch vụ trực tiếp cho khách hàng.
Việc tạo ra và sử dụng những điểm tiếp xúc này đều nằm trong kế hoạch chủ động của doanh nghiệp và liên tục được cập nhật, điều chỉnh với những thông điệp khác nhau.
Một ví dụ về điểm tiếp xúc do doanh nghiệp tạo ra là thương hiệu Milo (đồ uống) của Nestlé thường cập nhật và quảng cáo thông điệp của mình qua các kênh truyền thông Phim quảng cáo (TVCm), billboard hay pano,... gần đây nhất là chiến dịch "Năng động Việt Nam".
Điểm tiếp xúc nội tại
Điểm tiếp xúc nội tại cũng là điểm tiếp xúc được tạo ra từ phía doanh nghiệp và được sử dụng khi khách hàng đang trong cửa hàng hay đang trong hành động mua sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp.
Các điểm tiếp xúc nội tại thường thiên hướng về những cảm nghĩ chân thực của một người, thường là qua cảm nhận thực tế mà khách hàng thấy được khi mua hàng. Các thông điệp của doanh nghiệp có thể được truyền tải, chia sẻ giữa người quản lý dịch vụ khách hàng hoặc nhân viên và khách hàng.
Điểm tiếp xúc nội tại rất quan trọng trong việc truyền tải thông điệp và phương thức hoạt động của doanh nghiệp hay thương hiệu, dù là ở các cửa hàng gia đình hay ở các cửa hàng lớn, các doanh nghiệp đa quốc gia.
Một ví dụ về điểm tiếp xúc nội tại là khi khách hàng đang tìm kiếm hoặc trong hành động mua sản phẩm ở cửa hàng như Điện máy XANH hay Thegioididong.com sẽ được các nhân viên tư vấn, giới thiệu, hướng dẫn cách sử dụng những sản phẩm,... trong suốt quá trình mua hàng.
Điểm tiếp xúc ngoài mong đợi
Những điểm tiếp xúc này doanh nghiệp không thể tạo ra hay kiểm soát vì đây là kết quả của những trải nghiệm có thực và do nhân viên hoặc các nhân tố khác quyết định.
Các điểm tiếp xúc ngoài mong đợi nằm ngoài sự kiểm soát của các doanh nghiệp và thương hiệu nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các điểm tiếp xúc này là sự giao tiếp từ các bên liên quan bên ngoài và ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng.
Các điểm tiếp xúc ngoài mong đợi phụ thuộc vào các hành động và quyết định của các khách hàng đã từng mua hàng đến kinh nghiệm trước, trong và sau khi mua hàng của họ.
Không chỉ khách hàng mà các nhân viên cũng tạo ra các điểm tiếp xúc ngoài mong đợi khi họ kể về cách ứng xử của các nhân viên trong một doanh nghiệp, mức lương, hoặc các việc khác xảy ra trong doanh nghiệp với gia đình và bạn bè của họ. Tất cả những điểm tiếp xúc này mang đến các kết quả bất ngờ cho doanh nghiệp hay thương hiệu, dù là tích cực hay tiêu cực, đều có khả năng ảnh hưởng đến uy tín và danh tiếng của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp hay thương hiệu đó.
Một ví dụ về điểm tiếp xúc ngoài mong đợi là khi một nhân viên giới thiệu với bạn bè về những giá trị họ thấy được qua quá trình làm việc tại doanh nghiệp A, hay những ứng viên chia sẻ về trải nghiệm phỏng vấn với doanh nghiệp B trên trang Facebook cá nhân của mình… hay một nhân tố độc lập bên ngoài doanh nghiệp chia sẻ quan điểm, đánh giá của họ về doanh nghiệp.
Điểm tiếp xúc do khách hàng tạo ra
Khá giống với các điểm tiếp xúc ngoài mong đợi, các điểm tiếp xúc do khách hàng tạo ra là sự giao tiếp trực tiếp giữa khách hàng và doanh nghiệp hay thương hiệu nhưng không diễn ra hành động mua.
Không giống với các loại điểm tiếp xúc khác, các điểm tiếp xúc do khách hàng tạo ra chỉ được tạo ra bởi khách hàng để truyền đạt lại những kinh nghiệm họ nhận được từ doanh nghiệp trực tiếp trở lại cho doanh nghiệp.
Những điểm tiếp xúc do khách hàng tạo ra đặc biệt khó kiểm soát trực tiếp nhưng vẫn có thể được quản lý một cách hiệu quả và có thể truyền đạt một thông điệp tích cực cho khách hàng thông qua các hành động như bàn trợ giúp hoặc các hướng dẫn. Những điểm tiếp xúc này, được tạo bởi khách hàng và truyền đạt trực tiếp đến các doanh nghiệp, là những cách hiệu quả để doanh nghiệp giữ liên lạc với khách hàng kể cả khi họ đã kết thúc việc mua hàng, giúp doanh nghiệp phát triển thương hiệu và xây dựng cơ sở khách hàng.
Một ví dụ về điểm tiếp xúc do khách hàng tạo ra là khách hàng phản hồi với doanh nghiệp về thái độ nhân viên không tốt hay khách hàng phản hồi sự hài lòng của mình đối với sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp.
Điểm tiếp xúc trong hành hình khách hàng (Customer Journey)
Quá trình ra quyết định của khách hàng chịu ảnh hưởng rất lớn từ các điểm tiếp xúc thương hiệu. Bằng việc tưởng tượng doanh nghiệp trong vai trò một khách hàng, doanh nghiệp sẽ làm gì, nói gì, nghĩ gì khi bắt đầu tiếp xúc với một thương hiệu, ghi nhận lại tất cả những hành động, lời nói, thái độ, xác định các điểm tiếp xúc thương hiệu và kết thúc quá trình tưởng tượng này, doanh nghiệp kết nối các dữ liệu, thay đổi, thêm hoặc bớt các điểm tiếp xúc đó. Dưới đây là mô tả về đặc điểm của khách hàng gắn với những điểm tiếp xúc trong ba giai đoạn là trước khi mua hàng, trong khi mua hàng và sau khi mua hàng.
Trước khi mua hàng
Đây là giai đoạn khách hàng nhận ra được nhu cầu của mình, lần đầu tiên tiếp xúc với thương hiệu và tích cực tìm kiếm thông tin về thương hiệu. Sau khi tìm hiểu, họ bắt đầu cân nhắc, so sánh các thương hiệu với nhau thông qua các điểm tiếp xúc như quảng cáo, mạng xã hội, website doanh nghiệp, người thân, bạn bè (word of mouth).... Vì vậy trong giai đoạn này doanh nghiệp cần nỗ lực trong việc tạo ra được đa dạng các điểm tiếp xúc nhằm đem đến cho khách hàng sự liền mạch trong hành trình trải nghiệm cũng như tạo được nội dung thu hút, thông điệp ngắn gọn, dễ hiểu và đảm bảo cho việc kiểm soát các điểm tiếp xúc.
Trong khi mua hàng
Ở giai đoạn này, khách hàng đã quyết định mua sản phẩm hoặc dịch vụ của một thương hiệu thông qua việc tìm kiếm thông tin và so sánh ở trên nhưng quá trình ra quyết định của khách hàng vẫn chưa hoàn tất. Vai trò của các điểm tiếp xúc trong giai đoạn này cũng không kém phần quan trọng, nó ảnh hưởng đến quyết định mua hay không mua của khách hàng.
Điểm tiếp xúc trong giai đoạn này bao gồm: vị trí cửa hàng, các yếu tố kích thích đến các giác quan của khách hàng trong không gian cửa hàng (cách bày trí, hương thơm, âm nhạc...), yếu tố về con người (nhân viên bảo vệ, nhân viên bán hàng, admin...), yếu tố về sản phẩm (bao bì,...) và những yếu tố khác tùy theo mỗi ngành hàng khác nhau. Dưới đây là một số điểm tiếp xúc cho giai đoạn trong khi mua hàng
Xác định vị trí khách hàng đang tìm kiếm một cách dễ dàng để có thể tiếp xúc với một thương hiệu, sản phẩm hoặc dịch vụ trước khi khách hàng tiếp xúc với một thương hiệu khác.
Không gian cửa hàng: Tạo cho khách hàng sự thoải mái, dễ chịu khi bước chân vào cửa hàng qua việc bày trí cửa hàng, mùi hương thơm nhẹ, không gian tươi xanh,...
Bao bì: Bao bì của một sản phẩm hoặc cách thương hiệu truyền tải hình ảnh phải đại diện cho một thương hiệu và sản phẩm hoặc dịch vụ của nó. Tương tự như vị trí, bao bì cần thu hút sự chú ý của người tiêu dùng theo cách sẽ khuyến khích họ mua thương hiệu đó hơn một thương hiệu khác.
Nhân viên: Cần đào tạo nhân viên về những kiến thức về sản phẩm và các kỹ năng giao tiếp với khách hàng, từ đó nâng cao niềm tin của khách hàng đối với doanh nghiệp.
Sau khi mua hàng
Đây là giai đoạn doanh nghiệp cần biết cách giữ chân khách hàng và tạo cho khách hàng sự hài lòng nhất có thể, điều này không chỉ khiến doanh nghiệp có được tệp khách hàng trung thành mà những khách hàng này sẽ là những “đại sứ thương hiệu” đầy tiềm năng cho doanh nghiệp. Họ sẽ là những người chia sẻ về thương hiệu của doanh nghiệp cho người thân, bạn bè, thậm chí họ còn là những người bảo vệ cho thương hiệu khi có bất cứ chuyện gì xảy ra. Và điều đặc biệt là chính họ sẽ là những “nhà tiếp thị tiềm năng” tạo ra lòng tin và thu hút những khách hàng mới bởi vốn dĩ khách hàng sẽ tin tưởng hơn khi nhận chia sẻ từ những “nhà tiếp thị tiềm năng” này. Dưới đây là một số điểm tiếp xúc cho giai đoạn sau khi mua hàng
Hiệu suất của sản phẩm/dịch vụ: Chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ của thương hiệu sau khi mua phản ánh hình ảnh thương hiệu và có thể xác định liệu khách hàng có quay lại mua hàng từ thương hiệu đó hay không. Điều quan trọng là trở lại với giai đoạn mua trước khi khách hàng sẽ chia sẻ phản hồi của họ với người khác, tích cực hoặc tiêu cực.
Các chương trình khách hàng thân thiết mang đến cho khách hàng một động lực để mua thêm sản phẩm của một thương hiệu nếu họ biết rằng họ sẽ được thưởng.
Khảo sát sự hài lòng của khách hàng thông qua các cuộc khảo sát điện thoại, thư điện tử hay trực tuyến và đánh giá, xếp hạng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Từ đó cung cấp thông tin phản hồi về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và ý định trở lại của khách hàng.
Bảo hành sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau khi mua hàng đảm bảo khách hàng hài lòng với sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sau khi mua hàng.
Các quy trình thanh toán.
Cách sử dụng điểm tiếp xúc hiệu quả
Có 4 bước để doanh nghiệp hay thương hiệu triển khai thực hiện các điểm tiếp xúc một cách hiệu quả từ đó đạt được kết quả thành công trong thị trường.
Bước 1: Xác định những khách hàng quan trọng nhất.
Bước 2: Tập trung đầu tư vào các điểm tiếp xúc khách hàng đem lại lợi nhuận nhiều nhất.
Bước 3: Đặt các mục tiêu thực tế để thực hiện.
Bước 4: Thường xuyên theo dõi và xem lại diễn biến hoạt động và hiệu suất của các điểm tiếp xúc.
Ngoài ra, doanh nghiệp nên xác định và cải thiện các điểm tiếp xúc hiện có, đầu tư cho các điểm tiếp xúc kỹ thuật số, học hỏi từ các doanh nghiệp lớn thành công để có thể thu hút và mang lại cho khách hàng những trải nghiệm khách hàng tốt nhất từ đó chinh phục khách hàng thông qua các điểm tiếp xúc một cách tốt hơn.
Trong một thị trường thay đổi và phát triển nhanh chóng, các nhà Marketing phải đối mặt với thách thức trong việc lựa chọn điểm tiếp xúc và những kênh truyền thông để đầu tư. Lựa chọn đúng điểm tiếp xúc và kênh truyền thông để đầu tư giúp doanh nghiệp đạt hiệu quả trong việc chinh phục khách hàng, thu được lợi nhuận nhiều hơn. Ngược lại, đầu tư sai điểm tiếp xúc và kênh truyền thông khiến doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn hơn nhưng có thể không thu hút được nhiều khách hàng.
Doanh nghiệp cần tập trung trực tiếp vào các điểm tiếp xúc để triển khai chúng tốt hơn, thường xuyên kiểm tra và đo lường hiệu quả của các điểm tiếp xúc, qua đó giúp doanh nghiệp có thể tập trung rõ ràng vào những mục tiêu mà doanh nghiệp đang cố gắng đạt được.
Làm cho các điểm tiếp xúc kết nối với nhau để cùng tạo ra trải nghiệm tốt về doanh nghiệp và thương hiệu, chứ không phải chỉ là sự ghép nối những phần riêng lẻ, giúp doanh nghiệp và thương hiệu có thể chinh phục khách hàng tốt hơn, hiệu quả hơn thông qua hệ thống các điểm tiếp xúc. Một chuỗi các ấn tượng được trải nghiệm thông qua các điểm tiếp xúc về giá trị doanh nghiệp và thương hiệu được lặp lại trên hành trình khách hàng sẽ giúp cải thiện và tạo dựng nhận thức về doanh nghiệp và thương hiệu.
Bảy điểm tiếp xúc chính
Yếu tố không gian
Yếu tố không gian nói về khía cạnh vật lý và kỹ thuật mà người dùng tiếp cận, nó bao gồm sự tiện nghi của cửa hàng, màu sắc, âm thanh, mùi hương, giao diện… kích thích đến các giác quan và để lại sự ấn tượng.
Khi bước vào các cửa hàng tiện lợi như Family Mart hay Circle K, điều đầu tiên bạn có thể nhận thấy là các mặt hàng được sắp xếp ngăn nắp và khá bắt mắt so với các tạp hóa truyền thống khác. Điều này giúp khách hàng nhanh chóng lựa chọn và dễ dàng tìm kiếm sản phẩm mình đang cần.
Apple tạo ra được ấn tượng mạnh mẽ đối với khách hàng khi họ luôn thiết kế những khu trưng bày như là một phòng khám đặc biệt luôn có sự giúp đỡ của nhân viên . Chính điều này đã khiến cho khách hàng của Apple thấy rõ được sự khác biệt và ngày càng bị thu hút vào không gian của doanh nghiệp
Yếu tố công nghệ
Ứng dụng điện thoại, website hiện nay là các công cụ giúp cho doanh nghiệp có thể tương tác và kết nối đến khách hàng nhanh nhất. Đặc biệt, những ứng dụng điện thoại cho sản phẩm và dịch vụ là một phần không thể thiếu để có thể nhanh chóng thu hút và tăng thêm tính trải nghiệm cho khách hàng.
Điểm tiếp xúc về công nghệ cần được thiết kế với giao diện dễ sử dụng, không làm cho khách hàng cảm thấy rối mắt. Hơn nữa, màu sắc cũng như cách thiết kế giao diện trang web hay ứng dụng cần phải được chỉn chu và khoa học để tạo được ấn tượng tốt hơn cho khách hàng.
Yếu tố truyền thông
Yếu tố truyền thông được thể hiện qua các thông điệp mang tính xúc tiến, thông tin tham khảo hoặc có thể là một mục quảng cáo nào đó. Điểm tiếp xúc này thường xuất hiện ở các hình thức như email, tờ rơi, quảng cáo trên truyền hình, quảng cáo trên mạng xã hội, tin nhắn điện thoại … Yếu tố này thể hiện nhiều nhất qua các kênh truyền thông dưới sự kiểm soát của doanh nghiệp.
Khi sử dụng email để truyền thông điệp đến khách hàng mục tiêu, điều mà doanh nghiệp cần chú ý là nội sung của email phải ngắn gọn, xúc tích. Tuy nhiên, cần diễn đạt câu từ để người nhận cảm thấy được xem trọng hơn, không bị tổn thương vì khi sử dụng email, chúng ta đã bỏ qua giai đoạn giải thích ý nghĩa của từ ngữ cũng như biểu cảm như khi giao tiếp trực tiếp, dễ bị người khác hiểu lầm nếu như câu chữ cục mịch.
Thông thường ta có thể bắt gặp hai hình thức phổ biến là điểm tiếp xúc thương hiệu và điểm tiếp xúc phi thương hiệu. Điểm tiếp xúc thương hiệu liên quan đến các ngành dựa vào dịch vụ thông qua các cuộc gọi điện, nhân viên liên hệ. Các cửa hàng bán lẻ, siêu thị thì điểm tiếp xúc thường xuất hiện ở các bảng hiệu, tương tác với nhân viên, không gian bày trí sản phẩm. Các điểm tiếp xúc này thường được tạo ra bởi chính doanh nghiệp đó. Truyền thông phi thương hiệu đề cập đến những điểm tiếp xúc có nguồn gốc từ sự tương tác giữa khách hàng và thương hiệu thông qua các blog, website, video, truyền hình,...
Yếu tố quy trình
Yếu tố quy trình nói về các điểm tiếp xúc trong hành trình để khách hàng có được sản phẩm như: thời gian chờ đợi, điều hướng và quy trình dịch vụ. Thời gian chờ đợi có thể là khi bạn đang xếp hàng mua bánh mì, chờ đợi người giao hàng tới. Điều hướng và quy trình dịch vụ hướng đến mục đích muốn khách hàng có thể đi xung quanh cửa hàng trong lúc chờ đợi hoặc cách mà doanh nghiệp có thể xử lý nếu hàng hóa có sự cố như khách hàng muốn đổi trả hàng hoặc thậm chí là không muốn lấy chúng.
Khoảng thời gian từ khi khách hàng phát hiện được sản phẩm đến khi quyết định mua nó sẽ xuất hiện nhiều điểm tiếp xúc như thấy quảng cáo, truy cập vào website xem sản phẩm, trao đổi trên các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram, …
Doanh nghiệp thường sẽ tập trung chủ yếu vào các phương tiện truyền thông xã hội để lắng nghe và tương tác với mục đích muốn khách hàng luôn đồng hành với thương hiệu. Sử dụng GPS sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được những khách hàng gần đó và cũng giúp cho người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn nơi mua sắm gần nhất.
Tương tác giữa nhân viên và khách hàng
Một trong những yếu tố quan trọng để đưa khách hàng nhanh chóng đi đến quyết định mua và quay lại sử dụng dịch vụ (sản phẩm) của doanh nghiệp đó chính là sự tương tác giữa khách hàng và nhân viên. Nhân viên có thời gian để tìm hiểu và trao đổi với khách hàng của mình, từ đó nắm bắt được những gì quan trọng và cần thiết đối với họ. Điều quan trọng là phải làm cho khách hàng tin tưởng và cảm thấy mình là một phần của thương hiệu này.
Starbucks đã rất thành công trọng việc tạo ra sự tương tác giữa khách hàng và nhân viên rất tốt. Khách hàng được chào hỏi và phục vụ nhiệt tình từ nhân viên, tên của khách hàng được viết lên cốc và được gọi tên khi phục vụ. Nhân viên được đào tạo các kỹ năng để giao tiếp với khách hàng tốt hơn, họ có thẻ nhớ đồ uống cũng như khẩu vị riêng của từng khách hàng.
Thông qua con đường tương tác trên các phương tiện truyền thông xã hội, tìm kiếm trên website và ứng dụng di động, người tiêu dùng đang để lại nhiều thông tin trên các điểm tiếp xúc, chẳng hạn như khi họ tìm kiếm thông tin hoặc truy cập một điểm đến cụ thể. Điều này thể hiện các cơ hội sau đây cho nhân viên: đầu tiên họ sẽ biết những gì người tiêu dùng sẽ tìm kiếm và là người đầu tiên cung cấp nó cho họ. Thứ hai là cơ hội để tăng tầm quan trọng của thương hiệu bằng cách làm khách hàng hài lòng hơn khi sử dụng sản phẩm (dịch vụ) của doanh nghiệp. Bằng cách cho phép khách hàng tương tác với trải nghiệm kinh doanh thông qua mạng xã hội, họ cho phép khách hàng chia sẻ ý tưởng, câu hỏi và đề xuất. Nhân viên có khả năng tạo ra các tương tác tích cực cho khách hàng, khả năng đáp ứng nhanh chóng và phù hợp với trải nghiệm khách hàng.
Trong quá trình tương tác giữa nhân viên và khách hàng, bảy điểm tiếp xúc thường xuyên được áp dụng như điện thoại, email, thư thoại, thư, fax, gặp mặt và nhắn tin tức thì sẽ làm tăng hiệu quả hơn và giúp khách hàng cảm nhận được tầm quan trọng của mình đối với doanh nghiệp.
Tương tác với người dùng trước
Yếu tố lớn ảnh hưởng đến khách hàng khi họ có thể bị tác động bởi những sản phẩm thay thế khác, đó là: “đánh giá của người tiêu dùng khác”. Thường thì khách hàng sẽ tìm kiếm thông tin từ kinh nghiệm của những người mua trước, có thể là gia đình, bạn bè, trao đổi trên các kênh trực tuyến, mạng xã hội.
Doanh nghiệp cần làm cho khách hàng thỏa mãn để họ có thể nhớ về và từ đó họ sẽ trở thành công cụ quảng cáo tuyệt vời cho thương hiệu. Yếu tố quan trọng là lòng tin của khách hàng, bởi vì khi một người mang sản phẩn (dịch vụ) để giới thiệu cho người khác tức là họ mang cả uy tín các nhân ra để đảm bảo, bởi vậy mà việc tạo niềm tin cho khách hàng rất quan trọng.
Tương tác với sản phẩm
Tương tác sản phẩm bao gồm: chất lượng của sản phẩm, các loại sản phẩm, tương tác trực tiếp và gián tiếp với sản phẩm. Khách hàng tiếp xúc với sản phẩm sẽ cho ra cảm nhận khác nhau và doanh nghiệp thường rất ít khi có thể nắm bắt được cảm xúc của khách hàng khi dùng sản phẩm. Những yếu tố về bao bì, hình dáng, kích thước sản phẩm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến trải nghiệm của người tiêu dùng thực sự có tốt hay không.
Điểm tiếp xúc kỹ thuật số (Digital Touchpoints)
Sự chuyển đổi của khách hàng
Điểm tiếp xúc sẽ ngày càng lớn mạnh và nhanh chóng bao phủ khách hàng hơn nếu như kênh kỹ thuật số được nhân lên. Khách hàng ở thời đại kỹ thuật số có những hành vi khác biệt so với khách hàng truyền thống, họ quan tâm và trao đổi nhiều hơn trên mạng xã hội, các kênh trực tuyến. Vì vậy, để điểm tiếp xúc đến nhanh hơn với đối tượng mục tiêu, các kênh kỹ thuật số cần phải được đẩy mạnh.
Khoảng 60 đến 70% Millennials và Gen Z sử dụng các hoạt động hỗ trợ bằng giọng nói như Siri và Alexa (nhiều hơn 1,7 lần so với những khách hàng truyền thống.Mặt khác, khách hàng có xu hướng cá nhân hóa các điểm tiếp xúc, ngay cả khi họ chưa tương tác với một công ty, họ vẫn mong muốn được doanh nghiệp biết đến. Theo nghiên cứu, khách hàng có mong muốn xem các đề xuất được cá nhân hóa gấp 2,1 lần so với việc không được doanh nghiệp xem trọng (khách hàng không có những đề xuất được cá nhân hóa)
Khi mua hàng, các kênh thương mại điện tử, ứng dụng điện thoại trở thành công cụ đắc lực vì sẽ giúp khách hàng tìm kiếm và tham khảo sản phẩm nhanh hơn.
Quảng cáo cá nhân hóa là công cụ được sử dụng phổ biến nhất hiện nay, điển hình là Facebook đã thực hiện khá thành công trong việc tiếp cận đến nhu cầu riêng của từng người dùng. Có nhiều hình thức cho việc cá nhân hóa mục tiêu: theo nhân khẩu học và tâm lý, cá nhân hóa theo chân dung khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp.
Làm thế nào để cải thiện điểm tiếp xúc kỹ thuật số
Xác định từng điểm tiếp xúc và đánh giá sự tương tác các vị trí
Cần tìm các điểm tiếp xúc trong quá trình phân tích trang web và kết quả tìm kiếm cho doanh nghiệp. Điều gì xuất hiện trong phần trích dẫn khi khách hàng tiềm năng tìm kiếm tên thương hiệu hoặc từ khóa của doanh nghiệp? Những bài đăng nào trên trang web của doanh nghiệp là phổ biến nhất?
Cải thiện tương tác
Doanh nghiệp muốn trang đích của mình có tỷ lệ chuyển đổi cao, doanh nghiệp biết điều gì đó không hoạt động tốt trên trang đích của mình, từ đó xem xét để chuyển đổi. Một điều lưu ý ở đây là hãy suy nghĩ về những gì có thể đang hoạt động không tốt đối với website.
Thực hiện những cải tiến
Chỉnh sửa trang đích bằng một ý tưởng nào đó, ví dụ: thay đổi từ ngữ trên nút CTA, thay đổi về màu sắc...
Đo lường hiệu quả
Sau một vài tuần đo lường hiệu quả nhận được dựa theo mục tiêu đã thiết lập.
Đánh giá kết quả
Nếu mọi thứ không theo như ý doanh nghiệp muốn hãy thử dùng những ý tưởng khác để cải tiến và tiếp tục đo lường và đánh giá.
Những ví dụ về điểm tiếp xúc kỹ thuật số
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tương tác đầu tiên rất có thể sẽ là điểm tiếp xúc kỹ thuật số. Dưới đây là một số ví dụ về những cơ hội có thể tạo nên ấn tượng đầu tiên và lâu dài cực kỳ quan trọng
Điểm tiếp xúc công cụ tìm kiếm
Đây là điểm tiếp xúc thông qua các công cụ tìm kiếm như Google, Bing, Yahoo, Baidu,…
Mỗi trang web của doanh nghiệp cũng có thể trở thành kết quả tìm kiếm cho một cụm từ khóa quan trọng. Điều này khiến doanh nghiệp cần phải suy nghĩ nhiều hơn về thông điệp sẽ được hiển thị khi xuất hiện trên các công cụ tìm kiếm.
Nếu doanh nghiệp muốn tạo cho mọi người một ấn tượng tốt về bản thân thì nên làm tốt ở điểm tiếp xúc này vì đây có thể là ấn tượng đầu tiên mà mọi người sẽ có về doanh nghiệp.
Gồm hai loại là tối ưu hóa trang web (miễn phí) và chiến dịch Pay Per Click.
Đối với tối ưu hóa trang web doanh nghiệp không phải trả tiền, chỉ cần tìm đúng các phương pháp để tối ưu hóa các trang web của mình nhằm nâng cao thứ hạng trên các công cụ tìm kiếm.
Ví dụ: Google là công cụ tìm kiếm sử dụng các tiêu đề và mô tả để tạo ra một danh sách trong kết quả tìm kiếm của họ. Google cũng có thể sử dụng các đoạn trích ngắn để truyền đạt thông tin liên quan hơn nhiều đến các kết quả tìm kiếm. Các trang kết quả của công cụ tìm kiếm sẽ liệt kê mười kết quả không phải trả tiền, mỗi trang trong đó các doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của họ đều nằm trên cùng một cột.
Pay Per Click là cách hiển thị thông điệp quảng cáo trên phần liên kết được tài trợ, được trả phí để quảng cáo, trong trang kết quả của các công cụ tìm kiếm khi người dùng tìm kiếm những từ khóa có liên quan. Tuy có trả phí để quảng cáo nhưng doanh nghiệp cũng cần tối ưu hóa trang web để có thể thu hút và giữ chân khách hàng.
Ví dụ: Ở trang tìm kiếm đầu tiên của Google thường sẽ hiển thị tối đa ba trang web được chi trả để quảng cáo hay còn gọi là được tài trợ nằm ở vị trí đầu tiên
Điểm tiếp xúc trang đích
Trang đích là thứ mà các công cụ tìm kiếm hướng đến người dùng. Nếu các trang kết quả của công cụ tìm kiếm là ấn tượng đầu tiên của người dùng về doanh nghiệp thì các trang đích có thể được hiểu như là “lần tiếp xúc đầu tiên”. Trang mà người dùng được dẫn đến dựa trên nhu cầu tìm kiếm không chỉ liên quan đến từ khóa tìm kiếm đã dẫn họ đến đó mà còn phải truyền đạt được tính chất và tính cách của doanh nghiệp.
Có 3 chìa khóa để làm “lần tiếp xúc đầu tiên” này thành công, khiến cho người dùng dừng lại, dành thời gian xem những gì mà doanh nghiệp bày ra trên các trang đích của mình đó là liên kết với các thuật ngữ tìm kiếm, truyền đạt thông tin thực sự hữu ích và truyền đạt cách mà doanh nghiệp dự định để làm tăng một trải nghiệm tích cực cho họ.
Điểm tiếp xúc trang chủ
Tuy trang đích là “lần tiếp xúc đầu tiên” giữa người dùng và doanh nghiệp nhưng trang chủ mới là trang cửa vào cho một tỷ lệ lớn khách truy cập, cả từ các công cụ tìm kiếm và lượng truy cập trực tiếp và đây cũng là một điểm tiếp xúc quan trọng để lôi kéo khách hàng tìm hiểu về sản phẩm của doanh nghiệp và mua hàng.
Trang chủ đại diện cho một cơ hội lớn để nhận diện doanh nghiệp, nhưng nó cũng là một thách thức lớn khi doanh nghiệp phải liên kết một tập hợp đa dạng khách truy cập. Do đó, chìa khóa cho một trang chủ thành công là sự rõ ràng. Doanh nghiệp nên cho khách truy cập biết được trang này nói về cái gì, khách truy cập có thể tìm thấy thông tin họ cần ở đâu và tại sao khách truy cập nên chọn doanh nghiệp.
Điểm tiếp xúc truyền thông xã hội
Các kênh truyền thông xã hội cần phải thể hiện chính xác hình ảnh thương hiệu mà doanh nghiệp muốn xây dựng bởi vì đây có thể là nơi đầu tiên khách hàng biết đến doanh nghiệp.
Điểm tiếp xúc quảng cáo hiển thị
Quảng cáo hiển thị là quảng cáo cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp được hiển thị ở các trang web khác, các điểm tiếp xúc này thường hiệu quả trong những chiến dịch đeo bám quảng cáo, khi các sản phẩm mà khách hàng đã xem trước đây trên trang web của một doanh nghiệp được quảng cáo trên các trang web khác nhờ vào cookie.
Điểm tiếp xúc blog
Blog có thể được viết để cung cấp thông tin, hoặc để nhắm đến đối tượng mục tiêu của thương hiệu. Chúng có thể đặc biệt hữu ích nếu được chia sẻ với phương tiện truyền thông mạng xã hội để khiến người xem truy cập trang web của một thương hiệu.
Điểm tiếp xúc ứng dụng di động
Ứng dụng di động cho phép người dùng tải chúng xuống điện thoại và truy cập trực tiếp vào catalog sản phẩm và sử dụng các tính năng khác hay đánh giá chất lượng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp.
Điểm tiếp xúc email
Điểm tiếp xúc này có thể được sử dụng để gửi tin nhắn quảng cáo, thông báo trực tiếp đến hộp thư đến trong email của người dùng nếu doanh nghiệp có địa chỉ email của họ.
Cách để cải thiện điểm tiếp xúc
Xác định từng điểm tiếp xúc và đánh giá sự tương tác các vị trí
Cần tìm các điểm tiếp xúc trong quá trình phân tích trang web và kết quả tìm kiếm cho doanh nghiệp. Điều gì xuất hiện trong phần trích dẫn khi khách hàng tiềm năng tìm kiếm tên thương hiệu hoặc từ khóa của doanh nghiệp? Những bài đăng nào trên trang web của doanh nghiệp là phổ biến nhất?
Cải thiện tương tác
Doanh nghiệp muốn trang đích của mình có tỷ lệ chuyển đổi cao, doanh nghiệp biết điều gì đó không hoạt động tốt trên trang đích của mình, từ đó xem xét để chuyển đổi. Một điều lưu ý ở đây là hãy suy nghĩ về những gì có thể đang hoạt động không tốt đối với website.
Thực hiện những cải tiến
Chỉnh sửa trang đích bằng một ý tưởng nào đó, ví dụ: thay đổi từ ngữ trên nút CTA, thay đổi về màu sắc...
Đo lường hiệu quả
Sau một vài tuần đo lường hiệu quả dựa theo mục tiêu đã thiết lập.
Đánh giá kết quả
Nếu mọi thứ không theo như ý doanh nghiệp muốn hãy thử dùng những ý tưởng khác để cải tiến và tiếp tục đo lường và đánh giá.
Xem thêm
Phương tiện truyền thông mạng xã hội
Thế hệ Z
Thương mại điện tử
Truyền thông tiếp thị
Hành trình khách hàng
Liên kết ngoài
The impact of different touchpoints on brand consideration
Brand‐building: finding the touchpoints that count
Individual preferences of digital touchpoints: A latent class analysis
Tham khảo
Tiếp thị
Quản lý nhãn hiệu
Nhãn hiệu
Quản trị thương hiệu
Trải nghiệm khách hàng
|
19547711
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2y%20v%C4%A9%20%28%C3%A2m%20nh%E1%BA%A1c%29
|
Cây vĩ (âm nhạc)
|
nhỏ|Một số loại cung vĩ thường gặp.
Trong âm nhạc, cây vĩ là một dụng cụ để tạo ra âm thanh dành riêng cho các loại đàn dây, như vĩ cầm, xenlô và các loại nhạc cụ dây dùng cây vĩ khác. Từ này trong tiếng Pháp là archet, hiện vẫn được dùng phổ biến ở Việt Nam dưới dạng phiên âm là acxê. Trong các nhạc cụ dân tộc của Việt Nam và Trung Quốc, có đàn nhị (nhị hồ), đàn hồ hay các loại đàn thuộc họ hồ cầm Châu Á cũng dùng dụng cụ tương tự gọi là cung vĩ.
Cây vĩ (acxê) hoặc cung vĩ là một dụng cụ hình cung bằng gỗ hoặc bằng nhưa tổng hợp có căng nhiều sợi nhỏ (thường là lông đuôi ngựa hoặc tóc người) được phủ nhựa thông (làm tăng ma sát giữa các sợi với dây đàn). Đây là một dụng cụ do nhiều dân tộc khác nhau trên Thế giới phát minh ra, độc lập với nhau và từ lâu đời.
Lược sử
Nguồn gốc
Bằng chứng tượng hình và điêu khắc từ các nền văn minh Ai Cập, Ấn Độ, Hellenic và Anatolian sơ khai cho thấy rằng các nhạc cụ dây đã xuất hiện và tồn tại từ rất lâu trước khi cây vĩ xuất hiện và phát triển. Eric Halfpenny, viết trong Encyclopædia Britannica năm 1988 rằng: "cây vĩ có thể bắt nguồn từ nền văn minh du mục bằng ngựa ở các nước Trung Á, lan truyền qua một số nước Hồi giáo vào khoảng thế kỷ thứ 10, rồi sang phương Đông. Vào khoảng năm 1000, nó đã xuất hiện ở Trung Quốc, Java, Bắc Phi, Cận Đông và Balkan, và châu Âu. Nguồn gốc cây vĩ được cho là từ cây cung của dân du mục.
Các bằng chứng đáng kể cho giả thuyết này là mọi yếu tố cần thiết cho việc phát minh ra cung vĩ đều "hội tụ" đầy đủ trong các bộ tộc du mục này ở Trung Á thời cổ:
Trong xã hội ới nhiều chiến binh cưỡi ngựa (chủ yếu là người Huns và người Mông Cổ), thì lông đuôi ngựa rất sẵn.
Các chiến binh chuyên sử dụng cung để chiến đấu hoặc săn bắn.
Lông đuôi ngựa hiện nay thường lấy từ những vùng khí hậu lạnh khắc nghiệt chủ yếu là từ Mông Cổ, vì loại này bền, chắc nhất.
Nhựa thông luôn dùng để "chà xát" vào cây vĩ nhằm tạo ra âm thanh, kể cả dây vĩ là bằng tóc người, thì từ xưa đã được các cung thủ sử dụng để "bảo dưỡng" cây cung vũ khí của mình bằng cách trộn với sáp ong.
Cải tiến
nhỏ|400x400px|Cây vĩ vào khoảng những năm 1600 của thời kỳ nhạc Barôc.
Như vậy, có thể hình dung việc phát minh ra cây vĩ bắt nguồn từ một chiến binh Mông Cổ, vừa sử dụng nhựa thông trên trang bị của mình, vừa dùng ngón tay phủ đầy nhựa thông để vuốt trên cây cung, tạo ra cái như "đàn hạc" hoặc "đàn lia", phát ra âm thanh ngắn liên tục, do đó truyền cảm hứng cho họ và người khác. Tuy nhiên cây cung kiểu này đã thay đổi khi được dùng như một nhạc cụ chuyên biệt với yêu cầu thẩm mỹ và tinh tế mà không phải là một loại vũ khí dùng như đàn nữa.
Nguồn trích dẫn
Phát minh của Iran
Phát minh của Thổ Nhĩ Kỳ
Nhạc cụ
|
2844483
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onthophagus%20pipitzi
|
Onthophagus pipitzi
|
Onthophagus pipitzi là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
P
|
2629640
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lomographa%20pollentiaria
|
Lomographa pollentiaria
|
Lomographa pollentiaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lomographa
|
2605121
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cyllopoda%20claudicula
|
Cyllopoda claudicula
|
Cyllopoda claudicula là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Cyllopoda
|
2708554
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lamprosema%20haesitans
|
Lamprosema haesitans
|
Lamprosema haesitans là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lamprosema
|
14981285
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quimper%20Kerfeunteun%20F.C.
|
Quimper Kerfeunteun F.C.
|
Câu lạc bộ bóng đá Quimper Kerfeunteun là một đội bóng đá Pháp đến từ thành phố Quimper, Finistère. Đội đã từng được gọi là Stade Quimpérois.
Lịch sử
Đội bóng được thành lập vào năm 1905. Thành tựu lớn của đội đến vào những năm 1970 và 1980 khi đội chơi ở Division 2. Kết quả tốt nhất của nó là một vị trí thứ tư trong mùa giải 1988-1989. Câu lạc bộ có vấn đề tài chính vào năm 1997. Trong mùa giải 2006-2007, họ đã trốn thoát khỏi cấp độ khu vực (DH Bretagne, giải hạng 6) và trở lại ở cấp quốc gia.
Đội có một đội nữ, được chơi trong giải hạng 3.
Tham khảo
liên kết ngoài
Trang web chính thức
Câu lạc bộ bóng đá Pháp
|
19594980
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rudolf%20Bal%C3%A1%C5%BE
|
Rudolf Baláž
|
Rudolf Baláž (20 tháng 11 năm 1940 tại Nevoľné - 27 tháng 7 năm 2011 tại Banská Bystrica) là một giám mục của Giáo hội Công giáo người Slovakia. ông nguển là giám mục của giáo phận Banská Bystrica từ năm 1990 cho đến khi ông qua đời năm 2011.
Rudolf Baláž được sinh ra ở Nevoľné. Ông là con út trong gia đình có sáu người con. Ông học thần học tại Khoa Thần học Công giáo Rôma ở Bratislava từ năm 1958 đến năm 1963. Ông bị cộng sản ngăn không cho tiếp tục được học. Baláž được thụ phong làm linh mục vào ngày 23 tháng 6 năm 1963 do Giám mục Ambrose Lazik thụ phong. Từ năm 1968 đến năm 1970, ông làm việc tại văn phòng giám mục ở Banská Bystrica.
Sau Mùa xuân Praha vào năm 1968, ông trở thành thành viên của Ủy ban Hành động của các giáo sĩ Công giáo, Từ năm 1971 đến năm 1982 bị chính quyền cộng sản không cho thi hành tác vụ làm linh mục, nhưng lệnh cấm đã được dỡ bỏ vào năm 1982. Tháng 2 năm 1990, Giáo hoàng John Paul II phong ông làm giám mục Giáo phận Banská Bystrica. Ông là giám mục đầu tiên và duy nhất cho đến nay của giáo phận được sinh ra trong địa phận của giáo phận.
Từ ngày 13 tháng 4 năm 1994 đến ngày 31 tháng 8 năm 2000, ông là chủ tịch Hội đồng Giám mục Slovakia. Lần xuất hiện trước công chúng cuối cùng của ông là thánh hiến nhà thờ giáo xứ mới xây vào Chủ Nhật, ngày 17 tháng 7 năm 2011 tại Horni Ves. Ở tuổi 70, ông đột ngột qua đời ngày 27 tháng 7 năm 2011 tại văn phòng giám mục của mình. Ông được chôn cất tại quê nhà.
Xem thêm
Giáo hội Công giáo
Công giáo tại Slovakia
Chú thích
Liên kết ngoài
Sinh năm 1940
Người Slovakia
Giám mục Công giáo Rôma theo quốc gia
Mất năm 2011
|
19509765
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Witold%20Kie%C5%BCun
|
Witold Kieżun
|
Witold Jerzy Kieżun (06 tháng 02 năm 1922, tại Wilno - 12 tháng 6 năm 2021, tại Warsaw) là một nhà kinh tế học người Ba Lan; ông từng chiến đấu với tư cách là quân nhân của Home Army - phong trào kháng chiến Ba Lan chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Ông đã tham gia cuộc nổi dậy Warsaw và từng bị đưa vào Gulags (Trại cải tạo lao động ở Liên Xô). Kieżun là cựu giáo sư tại Đại học Temple, Đại học Duquesne, Đại học Montreal, Đại học Québec à Montréal, Đại học Bujumbura, Đại học Warsaw. Ông từng là Trưởng Cố vấn kỹ thuật của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc ở Burundi, Rwanda và Burkina Faso. Hiện tại, Witold Kieżun là giảng viên tại Đại học Kozminski ở Warsaw. Ông nhận bằng Tiến sĩ Honoris Causa của Đại học Jagiellonian và Đại học Quốc phòng Warsaw. Kieżun là thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan và là công dân danh dự của Warsaw.
Tuổi thơ
Witold Kieżun sinh năm 1922 tại Wilno, bố ông là một bác sĩ và sĩ quan của quân đội Ba Lan, mẹ ông là Leokadia Kieżun nhũ danh Bokun, một nha sĩ. Cả hai người đều là người Ba Lan Công giáo. Sau cái chết của anh trai Zbigniew vào năm 1930 và của bố vào năm 1931, Witold khi đó 9 tuổi đã cùng mẹ chuyển đến Warsaw. Họ sống ở quận Żoliborz - điểm đến ưa thích của các học giả Ba Lan.
Chiến tranh Thế giới II
Sau khi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, chàng trai Witold Kieżun 17 tuổi đã bị quân Đức bắt làm tù binh vào ngày 17 tháng 9. Ông may mắn trốn thoát thành công ra khỏi đoàn xe chở tù binh và được một người nông dân giấu trong một chiếc thùng rỗng. Sau khi trốn thoát, Witold trở về Żoliborz. Trong giai đoạn này, nhà của Kieżuns là nơi trú ẩn cho dì của ông Irena Kiełmuciowa, một người gốc Do Thái, và anh họ của Witold, Leon Gieysztor người Công giáo. Năm 1940, Leon Gieysztor bị quân Đức bắt giữ và bị đưa đến trại tập trung Auschwitz. Anh họ của ông Leon đã chết trong trại vào tháng 12 năm 1940.
Trong giai đoạn đầu khi Ba Lan bị Đức chiếm đóng, Witold làm nghề cắt kính và trở thành sinh viên của Trường Dạy nghề Kỹ thuật. Một trong những bạn học của Witold là Jan Bytnar, mật danh "Rudy", một thành viên nổi bật của Xếp hạng Xám. Kieżun tốt nghiệp trường dạy nghề năm 1943. Năm 1942 Kieżun ghi danh vào ngành Luật của Đại học Warsaw, khi ấy đang hoạt động bí mật. Ông hoàn thành chương trình học năm đầu tiên ở đây trước khi chương trình này bị gián đoạn bởi cuộc nổi dậy Warsaw năm 1944.
Từ năm 1939 trở đi Witold Kieżun đã tham gia vào phong trào kháng chiến của Ba Lan. Từ năm 1944, căn hộ của Witold ở Żoliborz là nơi cất giữ vũ khí cho Home Army. Witold hoạt động tích trong suốt cuộc nổi dậy Warsaw. Ông có mật danh là "Wypad" và phục vụ trong đơn vị tác chiến đặc biệt "Harnaś" với cấp bậc Thiếu úy. Vào tháng 8 năm 1944, Witold Kieżun được trao tặng Thập tự giá Valour nhờ thành tích bắt giữ 14 lính Đức và bảo vệ được 14 khẩu súng trường và 2000 viên đạn. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1944, Witold Kieżun được đích thân Tổng tư lệnh Tadeusz Bor-Komorowski trao tặng quân hàm cấp cao nhất của Ba Lan Virtuti Militari. Sau khi cuộc nổi dậy thất bại vào ngày 3 tháng 10, Witold trở thành tù binh chiến tranh, nhưng một lần nữa thành công trốn thoát. Witold chuyển đến Krakow dưới cái tên Jerzy Jezierza. Tại Krakow, Witold đoàn tụ với mẹ của mình, người đã trốn thoát khỏi Warsaw sau khi thành phố này gần như hoàn toàn bị phá huỷ sau cuộc nổi dậy.
Cộng hoà Nhân dân Ba Lan
Sau khi Hồng quân Liên Xô chiếm Krakow từ tay quân Đức vào ngày 17 tháng 1 năm 1945, Witold Kieżun đăng ký vào ngành Luật tại Đại học Jagiellonian.Vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 Kieżun bị NKVD bắt giữ trong các cuộc đàn áp của Liên Xô chống lại các thành viên của Home Army với mục tiêu củng cố sự thống trị của chế độ Cộng sản ở Ba Lan thời hậu chiến. Kieżun bị giam trong Nhà tù Motelupich ở Krakow và bị thẩm vấn gắt gao vì đã tham gia Khởi nghĩa Warsaw với tư cách là thành viên Home Army.
Vào ngày 23 tháng 3 năm 1945, Witold Kieżun cùng với các thành viên khác của Home Army bị giam giữ và tù binh Đức được đưa ra khỏi Nhà tù Montelupich đi đến trại lao động Gulag ở Liên Xô, gần thành phố Krasnovodsk (hiện là Türkmenbaşy ở Turkmenistan). Người chú của Witold Kieżun, Jan Kieżun, cũng bị đưa vào đây. Witold Kieżun tiết lộ trại lao động và lính canh NKVD đã sử dụng thiết bị quân sự của Hoa Kỳ cung cấp cho Liên Xô như là một phần của chương trình Lend-Lease và vẫn dán nhãn hiệu Quân đội Hoa Kỳ.
Trong khoảng thời gian ở trong trại, Witold Kieżun mắc bệnh viêm phổi, sốt thương hàn, sốt phát ban, chứng loạn dưỡng, ghẻ, quai bị và Beriberi. Vào ngày 22 tháng 6, Kieżun bất tỉnh và được cho là đã chết vì bệnh viêm phổi. Thi thể của ông nằm trên một đống xác của những bệnh nhân đã qua đời khác. Tuy nhiên, một y tá đã phát hiện ra điều đó nên Kieżun được đưa trở lại bệnh viện. Một người bạn tù sau khi được phóng thích trở về đã báo cho mẹ của Kieżun ở Krakow rằng ông đã chết. Tháng 9 năm 1945 trại bị giải tán. Ngày 20 tháng 9, Kieżun được chuyển đến một bệnh viện NKVD ở Kogon, hiện là Uzbekistan. Tháng 4 năm 1946 Witold Kieżun được trả tự do về Ba Lan.
Tháng 10 năm 1946 Witold Kieżun đăng ký lại ngành Luật của Đại học Jagiellonian ở Krakow và bắt đầu làm việc cho Ngân hàng Quốc gia Ba Lan. Năm 1948, Kieżun bị Bộ Công an bắt giữ trong 48 giờ do từng là thành viên của Home Army. Kieżun tốt nghiệp ngành Luật vào tháng 6 năm 1949 và chuyển từ Krakow đến Warsaw vào tháng 8 năm đó. Năm 1950, Witold kết hôn với Danuta, người từng là lính cứu thương trong Cuộc nổi dậy Warsaw.
Trong giai đoạn những năm 1950 và 1960, Witold Kieżun làm việc tại Ngân hàng Quốc gia Ba Lan ở Warsaw và làm nghiên cứu sinh tại Trường Kinh tế Warsaw. Kieżun hoàn thành nghiên cứu tiến sĩ về Kinh tế năm 1964. Năm 1971 Kieżun trở thành người đứng đầu Viện Thực nghiệm học của Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan. Năm 1973, ông bị sa thải theo yêu cầu của cơ quan Đảng cộng sản trong Viện. Trong những năm tiếp theo, ông làm giảng viên tại Đại học Warsaw. Ông được phong hàm giáo sư năm 1975. Từ năm 1974 trở đi, Witold Kieżun được mời tham dự một loạt các buổi nói chuyện khách mời tại Hoa Kỳ và Canada bao gồm Hội trường Setton năm 1974, Đại học Duquesne ở Pittsburgh năm 1977 và Đại học Montreal năm 1978.
Di cư
Ngày 6 tháng 9 năm 1980 Witold Kieżun rời Ba Lan, làm giảng viên hợp đồng tại Trường Kinh doanh và Quản trị thuộc Đại học Temple ở Philadelphia. Từ năm 1980–1981, ông đã tổ chức một loạt các bài giảng về Phong trào Đoàn kết ở Ba Lan mang tên "Tinh thần Đoàn kết" tại 14 trường Đại học tại Hoa Kỳ và Canada.
Năm 1981–83 Witold Kieżun làm Cố vấn Kỹ thuật cho UNDP ở Burundi, Châu Phi.
Từ năm 1983–1986 Kieżun là giáo sư tại HEC Montréal. Kieżun trở lại Burundi vào năm 1986 với tư cách là Trưởng Cố vấn kỹ thuật cho UNDP và chỉ đạo chương trình cho đến năm 1991. Ông từng là cố vấn của Tổng thống Pierre Buyoya. Từ năm 1989–1991 Kieżun là giáo sư tại Đại học Bujumbura. Năm 1990, Witold Kieżun đã gặp gỡ Giáo hoàng Ba Lan John Paul II trong chuyến thăm của Giáo hoàng tới Burundi.
Trong suốt những năm 1990, Witold Kieżun làm việc luân phiên giữa vai trò là Trưởng Cố vấn kỹ thuật trưởng cho UNDP ở Rwanda (1991–1992) và Burkina Faso (1994) và vị trí giảng viên tại Canada tại Đại học Quebec và McGill ở Canada. Trong thời gian ở Canada, Kieżun là người đồng tổ chức Quỹ Di sản người Do Thái Ba Lan ở Montreal.
Quay trở lại Ba Lan
Sau khi chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan sụp đổ, Witold Kieżun được cân nhắc vị trí Bộ trưởng Bộ Tài chính trong chính phủ của Tadeusz Mazowiecki, nhưng ông đã từ chối lời đề nghị. Năm 1995 Witold Kieżun bắt đầu tham gia các khóa học thường xuyên kéo dài 6 tuần về quản trị quốc tế tại Học viện Doanh nhân và Quản lý Leon Kozminski ở Warsaw, nhưng ông vẫn sống toàn thời gian ở Canada cho đến năm 1999, khi hai vợ chồng ông quay trở lại sống ở Warsaw.
Trong những năm 1990, Witold Kieżun đã phát triển một số đề xuất liên quan đến việc chuyển đổi hành chính ở Ba Lan và các quốc gia hậu cộng sản khác. Witold Kieżun là cố vấn cho chính phủ của Hanna Suchocka (1992–93), Jerzy Buzek (1997–2001), Marek Belka (2004–2005) và Jarosław Kaczyński (2006–2007) cũng như tổng thống Lech Kaczyński.
Vào ngày 9 tháng 1 năm 2001, Witold Kieżun bị bắt cóc ở một bãi đậu xe trên đường Polna ở Warsaw bởi 2 người đàn ông không rõ danh tính. Những kẻ bắt cóc đã chở Kieżun ra khỏi Warsaw; lấy điện thoại di động và sổ địa chỉ của ông, mà không hề để tâm đến số tiền và chiếc đồng hồ Thụy Sĩ ông mang theo. Sau đó, những kẻ bắt cóc để lại Kieżun trong một khu rừng gần Otwock. Chi tiết vụ bắt cóc chưa bao giờ được làm rõ.
Witold Kieżun cũng thường xuyên bình luận về lịch sử Ba Lan, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến Chiến tranh thế giới thứ hai và ý nghĩa của cuộc nổi dậy Warsaw. Kieżun tin rằng Cuộc nổi dậy là cần thiết, bởi vì người dân Warsaw mong muốn chấm dứt sự chiếm đóng của Đức ở Warsaw. Kieżun cho rằng nước Đức thời điểm đó đang tính đến việc biến Warsaw thành " Festung Warschau ", một khái niệm quân sự của Đức về sự kháng cự toàn diện của một thành phố nhằm làm chậm bước tiến của Liên Xô bằng bất cứ giá nào, thậm chí nếu điều này dẫn đến sự phá huỷ hoàn toàn của thành phố. Nếu người dân Warsaw không tuân theo, họ có thể bị trừng phạt bằng cái chết, vì vậy Cuộc nổi dậy cần phải xảy ra.
Vào ngày 1 tháng 9 năm 2014, Bưu chính Ba Lan đã phát hành một con tem bưu chính có hình ảnh của Kieżun từ cuộc nổi dậy Warsaw để kỷ niệm 70 năm Ngày Khởi nghĩa. Ở tuổi 92 (tính đến năm 2014) Witold Kieżun vẫn tiếp tục viết bài và tham gia thuyết trình; đồng thời ông thực hiện một cuốn sách mới về sự chuyển đổi của Ba Lan.
Cuộc sống riêng tư
Witold Kieżun kết hôn với Danuta Magreczyńska, người đã từng là lính cứu thương của Home Army trong Chiến tranh Thế giới thứ hai (Mật danh "Jola"). Danuta Kieżun qua đời vào ngày 9 tháng 8 năm 2013. Witold Kieżun có hai người con: con gái Krystyna Macqueron (sinh năm 1951) sống ở Pháp và con trai Witold Olgierd Kieżun (sinh năm 1954) sống ở Hoa Kỳ. Witold Kieżun có ba đứa cháu - Aurelie, Charlotte và Adam.
Kieżun qua đời tại Warsaw vào ngày 12 tháng 6 năm 2021, hưởng thọ 99 tuổi.
Tác phẩm
2014 - Niezapomniane twarze
2013 - Magdulka i cały świat. Rozmowa biograficzna z Witoldem Kieżunem przeprowadzona przez Roberta Jarockiego.
2012 - Drogi i bezdroża polskich przemian
2012 - Patologia transformacji
2003 - O odbudowę kapitału społecznego
1997 - Sprawne zarządzanie organizacją
1994 - Successful, though short lived sociotechnics
1992 - Management Efficient
1991 - Quản lý ở các nước xã hội chủ nghĩa
1990 - Manuel sur l'analyse des travaux Administrationratifs
1990 - Problematique generale de la reforme management dans le monde
1984 - Organisation et Gestion
1978 - Ewolucja systemów zarządzania
1977 - Podstawy Organisation i zarządzania
1977 - Autonomization of Organizational Units. From Pathology of Organization
1974 - Organizace prace reditele
Năm 1971 - Organisation Practicey własnej dyrektora
1971 - Autonomizacja jednostek tổ chức. Z patologii zarządzania
Năm 1968 - Dyrektor. Z problematyki zarządzania instytucją
1965 - Organisation bankowości w Polsce Ludowej
1964 - Bank a przedsiębiorstwo
Liên kết ngoài
Witold Kieżun - trang chủ cá nhân
Tiểu sử của Witold Kiezun trên http://www.warsawuphesia.com/, một trang web dành riêng cho Cuộc nổi dậy Warsaw do con trai của Witold J. Kieżun đồng sáng lập.
Trang Facebook dành riêng cho Witold Kieżun: https://www.facebook.com/profwitoldkiezun
Witold Kieżun nói về cuốn sách "Patologia Transformacji" (tiếng Ba Lan) https://www.youtube.com/watch?v=YWQwKq6tNE0
Tham khảo
Sinh năm 1922
Mất năm 2021
Nhà kinh tế học Ba Lan
|
2926406
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paraxestia%20flavicaudata
|
Paraxestia flavicaudata
|
Paraxestia flavicaudata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Paraxestia
|
3376273
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%B1a%20polyester
|
Nhựa polyester
|
Nhựa polyester (keo polyester) là loại nhựa tổng hợp chưa bão hòa hình thành bởi phản ứng hóa học giữa axit hữu cơ hai base và rượu polyhydric. Nhựa polyester (keo poly) thường được sử dụng trong vật liệu SMC (sheet moulding compound), BMC (bulk moulding compound), Hand lay-up, Gun spray-up,… trong sản xuất sản phẩm FRP (fiberglass reinforced plastic).
Việc kết hợp nhựa poly không no với chất xúc tác styrene (styrene monomer – SM) làm giảm độ nhớt của nhựa. Nhựa hóa rắn bởi quá trình tạo liên kết bên trong nhựa. Đó là phản ứng tạo liên kết ngang giữa các gốc tự do, không no trong các phân tử liền kề tạo thành chuỗi liên kết bền vững. Quá trình tạo liên kết ngang được thúc đẩy và hỗ trợ bởi các chất xúc tác organic peroxides (benzoyl peroxide hoặc metyl etyl ketone poeroxide)
Nhựa polyester (keo poly) là loại nhựa nhiệt rắn, tỏa nhiệt trong quá trình đóng rắn. sử dụng chất xúc tác quá liều có thể dẫn đến hiện tượng bốc cháy trong quá trình đóng rắn ngoài ra sản phẩm tạo thành sẽ bị giòn và dễ gãy, vỡ. Nhựa polyester (keo poly) chủ yếu dùng làm vật liệu nền trong sản phẩm composite.
Phân loại keo poly dựa trên ứng dụng:
Keo đắp (laminate)
Keo đúc (casting)
Keo giả đá (articrical marble)
…
Ứng dụng của nhựa polyester (keo poly) chủ yếu dùng làm vật liệu nền trong sản phẩm composite:
· Chậu composite, chậu hoa composite, chậu cây composite, bình hoa composite...
· Tủ điện composite
· Tàu thuyền composite (tàu đánh cá gỗ vỏ composite, tàu kiểm ngư..)
· Du thuyền composite
· Bình gas composite
· Bồn chứa composite (bồn chứa axit, bồn chứa nước…)
· Bọc phủ nền composite (các công trình liên quan tới hóa chất)
· Nhà vệ sinh công cộng composite
· Thùng rác composite
· Cano composite
· Thùng xe đông lạnh composite, các linh kiện thay thế xe bán tải
· Đồ chơi ngoài trời composite
· Ống dẫn khí composite, ống dẫn nước composite
· Thùng chứa hàng composite
· Bàn ghế composite, nắp hố gas composite, tấm chắn lưới composite
· Biogas composite
· Bể chứa axit composite, bể bơi composite
· ….
Tham khảo
https://en.wikipedia.org/wiki/Polyester
|
7576301
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euphemus
|
Euphemus
|
Euphemus (, "đáng kính") là tên của một số nhân vật khác nhau trong thần thoại Hy Lạp.
Chú thích
Tham khảo
Thần thoại Hy Lạp
Người trong chiến tranh thành Troia
Nhân vật Iliad
Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp
|
2813171
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mesoleius%20maculator
|
Mesoleius maculator
|
Mesoleius maculator là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Mesoleius
|
2757997
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jurinella%20huntingtoni
|
Jurinella huntingtoni
|
Jurinella huntingtoni là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Jurinella
|
2669048
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xanthorhoe%20aequifasciata
|
Xanthorhoe aequifasciata
|
Xanthorhoe aequifasciata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xanthorhoe
|
19480717
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%A6y%20ban%20%C4%90%E1%BB%91i%20ngo%E1%BA%A1i%20Th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20vi%E1%BB%87n%20Hoa%20K%E1%BB%B3
|
Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ
|
Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States Senate Committee on Foreign Relations) là một ủy ban thường trực của Thượng viện Hoa Kỳ chịu trách nhiệm hàng đầu về lập pháp và tranh luận về chính sách đối ngoại tại Thượng viện. Nó thường chịu trách nhiệm giám sát và tài trợ cho các chương trình viện trợ nước ngoài; tài trợ cho việc bán vũ khí và đào tạo cho các đồng minh quốc gia; và tổ chức các phiên điều trần xác nhận cho các vị trí cấp cao trong Bộ Ngoại giao. Ủy ban tương ứng của nó tại Hạ viện là Ủy ban Ngoại giao Hạ viện.
Cùng với các Ủy ban Tài chính và Tư pháp, Ủy ban Đối ngoại là một trong những ủy ban lâu đời nhất tại Thượng viện, nó được thành lập cùng với các ủy ban đầu tiên vào năm 1816. Nó đã đóng một vai trò hàng đầu trong một số hiệp ước quan trọng và các sáng kiến chính sách đối ngoại, bao gồm việc mua Alaska, thành lập Liên Hợp Quốc và thông qua Kế hoạch Marshall. Tám tổng thống Hoa Kỳ từng tham gia Ủy ban - Andrew Jackson, James Buchanan, Andrew Johnson, Benjamin Harrison, Warren Harding, John F. Kennedy, Barack Obama và Joe Biden — và 19 Ngoại trưởng. Các thành viên đáng chú ý bao gồm Arthur Vandenberg, Henry Cabot Lodge và William Fulbright.
Do có lịch sử lâu đời, ảnh hưởng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, quyền tài phán đối với tất cả các đề cử ngoại giao, và là ủy ban duy nhất của Thượng viện để cân nhắc và báo cáo các hiệp ước, Ủy ban Đối ngoại được coi là một trong những ủy ban quyền lực và uy tín nhất tại Thượng viện.
Thành viên của ủy ban trong Quốc hội khóa 117
Chủ tịch Ủy ban
Chú thích
Thao khảo
Quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ
Thượng viện Hoa Kỳ
Ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ
|
15394930
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%A5ng%20%C4%91%E1%BB%99%20Nguy%C3%AAn%20L%C3%A3ng%202019
|
Đụng độ Nguyên Lãng 2019
|
Đụng độ Nguyên Lãng 2019 là một cuộc tấn công mob xảy ra vào ngày 21 tháng 7 năm 2019, tại Nguyên Lãng, Hồng Kông. Một đám đông gồm hơn 100 người có vũ trang mặc đồ trắng tấn công dân thường trên đường phố và hành khách trong nhà ga MTR Nguyên Lãng bao gồm người già, trẻ em, những người biểu tình mặc áo đen, nhà báo và nhà lập pháp. Ít nhất 45 người bị thương trong vụ việc, bao gồm một người phụ nữ mang thai. Vụ đụng độ xảy ra sau một cuộc biểu tình dự luật chống dẫn độ ở Thượng Hoàn , và là một hành động đe dọa những người biểu tình ủng hộ dân chủ đang trở về nhà.
Mặc dù có hàng ngàn gọi đến đường dây nóng khẩn cấp 999, nhưng cảnh sát đã không đến nơi trong hơn 30 phút và cuối cùng chỉ sau khi đám đông rời khỏi trạm được một phút. Không có vụ bắt giữ được thực hiện đêm đó. Nhiều người buộc tội cảnh sát đã không bảo vệ công dân khi bị tấn công, thậm chí một số người còn cho rằng cảnh sát thông đồng với đám đông.
Bối cảnh
Các cuộc biểu tình phản đối dự luật dẫn độ gây tranh cãi đã diễn ra từ tháng 3. Các cuộc biểu tình gần đây đã biến thành xung đột, với cảnh sát được cho là sử dụng các chiến thuật và lực lượng ngày càng bạo lực đối với người biểu tình. Những người ủng hộ dự luật dẫn độ đã ca ngợi cảnh sát là những người bảo vệ luật pháp và trật tự. Trái ngược với trang phục đen của người biểu tình chống dự luật, những người ủng hộ chính phủ mặc màu trắng. Những người mặc đồ trắng phá hoại đã bức tường Lennon ở Thái Phố vào ngày 19 tháng 7 và tham gia một cuộc biểu tình thể hiện tình đoàn kết với cảnh sát vào ngày 20 tháng 7.
Chủ nhật ngày 21 tháng 7, Mặt trận Nhân dân về Nhân quyền đã tổ chức một cuộc biểu tình từ Vịnh Đồng La đến Loan Tể trên đảo Hồng Kông, với trang phục là màu đen một lần nữa. Đám đông áo trắng tuyên bố đang "bảo vệ" quê hương, cảnh báo tất cả những người biểu tình dự luật chống dẫn độ không được đến Nguyên Lãng.
Đụng độ
Vào buổi tối, khi những vụ ẩu đả ở Thượng Hoàn đang diễn ra, những kẻ tấn công thân Bắc Kinh mặc áo sơ mi trắng và trang bị những thanh sắt và gậy gỗ tập trung tại Nguyên Lãng, một thị trấn ở Tân Giới. Vào khoảng 22 giờ, những kẻ côn đồ này bắt đầu tấn công người và xe cộ trên đường phố. Họ được cho là nhắm vào những người mặc đồ đen, trang phục cho cuộc biểu tình dân chủ Hồng Kông, nhưng cũng tấn công các nhà báo và người ngoài cuộc. Một phụ nữ mang thai, mặc váy trắng dài, được tìm thấy khi đang nằm trên sàn nhà.
Vào khoảng 22 giờ 30 phút, khoảng một trăm kẻ tấn công mặc áo trắng xuất hiện tại ga đường sắt Nguyên Lãng và tấn công những người đi lại trong trên sân ga và bên trong các khoang tàu. Hai nhân viên cảnh sát đến lúc 22 giờ 52 phút. Tuy nhiên, họ rời khỏi nhà ga khi họ nhận ra rằng họ bị động hơn những kẻ côn đồ và không có đủ thiết bị, theo cảnh sát. Ba mươi sĩ quan cảnh sát đã đến nhà ga lúc 23 giờ 20 phút nhưng những kẻ tấn công đã rời đi. Do bạo lực, các chuyến tàu đi qua ga Nguyên Lãng trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 23 giờ 19 phút, và nhà ga được lệnh đóng cửa lúc 23:55. Tuy nhiên, sau nửa đêm, những kẻ côn đồ mặc áo trắng buộc phải mở cửa chớp của nhà ga để phát động đợt tấn công thứ hai vào hành khách; không có cảnh sát nào có mặt tại hiện trường. Tổng cộng, ít nhất 45 người đã được báo cáo bị thương, bao gồm thành viên Hội đồng Lập pháp Lâm Trác Đình và hai phóng viên; một nhà báo khác.
Người dân đã gọi đến đường dây nóng khẩn cấp khi thấy nhóm côn đồ tập trung vào khoảng 19 giờ, và một phát ngôn viên của MTR cho biết cuộc gọi đầu tiên tới cảnh sát được thực hiện vào khoảng 22:45, nhưng sau ba tiếng nhận được cuộc gọi giúp đỡ ban đầu, các nhân viên cảnh sát mới đến nhà ga. Trung tâm cuộc gọi của cảnh sát địa phương đã nhận được hàng ngàn cuộc gọi trong khoảng thời gian từ 10 giờ tối đến nửa đêm, và một số người không thể đến đường dây nóng. Quản lý của Yoho Mall, một trung tâm mua sắm bên cạnh nhà ga Nguyên Lãng, cũng đã cố gắng gọi cảnh sát nhưng họ không thể liên lạc với họ. Sở cảnh sát gần đó đã đóng cổng khi hàng trăm người quay lại để báo cáo vụ việc. Qua đêm, cảnh sát đã đối chất với bọn cướp ở làng Nguyên Lãng Khư và tịch thu một số thanh thép, mặc dù không có vụ bắt giữ nào được thực hiện khi họ không thấy ai cầm vũ khí và "không nhận thấy tội phạm" trong làng và tuyên bố chúng không thể xác định danh tính của những tên cướp áo trắng.
Chỉ trích phản ứng của cảnh sát
Một phát ngôn viên của MTR cho biết các công nhân tại nhà ga đã thấy các vụ đụng độ diễn ra vào khoảng 22:45 và ngay lập tức liên lạc với cảnh sát trong vòng hai phút sau đó. Tuy nhiên, các sĩ quan cảnh sát chỉ đến vào khoảng 23:15, khi đám côn đồ đã biến mất, mặc dù cảnh sát nhận được nhiều cuộc gọi từ 999. Người dân cũng báo cáo bị bỏ qua và đối xử thô lỗ bởi người bên 999, họ cho rằng người dân "nên ở nhà nếu sợ". Khi đến nơi, cảnh sát bị bao vây bởi hàng chục cư dân tức giận và người biểu tình cáo buộc cảnh sát đã cố tình rút lui sau khi được gọi đến hiện trường vụ tấn công đầu tiên.
Chỉ huy cảnh sát Li Hon-man, người được các nhà báo phỏng vấn tại hiện trường, đã được hỏi tại sao cảnh sát đến muộn. Anh ấy đã được ghi lại trên video nói rằng "Tôi không biết liệu chúng tôi có trễ không" và tuyên bố rằng đã không nhìn vào đồng hồ. Ngày hôm sau, thông tin liên lạc của sĩ quan chỉ huy Li Hon-man đã bị xóa khỏi danh bạ chính phủ, cùng với việc xóa các chi tiết cho 11 sĩ quan cấp thấp khác từ Sư đoàn Nguyên Lãng.
Trong khi đó, các video bị rò rỉ cho thấy hai nhân viên cảnh sát đã đến hiện trường nhưng sau đó quay đi. Cảnh sát trả lời rằng hai người cảnh sát kia đã lùi lại và kêu cứu vì họ cho rằng họ không có trang thiết bị để đối phó với đám đông có vũ trang.
Đóng cửa đồn cảnh sát gần đó
Nhiều người cũng chỉ trích thực tế rằng các đồn cảnh sát trong khu vực lân cận vụ đụng độ Nguyên Lãng đã đóng cửa, mặc dù một nhóm lớn cư dân đã có mặt để báo cáo nhóm côn đồ. Cảnh sát trả lời rằng việc đóng cửa là vì lý do an toàn do nhiều nhóm người biểu tình vây quanh các đồn.
Bắt giữ nghi phạm
Sau khi chặn lối vào khu vực này trong hơn ba giờ, cảnh sát không bắt giữ. Khi được hỏi, cảnh sát giải thích rằng không thể xác nhận rằng những người mặc đồ trắng là những người tham gia vào bạo lực và cảnh sát không thể ghi lại danh tính của những người mặc đồ trắng vì số lượng lớn. Yau Nai-keung, Trợ lý chỉ huy tội phạm quận tại Nguyên Lãng, cũng tuyên bố rằng các đồng nghiệp không thấy ai cầm vũ khí ở khu vực này cả.
Sáu người đàn ông đã bị bắt vào ngày 22 tháng 7 năm 2019. Theo cảnh sát, một trong những nghi phạm bị bắt giữ có liên quan đến Hội Tam Hoàng. Thêm năm người đàn ông đã bị bắt vào ngày 23 tháng 7 năm 2019.
Vào ngày 26 tháng 8, hai người đàn ông đã bị buộc tội và bị giữ không có bảo lãnh liên quan đến vụ đụng độ. Trong số 30 người đã bị bắt giữ, một số người có liên kết với các tập đoàn tội phạm có tổ chức, chỉ có bốn cá nhân bị buộc tội là nghi phạm. Phiên tòa dự kiến sẽ bắt đầu vào ngày 25 tháng 10.
Cáo buộc thông đồng
Nhà lập pháp ủng hộ dân chủ Eddie Chu Hoi-Dick, đại diện cho Tây Tân Giới, tuyên bố: "Cảnh sát không xuất hiện trong khi những kẻ côn đồ xông vào nhà ga và tấn công cư dân nơi đây một cách bừa bãi đêm qua", nói rằng điều này có nghĩa là thông đồng rõ ràng giữa cảnh sát và các băng đảng.
Các băng đảng Hội Tam Hoàng trước đây có liên quan đến các cuộc tấn công vào các nhà hoạt động dân chủ ở Vượng Giác trong Phong trào Dù. Vào thời điểm đó, cảnh sát cũng bị cáo buộc tương tự vì không trả lời kịp thời và bị chỉ trích vì để các cuộc đụng độ xảy ra.
Lynette Ong, Phó Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Toronto nhận xét rằng:
Hành vi sai trái trong văn phòng công cộng
Stephen SN Char, luật sư và cựu điều tra viên của Ủy ban độc lập chống tham nhũng, chỉ ra rằng sự cẩu thả có chủ ý của các nhân viên cảnh sát đã từ chối cung cấp dịch vụ công có thể đã phạm tội sai trái trong văn phòng công cộng theo luật chung.
Nghi ngờ liên quan đến Hà Quân Nghiêu
Sau vụ việc, nhà lập pháp thân Bắc Kinh Hà Quân Nghiêu bị buộc tội ủng hộ vụ đụng độ. Trong nhiều video khác nhau được đăng lên mạng, Hà đã chào đón nhóm kẻ tấn công mặc áo trắng, bắt tay và gọi bọn côn đồ bị nghi ngờ là "anh hùng", đưa cho chúng ngón tay cái và nói rằng "cảm ơn vì đã làm việc chăm chỉ". Ít nhất một trong những người đàn ông mặc đồ trắng bắt tay với Hà đã được chứng minh là đã ở trong nhà ga Nguyên Lãng trong các vụ đụng độ.
Hà sau đó giải thích rằng anh ta sống ở Nguyên Lãng và chỉ đi ngang qua sau bữa tối và đồng ý chào một trong những người ủng hộ anh ta yêu cầu chụp ảnh. Hà nói rằng anh ta không biết gì về vụ tấn công khi chào họ và cuộc họp diễn ra trước khi xảy ra vụ việc. Tuy nhiên, ông cũng bảo vệ đám đông tại một cuộc họp báo bằng cách nói rằng các sự cố là "phản ứng bình thường đối với những người biểu tình đã mang lại bạo lực cho cộng đồng hòa bình sau khi họ xông vào văn phòng liên lạc" và cũng ca ngợi họ vì "bảo vệ" nơi ở của họ.
Hội Luật gia, nơi Hà từng là chủ tịch, cho biết họ đã nhận được "khá nhiều khiếu nại" và "nghiêm túc xem xét" các biện pháp xử lý kỷ luật đối với Hà và "tiến hành đánh giá các khiếu nại liên quan, và sẽ chuyển vấn đề sang Luật sư Tòa án kỷ luật nếu cần thiết".
Hậu quả
Nhiều cửa hàng trên đường phố và trong các trung tâm mua sắm đã bị đóng cửa ở Nguyên Lãng và các thị trấn lân cận Tuen Mun, Tin Shui Wai và Tsuen Wan vào ngày 22 tháng 7 năm 2019. Tin đồn lan truyền trên mạng cảnh báo rằng sẽ có nhiều vụ bạo lực hơn vào ngày đó. Nhiều công ty cho phép nhân viên sống ở các quận được nghỉ làm sớm ngày hôm đó. Một số trường học trong quận đã hủy bỏ các hoạt động buổi chiều. Các cơ sở giải trí và văn hóa tại Nguyên Lãng do chính phủ vận hành đã đóng cửa sớm vì những cân nhắc về an ninh công cộng.
Văn phòng của Hà Quân Nghiêu tại Tsuen Wan đã bị những người biểu tình phá hoại sau vụ đụng độ. Một vách ngăn kính đã bị vỡ, cũng như để lại một tờ giấy rằng "có một sự liên kết giữa các băng đảng bạo lực thực hiện vụ đụng độ ngày hôm trước và lực lượng cảnh sát". Người biểu tình cũng đăng các ghi chú chống chính phủ lên tường bên ngoài văn phòng của ông ở Tin Shui Wai và Tuen Mun.
Một nhóm người vô danh cũng đã phá hoại ngôi mộ của cha mẹ anh ta ở Tuen Mun, những kẻ phá hoại cũng để lại graffiti với những từ như "thông đồng chính thức" và "Hội Tắm Hoàng" gần các ngôi mộ, làm dấy lên những tin đồn liên quan đến bối cảnh của những kẻ phá hoại.
Một cuộc họp báo được tổ chức vào ngày 24 tháng 7 bởi sáu người bị tấn công và đã quyết định tiếp tục với câu chuyện của họ. Một số người trong nhóm, bao gồm nhà lập pháp Lâm Trác Đình, tuyên bố họ có thể kháng cáo bồi thường thiệt hại tài chính tại tòa án pháp luật và bộ hồ sơ chống lại cảnh sát và tập đoàn MTR. Lâm cũng nói rằng đảng chính trị của ông sẽ hỗ trợ bất kỳ ai khác muốn buộc tội và tìm cách khắc phục.
Biểu tình đòi lại Nguyên Lãng
Các cuộc biểu tình ban đầu được lên kế hoạch vào ngày 27 và 28 tháng 7 tại Hồng Khám - Thổ Qua Loan, Thương Quân Áo và Tây Hoàn đã được lên lịch lại hoặc hoãn lại để nhường chỗ cho một hành động đòi lại Nguyên Lãng vào ngày 27 tháng 7. Tuy nhiên, cảnh sát đã đưa ra thư phản đối, nói rằng cuộc tuần hành chống vụ đụng độ có thể 'tạo ra sự cản trở nghiêm trọng cho các con đường và gây nguy hiểm cho người diễu hành', sau khi nhận được áp lực từ các nhóm nông thôn. Người nộp đơn tuyên bố rằng sẽ đi bộ một mình dọc theo tuyến đường được đề xuất ban đầu và kêu gọi mọi người không đi theo anh ta. Bất chấp nguy cơ phạm tội, hàng chục ngàn người, tương đương 288.000 người nộp đơn diễu hành ban đầu ước tính, đã xuất hiện trong thị trấn. Nhiều người biểu tình đã diễu hành trên đường Thanh Sơn Công. Cảnh sát đã bắn hơi cay vào khu dân cư chủ yếu và vào buổi tối. Cảnh sát nhấn mạnh rằng việc bắn hơi cay không ảnh hưởng đến những người cao niên sống trong một ngôi nhà dành cho người già gần đó, mặc dù các bức ảnh cho thấy điều khác. Bắt đầu từ 5 giờ chiều, cảnh sát đã bắn những ống hơi cay vào những người biểu tình gần chợ Nguyên Lãng, trong khi những người biểu tình ném các vật thể khác trở lại. Trong khi MTR đã bố trí các đoàn tàu đặc biệt trong nhà ga Long Ping để giúp người biểu tình rời khỏi Nguyên Lãng, cảnh sát chống bạo động bắt đầu giải tán những người biểu tình với lực lượng mạnh hơn vào khoảng 7:30 tối bằng dùi cui và đạn cao su. Những người biểu tình chạy đến nhà ga Nguyên Lãng được theo sau bởi đội chiến thuật đặc biệt, và một cuộc đình công đã xảy ra bên trong nhà ga.
Trong cuộc biểu tình, một chiếc xe khách gần chợ Nguyên Lãng đã bị những người biểu tình phá hoại. Một số vũ khí đã được phát hiện trong xe trông giống như vũ khí được những người mặc áo trắng trong các cuộc tấn công ngày 21 tháng 7, cũng như một chiếc mũ trông giống như đồng phục của lực lượng thực thi pháp luật đại lục. Vào ngày 28 tháng 7, cảnh sát đã bắt giữ chủ xe vì tội tàng trữ vũ khí trái phép. Trực tuyến tin đồn danh tính của một tên cá nhân được tìm thấy trên một hóa đơn bên trong xe, được kết nối với Văn phòng Liên lạc, tuy nhiên, Văn phòng Liên lạc đã phủ nhận.
Biểu tình ngồi tại Nguyên Lãng ngày 21 tháng 8
Hàng ngàn người biểu tình đã tổ chức một cuộc biểu tình ngồi để đòi công lý và tưởng nhớ các nạn nhân của các vụ đụng độ đã xảy ra đúng một tháng trước ngày 21 tháng 7.
Phản ứng
Một số chính trị gia như Lương Kế Xương, Quảng Tuấn Vũ và các nhân vật khác đã lên án nó là một cuộc tấn công khủng bố.
Thời báo Kinh tế Hồng Kông đã so sánh vụ tấn công với hai vụ tấn công khủng bố ở Trung Quốc đại lục năm 2014, cho thấy vụ đụng độ Nguyên Lãng có thể đủ điều kiện là một cuộc tấn công khủng bố theo luật Đại lục. Tờ báo cũng so sánh cuộc tấn công với luật pháp Hoa Kỳ, đưa ra kết luận tương tự.
Các đảng từ cả hai phe của Hội đồng Lập pháp (LegCo), đã lên án bạo lực của vụ đụng độ. Các ủy viên hội đồng dân chủ đã ký một bản kiến nghị lên án sự bất cẩn của cảnh sát trong việc cho phép Hội Tâm Hoàng bị nghi ngờ trở thành người thi hành các quy tắc riêng của họ, trong khi DAB thân Bắc Kinh lên án vụ việc bạo lực và "yêu cầu cảnh sát theo dõi [vụ đụng độ] nghiêm túc".
Những người bị thương, cũng như các Ủy viên Hội đồng LegCo Lâm Đình Trác (người cũng bị thương trong vụ đụng độ), James Tien, và một số ủy viên hội đồng dân chủ buộc tội đám đông là thành viên của các băng đảng Hội Tam Hoàng. Cảnh sát cũng tin rằng một số nghi phạm bị bắt vào ngày 22 tháng 7 là thành viên Hội Tam Hoàng.
Một số chính trị gia, như Zachary Wong, Ủy viên Hội đồng quận Nguyên Lãng, đã cáo buộc đám đông dưới sự ảnh hưởng của chính quyền trung ương Bắc Kinh, trích dẫn ý kiến của một quan chức Văn phòng Liên lạc trong một sự kiện nhậm chức của Ủy ban Nông thôn Shap Pat Heung trước đó. Sau vụ đụng độ, Reuters cũng tuyên bố rằng họ có bản ghi âm bài phát biểu của quan chức.
Các hiệp hội nhà báo đã lên án các cuộc tấn công vào các nhà báo là "một sự xâm phạm nghiêm trọng đến tự do báo chí".
, Phó Tổng biên tập Thời báo Kinh tế Hồng Kông và là một trong những giám đốc điều hành Tập đoàn thời báo kinh tế Hồng Kông, đã từ chức vào ngày 23 tháng 7 sau khi rút lại ý kiến cá nhân về việc khuyến khích sử dụng bạo lực chống hóa đơn người biểu tình; ông đã bày tỏ ý kiến trong một sự kiện hỗ trợ cảnh sát vào ngày 20 tháng 7, một ngày trước vụ đụng độ.
Có phản ứng dữ dội vào ngày 22 tháng 7 khi 30 người biểu tình tại đồn cảnh sát Nguyên Lãng lên án các vụ tấn công và phản ứng của cảnh sát bị trì hoãn, cáo buộc thông đồng giữa cảnh sát và Hội Tam Hoàng. Hàng trăm nhân viên xã hội sau đó đã tuần hành đến cùng một đồn cảnh sát để báo cáo về bạo lực, bàn giao bằng chứng hình sự và nộp đơn khiếu nại cảnh sát.
Vào ngày 2 tháng 8, đại diện của đảng Lao động đã tổ chức một cuộc biểu tình bên ngoài các văn phòng Chính phủ yêu cầu Junius Ho bị tước danh hiệu là Công lý Hòa bình. Cùng với một kiến nghị 20.000 chữ ký, Chủ tịch Đảng Lao động cho biết ông Hồ không thể giữ vị trí này khi ông kích động người khác sử dụng bạo lực.
Phản ứng của chính phủ
Chính phủ đã lên án các vụ tấn công trong một tuyên bố được đưa ra sau nửa đêm theo giờ địa phương. Tuy nhiên, chính phủ đã từ chối phân loại vụ đụng độ là một cuộc bạo loạn.
Đặc khu trưởng Lâm Trịnh Nguyệt Nga đã tổ chức một phiên truyền thông tại 3 giờ chiều ngày 22 tháng 7 năm 2019, lần đầu tiên lên án những người biểu tình vì đã bao vây Văn phòng Liên lạc tại Thượng Hoàn vào đêm hôm trước. Khi giải quyết lý do tại sao cô ấy ưu tiên sự cố văn phòng liên lạc trước vụ đụng độ trong lời nhận xét của mình, Lâm nói: "Điều quan trọng là cuộc sống hàng ngày của công dân Hồng Kông được bảo vệ, nhưng tôi tin rằng tất cả công dân sẽ đồng ý rằng việc thực hiện thành công một quốc gia, hai chế độ là... thậm chí là điều quan trọng nhất."
Lâm đã không trực tiếp trả lời các câu hỏi của giới truyền thông về phản ứng bị trì hoãn của cảnh sát khí được kêu gọi giúp đỡ. Lâm cuối cùng đã lên án các cuộc tấn công có tổ chức vào người biểu tình và người ngoài cuộc, nói rằng "bạo lực sẽ chỉ sinh ra nhiều bạo lực hơn". Tuy nhiên, cựu nhà lập pháp James Tien đã đặt câu hỏi về sự chân thành của bà và hỏi liệu Hội Tam Hoàng hiện đang cai trị Hồng Kông. Trong bài đăng trên Facebook, anh kêu gọi Lâm từ chức vì những gì đã xảy ra ở Nguyên Lãng tối hôm đó. Ủy viên cảnh sát Lư Vĩ Thông cho biết ông cần theo dõi vụ việc và từ chối bình luận vào thời điểm này về phản ứng của cảnh sát đối với đám đông trong vụ việc này so với cách tiếp cận áp lực cao đối với người biểu tình trong các tình huống trước đó.
Vào ngày 26 tháng 7, Tổng thư ký hành chính Trương Kiến Tôn đã xin lỗi người dân và thừa nhận rằng phản ứng của sở cảnh sát không như mong đợi của công chúng. Khi được hỏi về yêu cầu cho một cuộc điều tra độc lập về hành vi sai trái của cảnh sát, Trương nói rằng vấn đề này sẽ được xử lý nội bộ. Ngay sau lời xin lỗi, hình ảnh của các tuyên bố được in kèm theo thẻ bảo đảm được lưu hành trực tuyến từ các nhân viên cảnh sát bất đồng chính kiến, đặt câu hỏi về việc cần phải xin lỗi và gọi Trương là "kẻ thù của cảnh sát". Hiệp hội Thanh tra Cảnh sát và Hiệp hội Viên chức Cảnh sát Thiếu niên bày tỏ "sự lên án nghiêm trọng nhất" về lời xin lỗi của ông.
Quốc tế
- Andrew Murrison, Bộ trưởng Bộ Phát triển Quốc tế của Vương quốc Anh, đã lên án bạo lực trong một cuộc họp của Hạ nghị viện, nói rằng "Tôi đứng trước quyền của mọi người để phản đối hòa bình và hợp pháp" và "[Anh] sẽ tiếp tục để mắt đến điều này. "
- Jim McGitas, thành viên của Hạ viện Hoa Kỳ và chủ tịch Ủy ban Điều hành Quốc hội về Trung Quốc, mô tả vụ tấn công là "bạo lực dàn xếp chống lại người biểu tình ôn hòa" và kêu gọi chính quyền Hồng Kông bảo vệ quyền tự do biểu tình.
- Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại Hồng Kông đã đưa ra cảnh báo mới cho người nước ngoài của họ ở Hồng Kông liên quan đến tin đồn về các cuộc tấn công tiếp theo ở Tân Giới.
Đọc thêm
Tham khảo
Biểu tình tại Hồng Kông năm 2019
Hồng Kông năm 2019
Số liên kết bản mẫu Interlanguage link
|
2914768
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aspila%20clarissima
|
Aspila clarissima
|
Aspila clarissima là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Aspila
|
9278399
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sud%20Sardegna
|
Sud Sardegna
|
Tỉnh Sud Sardegna () là một tỉnh trên đảo Sardegna của Ý, được thành lập vào ngày 4 tháng 2 năm 2016. Khi hoạt động, tỉnh này bao gồm các tỉnh cũ là Carbonia-Iglesias và Medio Campidano, cùng một phần lớn tỉnh Cagliari (ngoại trừ 17 khu tự quản nay thuộc Thành phố trung tâm Cagliari), và hai khu tự quản khác.
Sud Sardegna được thành lập trong luật cải cách các tỉnh tại Sardegna (Luật khu vực 2/2016). Nó bao gồm một phần lớn vùng địa lý Campidano, Sarrabus-Gerrei, Trexenta và Sulcis-Iglesiente. Tỉnh lị sẽ do hội đồng cấp tỉnh khoá I quyết định, cũng như là quy chế của cơ quan.
Khu tự quản
Từng thuộc tỉnh Carbonia-Iglesias (toàn bộ 23): Buggerru, Calasetta, Carbonia, Sardegna, Carloforte, Domusnovas, Fluminimaggiore, Giba, Sardegna, Gonnesa, Iglesias, Masainas, Musei, Narcao, Nuxis, Perdaxius, Piscinas, Portoscuso, San Giovanni Suergiu, Sant'Anna Arresi, Sant'Antioco, Santadi, Tratalias, Villamassargia, Villaperuccio
Từng thuộc tỉnh Medio Campidano (toàn bộ 28): Arbus, Barumini, Collinas, Furtei, Genuri, Gesturi, Gonnosfanadiga, Guspini, Las Plassas, Lunamatrona, Pabillonis, Pauli Arbarei, Samassi, San Gavino Monreale, Sanluri, Sardara, Segariu, Serramanna, Serrenti, Setzu, Siddi, Tuili, Turri, Ussaramanna, Villacidro, Villamar, Villanovaforru, Villanovafranca
Từng thuộc tỉnh Cagliari (54 trong số 71): Armungia, Ballao, Barrali, Burcei, Castiadas, Decimoputzu, Dolianova, Domus de Maria, Donori, Escalaplano, Escolca, Esterzili, Gergei, Gesico, Goni, Guamaggiore, Guasila, Isili, Mandas, Monastir, Muravera, Nuragus, Nurallao, Nuraminis, Nurri, Orroli, Ortacesus, Pimentel, Sadali, Samatzai, San Basilio, San Nicolò Gerrei, San Sperate, San Vito, Sant'Andrea Frius, Selegas, Senorbì, Serdiana, Serri, Seulo, Siliqua, Silius, Siurgus Donigala, Soleminis, Suelli, Teulada, Ussana, Vallermosa, Villanova Tulo, Villaputzu, Villasalto, Villasimius, Villasor, Villaspeciosa
Từng thuộc tỉnh Ogliastra: Seui
Từng thuộc tỉnh Oristano: Genoni
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tỉnh của Ý
|
3146265
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20tuy%E1%BA%BFt%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Hoa tuyết (định hướng)
|
Hoa tuyết có thể là
Hoa tuyết (khí tượng) tức tinh thể kết từ hơi nước rơi xuống đất ở dạng tuyết
Hoa tuyết (phim)
|
2578544
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stenosphenus%20sobrius
|
Stenosphenus sobrius
|
Stenosphenus sobrius là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Stenosphenus
|
19768016
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/An%20V%C4%A9%20%28ch%C3%ADnh%20kh%C3%A1ch%29
|
An Vĩ (chính khách)
|
An Vĩ (tiếng Trung giản thể: 安伟, bính âm Hán ngữ: Ān Wěi, sinh tháng 5 năm 1966, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX, hiện là Thường vụ Tỉnh ủy Hà Nam, Bí thư Thành ủy Trịnh Châu. Ông từng là Bí thư Thị ủy Chu Khẩu và Thị trưởng Tam Môn Hiệp, các địa cấp thị của Hà Nam.
An Vĩ là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, học vị Thạc sĩ Chính trị học, Tiến sĩ Kinh tế học. Ông có sự nghiệp hơn 30 năm đều công tác ở quê nhà Hà Nam của mình.
Xuất thân và giáo dục
An Vĩ sinh vào tháng 5 năm 1966 tại huyện Trấn Bình, nay thuộc địa cấp thị Nam Dương, tỉnh Hà Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông lớn lên và tốt nghiệp cao trung ở Trấn Bình, thi cao khảo vào năm 1984 và đỗ Đại học Hà Nam, tới Trịnh Châu nhập học hệ chính trị từ tháng 9 cùng năm và tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành này vào tháng 7 năm 1988. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông tiếp tục thi tuyển vào chương trình nghiên cứu sinh toàn thời gian thuộc hệ khoa học chủ nghĩa Marx, chuyên ngành lịch sử thế giới cận hiện đại tại Đại học Lan Châu, nhận bằng Thạc sĩ Chính trị học vào tháng 7 năm 1991. Những năm 2000, ông là nghiên cứu sinh tại chức tại Đại học Khoa học và Kỹ thuật Hoa Trung ở Vũ Hán, trở thành Tiến sĩ Kinh tế học vào tháng 12 năm 2008. An Vĩ được kết nạp Đảng Cộng sản Trung Quốc tại trường Hà Nam trước khi tốt nghiệp vào tháng 5 năm 1988, ông từng tham gia khóa bồi dưỡng chính trị kỳ 2 của cán bộ trung, thanh niên giai đoạn tháng 2–6 năm 2001 tại Trường Đảng Tỉnh ủy Hà Nam.
Sự nghiệp
Tháng 6 năm 1991, sau khi hoàn thành chương trình thạc sĩ, An Vĩ được phân về Tỉnh ủy Hà Nam làm cán bộ của Văn phòng nghiên cứu Chính sách tỉnh. Trong giai đoạn này, ông từng được điều về hương Bành Điếm của huyện Yên Lăng để tham gia chương trình huấn luyện cán bộ từ tháng 6 năm 1991 đến tháng 7 năm 1992. Tháng 7 năm 1993, ông được nâng ngạch là cán bộ phó chủ nhiệm của Phòng Tài chính thương mại thuộc Văn phòng nghiên cứu Chính sách, được nâng ngạch cấp chủ nhiệm, công tác ở Phòng Tổng hợp, Phòng Tài chính thương mại giai đoạn 1995–97. Đến cuốn năm 1997, ông được bổ nhiệm làm Trọ lý Điều nghiên viên của Phòng Tổng lớp, rồi Phó Trưởng phòng từ tháng 1 năm 2000 và là Trưởng phòng từ tháng 3 năm 2002. Tháng 11 năm 2005, ông nhậm chức Phó Chủ nhiệm Văn phòng nghiên cứu Chính sách Hà Nam, giữ vị trí này trong gần 4 năm thì được chuyển vị trí làm Phó Tổng thư ký Tỉnh ủy Hà Nam. Tiếp tục công tác ở vị trí này 4 năm, đến tháng 4 năm 2013, An Vĩ nhậm chức Phó Chủ nhiệm thường vụ Văn phòng Công tác Nông thôn Tỉnh ủy Hà Nam, cấp chính sảnh.
Tháng 4 năm 2015, An Vĩ được điều về địa cấp thị Tân Hương, giữ chức Phó Bí thư Thị ủy, kiêm Hiệu trưởng Trường Đảng Thị ủy Tân Hương. Được hơn nửa năm thì ông tiếp tục được thuân chuyển công tác tới một địa cấp thị khác của Hà Nam là Tam Môn Hiệp làm Phó Bí thư Thị ủy, Thị trưởng Tam Môn Hiệp, và giữ cương vị này suốt giai đoạn 2015–21. Đầu năm 2018, ông ứng cử và trúng cử là Đại biểu Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc khóa XIII nhiệm kỳ 2018–23. Tháng 7 năm 2021, ông được điều tới Chu Khẩu làm Bí thư Thị ủy Chu Khẩu, đến tháng 10 cùng năm thì được bầu vào Ủy ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Nam, thăng cấp phó tỉnh, sau đó vào ngày 22 tháng 1 năm 2022 thì được phân công làm Bí thư Thành ủy Trịnh Châu, Bí thư thứ Nhất Đảng ủy Khu Cảnh bị Trịnh Châu, thủ phủ của Hà Nam. Cuối năm 2022, ông là đại biểu của đoàn Hà Nam dự Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XX. Trong quá trình bầu cử tại đại hội, ông được bầu là Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX.
Xem thêm
Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân
Bí thư Tỉnh ủy (Trung Quốc)
Danh sách Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX
Chú thích
Liên kết ngoài
An Vĩ, Mạng Kinh tế nhân dân.
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1966
Người Hán
Người Hà Nam (Trung Quốc)
Cựu sinh viên Đại học Hà Nam
Cựu sinh viên Đại học Lan Châu
Cựu sinh viên Đại học Khoa học và Kỹ thuật Hoa Trung
Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX
|
19143737
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87u%20%E1%BB%A9ng%20g%E1%BB%A3n%20s%C3%B3ng
|
Hiệu ứng gợn sóng
|
Hiệu ứng gợn sóng là một tình huống giống như những gợn sóng mở rộng trên mặt nước được tạo ra khi có một vật thể rơi xuống, một hiệu ứng từ trạng thái ban đầu có thể được lan dần ra bên ngoài.
Hiệu ứng gợn sóng là cách gọi thông tục của multiplier trong kinh tế vĩ mô. Ví dụ, hành vi giảm chi tiêu của người này sẽ làm giảm thu nhập của người và khả năng chi tiêu của họ.
Trong xã hội học, hiệu ứng gợn sóng có thể được quan sát trong tương tác xã hội có thể ảnh hưởng đến các tình huống không liên quan trực tiếp đến tương tác ban đầu, và trong các hoạt động từ thiện nơi thông tin có thể được phổ biến và truyền từ cộng đồng này sang cộng đồng khác để mở rộng tác động của nó.
Khái niệm này đã được áp dụng trong khoa học máy tính trong lĩnh vực đo lường phần mềm như là một thước đo phức tạp.
Ví dụ
Hiệu ứng Weinstein và sự trỗi dậy của phong trào Me Too
Vào tháng 10 năm 2017, theo The New York Times hàng chục cô gái đã lên tiếng việc bị nhà sản xuất phim người Mỹ Harvey Weinstein, cựu sáng lập của Miramax Films và ông chủ của hãng Weinstein, đã sàm sỡ, hiếp dâm, lạm dụng tình dục họ trong khoảng thời gian ba mươi năm.
Ngay sau khi có hơn tám mươi lời buộc tội, Harvey đã bị sa thải khỏi công ty riêng của mình, bị trục xuất khỏi Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật điện ảnh Mỹ và các hiệp hội nghề nghiệp khác, và thậm chí đã nghỉ hưu theo quan điểm của cộng đồng. Những cáo buộc chống lại ông đã dẫn tới hiệu ứng Weinstein, một xu hướng toàn cầu liên quan đến một loạt các cáo buộc sai trái về tình dục đối với những người đàn ông nổi tiếng khác ở Hollywood như Louis CK và Kevin Spacey. Hiệu ứng dẫn đến sự khởi xướng phong trào Me Too gây tranh cãi, nó thúc đẩy mọi người chia sẻ kinh nghiệm họ phải trải qua trong quá khứ về quấy rối hay tấn công tình dục.
Ảnh hưởng của thất nghiệp đến mọi người
Như Cục thống kê lao động Hoa Kỳ lưu ý, khi người lao động mất việc làm, gia đình họ sẽ mất tiền lương, và quốc gia mất đi sự đóng góp của họ cho nền kinh tế, hàng hóa hoặc dịch vụ đáng ra họ có thể được sản xuất được. Người lao động thất nghiệp cũng mất sức mua, việc này có thể dẫn đến thất nghiệp cho những người lao động khác, tạo ra hiệu ứng gợn sóng theo tầng qua nền kinh tế.
Xem thêm
Hiệu ứng bươm bướm
Hiệu ứng Domino
Tham khảo
Quan hệ nhân quả
Độ đo phần mềm
|
19628028
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20GP%20Hungary%202021
|
Chặng đua GP Hungary 2021
|
Chặng đua GP Hungary 2021 (tên chính thức Formula 1 Rolex Magyar Nagydíj 2021) là chặng đua thứ 11 của Giải đua xe Công thức 1 2021. Chặng đua diễn ra từ ngày 30 tháng 07 đến ngày 01 tháng 08 năm 2021 ở trường đua Hungaroring, Hungary. Người chiến thắng là tay đua Esteban Ocon của đội đua Alpine. Đây là chiến thắng F1 đầu tiên trong sự nghiệp của Ocon.
Diễn biến chính
Lewis Hamilton là người giành được vị trí xuất phát đầu tiên.
Ở cuộc đua chính, các tay đua phải xuất phát trên đường ướt. Valtteri Bottas và Lance Stroll không làm chủ được tốc độ đã gây ra tai nạn liên hoàn ở pha xuất phát khiến cho họ cùng với Charles Leclerc, Sergio Pérez và Lando Norris phải bỏ cuộc ngay lập tức, còn Max Verstappen thì chiếc xe bị hỏng nặng. Cuộc đua cũng phải tạm dừng.
Khi cuộc đua bắt đầu trở lại thì đường đua cũng đã khô, trừ Lewis Hamilton thì tất cả các tay đua còn lại đều không tham gia pha xuất phát lại mà quyết định vào pit thay lốp. Phải đến vòng đua tiếp theo Hamilton mới thay lốp nên anh bị tụt xuống cuối đoàn đua. Hai vị trí dẫn đầu lúc này thuộc về Esteban Ocon và Sebastian Vettel, họ đã không bỏ lỡ cơ hội và lần lượt cán đích ở hai vị trí đầu tiên. Hamilton cũng kịp vượt trở lại vị trí thứ 3. Trong quá trình đó, Hamilton phải rất vất vả mới có thể đánh bại Fernando Alonso.
Ở phía sau, do chiếc xe bị hư hỏng nặng nên Verstappen thi đấu rất chật vật chỉ cán đích ở vị trí thứ 9.
Sau chặng đua, Hamilton vươn lên vị trí số 1 trên BXH tổng với 195 điểm. Sebastian Vettel ban đầu cán đích ở vị trí thứ 2 nhưng bị hủy kết quả do không vượt qua được bài kiểm tra nhiên liệu, Hamilton được đôn lên P2, Carlos Sainz jr được đôn lên P3. Bottas và Stroll mỗi người bị phạt 5 bậc xuất phát ở chặng đua tiếp theo.
Kết quả
Nguồn: Trang chủ Formula1
BXH sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin chặng đua GP Hungary trên trang chủ Formula1
Hungary
|
15042568
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%97%20Tri%E1%BA%BFp
|
Hỗ Triếp
|
Hỗ Triếp (chữ Hán: 扈辄; ? - 234 TCN) là tướng nước Triệu cuối thời kỳ Chiến Quốc.
Binh nghiệp
Năm 234 TCN, tướng nước Tần là Hoàn Nghĩ tấn công thành Bình Dương của nước Triệu, Hỗ Triếp tham chiến. Quân Triệu đại bại, quân Tần chém hơn 10 vạn thủ cấp. Hỗ Triếp cũng bị giết chết.
Trong văn hóa
Trong tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc chí của Phùng Mộng Long, Hỗ Triếp lần đầu tiên xuất hiện tại chương 103. Năm 239 TCN, quân Tần do Mông Ngao, Trương Đường, Trường An quân Thành Kiểu, chỉ huy tấn công nước Triệu. Phía Triệu dùng Bàng Noãn làm chủ tướng, Hỗ Triếp làm phó tướng, ngăn quân Tần ở Khánh Đô. Hỗ Triếp theo mưu của Bàng Noãn, dẫn 2 vạn quân đánh chiếm núi Nghiêu, từ trên núi phát cờ hiệu, giúp Bàng Noãn đánh bại Trương Đường, đẩy lui Mông Ngao.
Năm 235 TCN, Tần vương nghe theo kế của Úy Liêu, cử Vương Ngao làm gián điệp ly gián sáu nước. Vương Ngao thuyết phục Ngụy vương cắt ba thành của đất Nghiệp cho Triệu để kết minh, lại dùng hoàng kim hối lộ gian thần Quách Khai của Triệu, yêu cầu Quách Khai thuyết phục Triệu vương đem quân tiếp thu. Triệu Điệu Tương vương tin theo, sai Hỗ Triếp đem 5 vạn quân đến tiếp thu. Tần vương Chính lợi dụng thời cơ, sai Hoàn Nghĩ đánh Nghiệp. Hỗ Triếp ban đầu cố thủ ở núi Đông Cố, liên tục bại lui, phải rút về Nghi An. Quân Tần đánh chiếm chín thành của đất Nghiệp. Triệu vương sợ hãi, mắc bệnh mà chết. Tần vương Chính yêu cầu Hoàn Nghĩ đẩy nhanh tiến công. Hoàn Nghĩ nhân lúc tang, đánh hạ Nghi An, chém Hỗ Triếp cùng hơn 10 vạn thủ cấp, tiến quân áp sát Hàm Đan. Trong lịch sử, sự kiện Hoàn Nghĩ đánh Nghiệp (235 TCN) và chém Hỗ Triếp (234 TCN) xảy ra cách nhau hơn một năm. Hỗ Triếp bị chém đầu ở đất Bình Dương chứ không phải tại Nghi An. Trận Nghi An diễn ra sau trận Bình Dương một năm (233 TCN) và tướng của Triệu bị chém ở Nghi An là một nhân vật không lưu danh trong sử sách.
Trong manga Vương giả thiên hạ của họa sĩ Hara Yasuhisa, Hỗ Triếp là tướng quân trấn thủ Hàm Đan, được người tôn xưng là "Vương đô thủ hộ thần" (王都守护神).
Trong tiểu thuyết Đại Tần vương triều của tác giả Vương Khoa Long, Hỗ Triếp giữ chức quan Hàm Đan úy.
Nhân vật trùng tên
Đầu thời Tây Hán, có một nhân vật cùng mang tên Hỗ Triếp, là tướng dưới trướng Lương vương Bành Việt. Năm 197 TCN, Trần Hi nổi dậy phản Hán, Lưu Bang đến Hàm Đan yêu cầu các chư hầu hội kiến. Bành Việt cáo ốm, chỉ sai Vệ Khư dẫn quân đến, khiến Lưu Bang nổi giận. Hỗ Triếp khuyên Bành Việt nổi dậy nhưng Việt không nghe theo. Thái bộc nước Lương tố cáo Bành Việt, Hỗ Triếp mưu phản. Bành Việt bị Lã hậu tru di.
Tham khảo
Tư Mã Thiên, Sử ký.
Phùng Mộng Long, Đông Chu liệt quốc chí.
Chú thích
Năm sinh không rõ
Mất năm 233 TCN
Nước Triệu
Nhân vật quân sự Chiến Quốc
|
2715688
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Prionapteryx%20ochrifasciata
|
Prionapteryx ochrifasciata
|
Prionapteryx ochrifasciata là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Prionapteryx
|
3644714
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20qu%E1%BB%91c%20gia%20North%20York%20Moors
|
Vườn quốc gia North York Moors
|
North York Moors là một công viên quốc gia ở Bắc Yorkshire, Anh, nó sở hữu một trong những đồng cây thạch nam rộng lớn nhất Vương quốc Anh. Nó bao phủ diện tích (1.430 km²), và có dân số 23.380. North York Moors trở thành vườn quốc gia năm 1952, thông qua Luật vườn quốc gia và tiếp cận Luật vùng đồng quê năm 1949.
Vị trí và vận chuyển
Phía đông khu vực được xác định rõ ràng bởi các vách đá ấn tượng của bờ Biển Bắc. Ranh giới phía Bắc và phía Tây được xác định bởi các sườn núi của ngọn đồi dốc Cleveland bao quanh vùng đất thấp Tees và đồi Hambleton trên Vale of Mowbray. Phía nam nằm ranh giới giữa đồi Tabular và Vale of Pickering.
Có bốn con đường băng qua vùng đồng hoang từ Bắc đến Nam. Ở phía đông đường A171 kết nối Whitby và Scarborough. Vào sâu trong đất liền hơn, đường A169 chạy giữa Pickering và Whitby. Vào gần trung tâm hơn, một con đường nhỏ bắt đầu từ đường A170 tại Keldholme và đi qua Castleton trước khi kết nối với đường A171 nối Whitby và Guisborough. Tuyến đường xa nhất về phía tây là B1257 nối Helmsley đến Stokesley. Đường A170 từ Thirsk đến Scarborough đánh dấu ranh giới phía nam của vùng đồng hoang.
Đường Esk Valley là một đường sắt đông-tây kết nối Whitby với bắc Middlesbrough và đường tàu hơi nước phía Bắc Yorkshire Moors đường sắt hơi nước chạy từ Pickering đến Grosmont có đi qua Whitby.
Địa lý
North York Moors bao gồm một cao nguyên đồng hoang, giao nhau bởi một số thung lũng sâu hoặc thung lũng đất trồng hoặc rừng. Thung lũng lớn nhất là Eskdale, thung lũng có sông Esk chảy từ tây sang đông và đổ vào Biển Bắc tại Whitby. Đồi Cleveland mọc lên ở phía bắc Eskdale. Ở cuối phía tây của thung lũng Eskdale chia thành ba thung lũng nhỏ, Westerdale (thượng thung lũng), Baysdale và Commondale. Một loạt các đồi bên cạnh hướng vào Eskdale từ đồng hoang bên phía nam, từ tây sang đông gồm thung lũng Danby Dale, thung lũng Tiểu Fryup, thung lũng Đại Fryup, thung lũng Glaisdale và thung lũng Goathland. Kildale, phía tây của Commondale và chỉ cách nhau một bước ngoặt thấp, có dòng chảy của sông Leven, chảy về phía tây để nối vào sông Tees.
Phía nam của vùng đồng hoang được phân định bởi một loạt các thung lũng đó chảy vào các sông nhánh của sông Derwent. Thung lũng xa nhất về phía tây là thung lũng Rye, phía tây của nó là đồi Hambleton. Bilsdale là một thung dũng bên cạnh thung lũng Rye. Phía đông của thung lũng Bilsdale, Bransdale, Farndale, Rosedale và Newton là những cánh đồng hoang. Ở phía đông nam, cảnh quan được đánh dấu bởi các thung lũng hẹp có thượng nguồn sông Derwent và các nhánh trên của nó.
Khoảng 22 phần trăm của Moor North York được bao phủ bởi rừng (chủ yếu nằm ở phía tây nam và đông nam), tương đương với hơn 300 cây số vuông diện tích cây. Đây là nơi tập trung nhiều cây cổ thụ nhất ở miền bắc nước Anh.
Khí hậu
Là một phần của Vương quốc Anh, khu vực North York Moors thường có mùa hè ấm áp và mùa đông ôn hoà. Điều kiện thời tiết thay đổi từ ngày này sang ngày khác cũng như từ mùa này sang mùa khác. Vĩ độ của khu vực này có cho thấy nó chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió tây với áp thấp, mang theo thời tiết không ổn định và nhiều gió, đặc biệt là vào mùa đông. Giữa áp thấp thường có xoáy nghịch di động nhỏ mang lại những giai đoạn thời tiết tốt. Vào mùa đông xoáy nghịch mang đến thời tiết khô lạnh. Trong mùa hè xoáy nghịch có xu hướng mang lại điều kiện khô dài nên có thể dẫn đến hạn hán. Đối với vĩ độ của khu vực này, là mùa đông ôn hoà và mùa hè mát do ảnh hưởng của hải lưu Gulf Stream ở Bắc Đại Tây Dương. Nhiệt độ không khí thay đổi trên theo ngày và theo mùa. Nhiệt độ thường thấp vào ban đêm và tháng Giêng là thời điểm lạnh nhất trong năm. Sự thay đổi nhiệt độ ở các vị trí khác nhau trong khu vực là do thay đổi vĩ độ.
Lượng tuyết rơi thay đổi từ năm này sang năm khác, nhưng trung bình khu vực này bị tuyết nhiều hơn so với các vùng khác của đất nước. Tuyết lớn thường gắn liền với gió đông bắc từ biển Bắc.
Thống kê trung bình là:
100 ngày ướt
215 ngày khô
50 ngày có tuyết
lượng mưa từ gần bờ biển
lượng mưa từ ở đất liền
nhiệt độ mùa hè từ
nhiệt độ mùa đông từ
Các đồi
Kinh tế
Nền kinh tế của khu vực này dựa vào du lịch và nông nghiệp.
Nông nghiệp
Trong vòng hơn một ngàn nền kinh tế trụ cột của North York Moors là nông nghiệp. Cảnh nông thôn, nơi thu hút hàng triệu du khách đến công viên mỗi năm, đã được hình thành và duy trì bởi các thế hệ của người nông dân. Tổng điều tra nông nghiệp năm 1996 ghi nhận 2.913 nhân công làm việc trên 1.342 trang trại. Cừu và gia súc là nguồn cung thu nhập chính của trang trại. Các trang trại có quyền chăn thả cừu trên đồng hoang. Quyền chăn thả trên đồng hoang rất quan trọng với các trang trại. Trong những năm gần đây nông nghiệp ở Anh đã phải chịu nhiều thất bại kinh tế và khả năng tồn tại của chăn nuôi nuôi đồi đã trở thành vấn đề. Một số đề án môi trường để nâng cao thu nhập của nông dân đã được đặt ra nhưng ngành công nghiệp này vẫn tiếp tục giảm.
Vành đai núi đá vôi phía nam có đất nông nghiệp phong phú hơn, nơi có những trang trại trồng trọt hỗn hợp và cả các trang trại chăn nuôi. Các loại cây trồng chính là lúa mạch, lúa mì, hạt cải dầu, khoai tây và củ cải đường. Ngoài ra còn có chăn nuôi lợn và gia cầm.
Du lịch
Nhiều du khách đến các vùng đồng hoang tham gia vào các hoạt động ngoài trời, đặc biệt là đi bộ; công viên có một mạng lưới đường đi bộ dài gần 2.300 km, và hầu hết các khu vực đồng hoang có thể được tiếp cận tự do theo Quyền đường đi ở đồng quê năm 2000. Những đường nổi tiếng gồm Cleveland, mạng kết nối các vùng đồng hoang theo đường vòng tròn, và có một phần dọc theo bờ biển; và đường Lyke Wake Walk, nối qua trung tâm của vùng đồng hoang. Tuyến đường The White Rose Way, đường đi bộ dài từ Leeds tới Scarborough,Bắc Yorkshire cũng đi qua. Cũng có thể đạp xe, cưỡi ngựa trong khu vực này, bao gồm đường cưỡi ngựa dài xung quanh North York Moors có thể được tiếp cận từ một số khu vực. Các vách dốc mà ở 3 mặt viền của vườn được sử dụng bởi nhiều câu lạc bộ trượt.
Giải trí
Vùng đồng hoang không có nhiều thay đổi trong vòng 50 năm gần đay, và thường được sử dụng làm nền cho các chương trình và các bộ phim truyền hình của Anh. Phim Heartbeat và cảnh Hogsmeade Station trong phim Harry Potter được quay tại Goathland. Nhiều hình thức giải trí trong suốt cả năm bao gồm các buổi hòa nhạc ngoài trời được tổ chức tại rừng Dalby.
Thị trấn
Có rất ít các khu định cư lớn trong hoặc xung quanh vườn quốc gia, gồm: Helmsley, Pickering, Kirkbymoorside, Guisborough, Stokesley, Northallerton và Whitby. Vùng đồng hoang cách trung tâm Middlesbrough và Scarborough 20 phút lái xe. Các thị trấn nhỏ:
Kilburn
Castleton
Goathland
Grosmont
Helmsley
Hutton-le-Hole
Osmotherley
Pickering
Vịnh Robin Hood
Swainby
Danh lam thắng cảnh
Trung tâm quốc tế chim săn mồi, công viên Duncombe
Đường sắt North Yorkshire Moors
Tu viện Byland
Rừng Dalby
Đường đi bộ đường dài quốc gia Cleveland
Đường đi bộ đường dài Lyke Wake Walk
Forge Valley NNR (national nature reserve)
Farndale LNR (local nature reserve)
Lâu đài Helmsley
Bảo tàng dân gian Ryedale Hutton-le-Hole
Trung tâm bảo tồn động vật hoang dã Yorkshire: Ashberry Pastures, Ellerburn Bank, Fen Bog, Garbutt Wood, Hayburn Wyke, Little Beck Wood.
Tu viện Rievaulx
Sông Seven, sông Dove, sông Rye, sông Seph, sông Esk
Tu viện Rosedale Abbey
Không thuộc vườn quốc gia nhưng ở gần:
Lâu đài Howard
Bảo tàng Eden Camp
Công viên chủ đề và vườn thú Đất Hạc
Tu viện Whitby
Tham khảo
Vườn quốc gia Anh
|
19505074
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bhava
|
Bhava
|
Từ tiếng Phạn bhava (भव, hữu) có nghĩa là sự tồn tại, sự tồn tại thuộc về trần tục, sự trở thành, sự là, nguồn gốc cũng mang nghĩa là những xu hướng của thói quen hoặc của cảm xúc.
Ấn độ giáo
Bhava xuất hiện theo nghĩa là sự trở thành, hiện hữu, tồn tại, diễn ra, hiện ra, trong văn bản Vedanga như Srauta Sutra, Áo nghĩa thư như Áo nghĩa thư Shvetashvatara, Mahabharata và các văn bản Hindu cổ khác.
Phật giáo
Trong Phật giáo, bhava là một khái niệm có nguồn gốc từ tiếng Phạn có nghĩa là hữu, sự tồn tại, sự tồn tại thuộc về trần tục, sự trở thành, sự là, nguồn gốc, kinh nghiệm, theo nghĩa về sự tái sanh và sự lặp lại cái chết, bởi vì một cá thể bị ảnh hưởng và bị tác động bởi sự tích lũy của nghiệp lực; nhưng cũng mang nghĩa là những xu hướng của thói quen hoặc của cảm xúc.
Hữu là liên kết thứ 10 trong 12 liên kết của thuyết Duyên khởi (pratītyasamutpāda), là thuyết mô tả vòng sinh tử luân hồi - là vòng lặp của những phản ứng theo thói quen về những ấn tượng của giác quan. Chính hữu là nguyên nhân dẫn đến sự sinh (liên kết thứ 11). Sự sinh thường được dịch là sự tái sinh trong một trong các cõi luân hồi, cụ thể là cõi trời, cõi A-tu-la, cõi người, cõi súc sanh, cõi ngạ quỷ và cõi địa ngục dựa theo vũ trụ học Phật giáo. Trong Phật giáo Thái Lan, hữu còn được dịch là những xu hướng của thói quen hoặc của cảm xúc - là cái dẫn đến sự sinh khởi của bản ngã, như là một hiện tượng của tâm trí.
Trong bản sinh kinh, Đức Phật nhắc lại một cách mô phạm với nhiều vị tỳ kheo về những trải nghiệm mà họ đã chia sẻ cùng với ngài trong một đời sống ở quá khứ, những người nghe được cho rằng không nhớ về những trải nghiệm đó bởi do hữu (bhava), cụ thể là do việc tái sinh.
Nguồn tham khảo
Thuật ngữ tiếng Phạn
|
19703197
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81m%20%E1%BA%A3nh%20xanh
|
Ám ảnh xanh
|
Ám Ảnh Xanh là một bộ phim truyền hình dài 36 tập sản xuất năm 2009, là phần tiếp nối từ bộ phim dài 10 tập "Ba lần và một lần" của đạo diễn Trần Vịnh; cả hai bộ phim đều dựa theo những vở kịch cùng tên của tác giả Chu Lai.
Sản xuất và phát sóng
Bộ phim khởi quay vào ngày 10 tháng 9 năm 2009, do Chi nhánh Hãng phim Truyện Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh sản xuất. Phim có kinh phí 7 tỷ đồng và dự kiến phát sóng trên VTV1 vào tháng 3-2010, với bối cảnh chính tại TP.HCM, Hà Nội, Vũng Tàu, Mũi Né.
Bộ phim được phát sóng lần đầu trên kênh VTV1 từ ngày 8/3-15/6/2010, trên khung giờ mặc định với độ dài 36 tập.
Nội dung
Sơ lược và tiếp tục câu chuyện trong bộ phim "Ba lần và một lần", lấy bối cảnh những năm 1995 (20 năm kể từ ngày thống nhất đất nước); nhân vật chính của bộ phim là 3 cựa chiến binh từng là đồng đội nay những con người với lý tưởng và cách hành xử riêng.
Sau chiến tranh, Năm Thành với sự mưu mẹo và các mối quan hệ đã vươn lên trở thành giám đốc công ty liên doanh, những cung là một trùm xã hội đen tàn nhẫn. Tong khi Sáu Nguyện trở về với cuộc sống lặng lẽ nơi rừng núi với những vết thương và ký ức đau buồn của cuộc chiến. Út Thêm, từng là cấp dưới của Sáu Nguyện nay đã trở thành Thiếu tá công an.
Trong suốt 20 năm, Sáu Nguyện chưa quên chuyện Năm Thành từng có ý đồ đào ngũ và đã cướp mất người phụ nữ ông yêu, mâu thuẫn giữa hai người đàn ông ngày càng lớn khi việc làm ăn Năm Thành ảnh hưởng đến cuộc sống của Sáu Nguyện cũng như không ít cựu chiến binh khác. Sáu Nguyện miệt mài tìm hiểu, thu thập bằng chứng tố giác các Năm Thành nhưng mọi nỗ lực của ông hầu như đã không không thành công. Bỏ qua sự khuyên nhủ của Út Thêm, Sáu Nguyện quyết định tự tìm đến Năm Thành để giải quyết mọi ân oán. Cuộc đối đầu của thế hệ trước khiến lớp con cháu đứng giữa chịu ảnh hưởng.
Đón nhận
Với một số tình tiết lặp lại cũng như hệ thống nhân vật không thay đổi trong "Ba lần và một lần", bộ phim khiến không ít khán giả lầm tưởng đây là bản làm lại của "Ba lần và một lần". Đây cũng là lí do chính kiến bộ phim không có ảnh hưởng hay ấn tượng lớn trong quá trình phát sóng.
Có ý kiến cho rằng Ám ảnh xanh đã thành công khi miêu tả nhân vật Năm Thành với tính cách hai chiều, nhưng mảng sáng của nhân vật chỉ như những phẩm chất mà các biên kịch cố gán cho nhân vật. Một nhân vật còn đầy hoài niệm với quá khứ như lại quyết tâm xây dựng công trình trên mảnh đất còn ngổn ngang hài cốt của đồng đội cũ, mặc cho có người đã ngăn cản, thậm chí hăm dọa là không thuyết phục.
Tình tiết phim được đánh giá là dài dòng với các cảnh đối thoại của hai nhân vật nam chính, những cảnh diễn thiếu hấp dẫn và gây cảm giác nặng nề.
Nhận định tích cực về bộ phim khi động chạm đến vấn đề tham nhũng, liên hệ đến các vụ án có thực.
Diễn viên
Thu Hương vai thiếu tá Út Thêm
Thái Bảo vai Tư Chao
Quốc Anh vai Năm Thành
Tiến An vai Sáu Nguyện
ca sĩ Tuấn Khang vai Cầu
diễn viên múa Thu Hằng vai Lan Thanh
Tham khảo
Chú thích
|
2648604
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rheumaptera%20tangens
|
Rheumaptera tangens
|
Rheumaptera tangens là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Rheumaptera
|
3350377
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Iopromide
|
Iopromide
|
Iopromide là một thuốc cản quang có áp lực thẩm thấu thấp, không ion hóa, được nghiên cứu và phát triển bởi Bayer HealthCare Pharmaceuticals, được dùng để tiêm tĩnh mạch giúp quá trình chẩn đoán bệnh lý dễ dàng và chính xác hơn.
Nó được bán trên thị trường dưới tên Ultravist được sản xuất bởi Bayer Healthcare. Nó thường được sử dụng trong các chẩn đoán X quang các bộ phận trong hệ tiết niệu như thận, niệu quản, bàng quang, Chụp cắt lớp vi tính não (CT) và Chụp cắt lớp vi tính mạch máu phổi (CTPAs).
Ghi chú
Liên kết ngoài
Bayer Schering Pharma global Ultravist Website
Chẩn đoán hình ảnh y khoa
|
3122650
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thommo%20Reachea%20III
|
Thommo Reachea III
|
Thommo Reachea III (Ang Tham; tiếng Việt: Nặc Ông Thâm 匿螉深) (1690-1747) là vua Chân Lạp các giai đoạn 1702-1704, 1707-1714, 1736-1747. Tên húy là Ang Tham. Hiệu là "Sri Dharmaraja III" và sau đó là "Chey Chettha VI".
Tiểu sử
Ang Tham là con trai của vua Chey Chettha IV. Ang Tham là chính vương, cùng cai trị Chân Lạp với người bà con phó vương Ang Em (Ông Yêm).
Năm 1708, Ang Tham (Nặc ông Thâm) phải cầu viện quân Xiêm La để chống lại cuộc đảo chính của Ang Em (Nặc ông Yêm). Ang Em thua chạy sang Gia Đinh cầu xin hỗ trợ của chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn sai quan cai cơ là Nguyễn cửu Vân sang đánh Ang Tham. Nguyễn cửu Vân sang phá được quân Xiêm La; đem Ang Em về thành La-bích. Từ đó Ang Tham ở Xiêm La cứ thỉnh-thoảng đem quân về đánh Ang Em.
Sách Việt Nam sử lược chép:Năm Giáp Ngọ (1714), quân của Nặc Ông Thâm đến lấy thành La Bích và vây đánh Nặc Ông Yêm nguy cấp lắm. Ông Yêm sai người sang Gia Định cầu cứu. Quan đô đốc Phiên Trấn (Gia Định) là Trần Thượng Xuyên và quan phó tướng Trấn Biên (Biên Hòa) là Nguyễn Cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm ở trong thành La Bích. Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm sợ hãi, bỏ thành chạy sang Tiêm la (Xiêm). Bọn ông Trần Thượng Xuyên lập Nặc Ông Yêm lên làm vua Chân Lạp...…Năm 1715, Trần thượng Xuyên lập Nặc ông Yêm lên làm vua Chân-lạp.
Tháng 2 năm 1715, Nặc Thâm dẫn quân Xiêm đến cướp Hà Tiên. Bấy giờ Hà Tiên không có phòng bị. Quân Xiêm thình lình tới, Tổng binh là Mạc Cửu chống không được, chạy giữ đất Luống Cày. Nặc Thâm cướp hết của cải đem đi. Cửu về Hà Tiên, đắp thành đất, đặt xích hậu xa để làm kế phòng thủ.
Năm 1748, Nguyễn Hữu Doãn đi đánh Chân Lạp. Trước là Nặc Tha (con Nặc Yêm) nước Chân Lạp lên ngôi vua. Nặc Thâm từ nước Xiêm về, Tha không chịu nhận. Thâm cử binh đánh. Tha chạy sang Gia Định. Thâm liền chiếm lấy đất. Đến khi Thâm chết, con là Đôn, Hiên, Yếm (tên ba người) tranh nhau làm vua. Bề tôi là Sô Liên Tốc nhân nổi lên cướp phá Mỹ Tho. Hữu Doãn đem quân tiến đánh, Sô Liên Tốc thua to. Hữu Doãn đốt hết chiến thuyền, thừa thắng đến thẳng Nam Vang. Đôn, Hiên và Yếm đều trốn chạy. Hữu Doãn báo tin thắng trận.
Gia đình
Năm 1706 lấy Jaya Kshatriyi và có
Hoàng tử Ang Em (Ông Yếm, khác với Ang Em là Ông Yêm), sau làm vua xưng là Thommo Reachea IV.
Hoàng tử Ang Snguon (Ông Nguyên), sau làm vua xưng là Chey Chettha VII.
Năm 1738 lấy chị họ là công chúa Ek Kshatriyi và có
Hoàng tử Ang Chan (Ông Chân) (1707-1743) (có hai con là Ang Tong (trùng tên với Ang Tong) và Ang At).
Lấy Mam Rat và có
Hoàng Tử Ang Hing (Ông Hiên) sinh năm 1731, giết anh trai Thommo Reachea IV, bản thân lại bị giết bởi Ang Tong.
Hoàng tử Ang Duong bị ám sát năm 1769. Là cha của hoàng tử Ang Thnoam (sinh năm 1755 bị xử tử năm 1777).
Xem thêm
Lịch sử Campuchia
Lịch sử Campuchia (1431-1863)
Tham khảo
Vua Campuchia
Mất năm 1747
|
14626266
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Willie%20Gould
|
Willie Gould
|
William Gould (sinh năm 1886) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ và tiền đạo.
Sự nghiệp
Sinh ra ở Burton, Gould thi đấu cho Glossop, Bradford City và Manchester City.
Đối với Bradford City ông có 18 lần ra sân ở Football League.
Đối với Manchester City ông có 8 lần ra sân ở Football League.
Nguồn
Tham khảo
Sinh năm 1886
Năm mất thiếu
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá Glossop North End A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Bradford City A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ bóng đá English Football League
Tiền vệ bóng đá
Tiền đạo bóng đá
Vận động viên Burton upon Trent
|
3340045
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kalisto
|
Kalisto
|
Kalisto có thể là:
Kalisto (đô vật), nam đô vật chuyên nghiệp người Mexico-Mĩ
|
3705916
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Midnight%2C%20Texas
|
Midnight, Texas
|
Midnight, Texas là bộ phim truyền hình Mỹ được phát sóng trên NBC vào khoảng thời năm 2016-17. Bộ phim được công bố vào ngày 13 năm 2016. Midnight, Texas được dựa trên bộ truyện cùng tên của tác giả Charlaine Harris viết về những bí ẩn Ma cà rồng Phía nam, dựa theo True Bllod. Bộ truyện được đặt ra mắt ngày 24 tháng 7 năm 2017. Vào ngày 14 tháng 02 năm 2018, NBC tiếp tục mùa thứ hai của bộ phim.
Diễn viên
Chính
François Arnaud trong vai Manfred Bernardo, nhà ngoại cảm chuyển tới Midnight để chạy trốn khỏi rắc rối đang theo anh.
Dylan Bruce trong vai Bobo Winthrop, chủ cửa hàng cầm đồ, người cho Lemuel, Olivia và Manfred thuê nhà và cũng là best friend của Fiji.
Trường Fitz-Henley trong vai Fiji Cavanaugh, phù thủy, người sở hữu tiệm phép thuật ở Midnight và phải đấu tranh với việc chấp nhận quyền năng của mình.
Arielle Kebbel trong vai là Olivia, sát thủ tự do cùng những bí mật cũng nhiều như số súng mà cô có, là người yêu của Lemuel.
Jason Lewis trong vai Joe Strong, một thiên thần sa ngã với lời tiên tri rằng bóng tối sẽ tiến đến Midnight, là chồng của Chuy -người nhắc nhở anh không được tiết lộ thân phận thiên thần của mình cho người khác.
Peter Mensah trong vai Lemuel "Lem" Bridger, một ma cà rồng với quá khứ đen tối, người đầu tiên đến Midnight vào những năm 1950s và không bao giờ rời khỏi đây, người yêu của Olivia.
Sarah Ramos trong vai Creek, cô hàng xóm xinh đẹp là một bồi bàn và nhân viên trạm xăng, người yêu của Manfred, dù cho cha cô luôn phản đối.
Yul Vo trong vai Reverend Emilio Sheehan, một người hổ trầm lặng, chủ của Nhà Thờ Lễ Đường và Nghĩa Trang Thú, bảo hộ cho những người dân Midnighters.
Vai khách mời
Xylda (Joanne Camp), cựu bà đồng và là người bà đã chết của Manfred, xuất hiện như một con ma để đồng hành và trông coi anh.
Madonna Reed (Kellee Stewart), một người bảo vệ mạnh mẽ của những cư dân Midnighters, là bồi bàn và phục vụ quầy rượu ở Midnight's Home Cookin' diner.
Chuy Strong (Bernardo Saracino), một á quỷ và cùng với chồng mình, Joe, sợ những người khác biết được chân tướng của mình.
Shawn Lovell (Bob Jesser), chủ của Midnight's Gas 'N Go, một người cha bảo vệ con của mình quá mức và không tin tưởng vào Manfred.
Connor Lovell (John-Paul Howard), em trai của Creek, cùng chị mình bảo vệ lẫn nhau. Cậu có những bí mật riêng để che giấu.
Mr. Snuggly (Joe Smith), con mèo biết nói quen thuộc của Fiji, trước kia từng thuộc về dì của cô là Mildred.
Tập
Sản xuất
Phát triển
Vào tháng 10 năm 2015, có thông báo rằng NBC đang phát triển series phim Midnight, Texas dựa trên sách bán chạy của Charlaine Harris 'best-selling Midnight, Texas for the fall of 2016. Monica Owusu-Breenis vào mùa xuân 2016. Monica Owusu-Breenis sẽ viết nội dung và phục vụ như một EP bên cạnh David Janollari. Vào tháng 01 năm 2016, có thông báo chính thức rằng NBC đã thu xếp nội dung của bộ phim, với Niels Arden Oplev để chỉ đạo nội dung và sản xuất.
Bộ phim được đưa vào sản xuất vào ngày 13 tháng 05 năm 2016 và sẽ dự định sẽ bao gồm 13 tập.
Vào ngày 14 tháng 02 năm 2018, NBC thông báo sẽ tiếp tục mùa thứ hai của bộ phim.Cùng với thông báo đó, người chạy show Monica Owusu-Breen cũng sẽ được thay thế bởi Nicole Snyder và Eric Charmelo, đều là những cố vấn sản xuất của mùa 1.
Casting
Vào cuối tháng 06, có thông báo rằng Jason Lewis quảng bá cho một series đã được viết kịch bản với tư cách diễn viên khách mời đóng vai Joe Strong. Vào ngày 11 tháng 01 năm 2017, Bob Jesser được xác nhận sẽ vào vai Shawn Lovell, người cha luôn bảo vệ con gái mình là Creek.
Ngày 26/07/2017, có thông báo rằng Breeda Wool sẽ xuất hiện trong một tập phim với vai Bowie, được miêu tả là một "chiến binh thiên thần quyền lực và ghê gớm."
Cùng với thông báo phim được tiếp tục, có thông báo xác nhận rằng Yul Vazquez và Sarah Ramos sẽ không quay lại bộ phim trong mùa Hai.
Quay phim
Phim được quay vào tháng 04 năm 2016 ở Albuquerque và Las Vegas, New Mexico. Phần còn lại của mùa đầu tiên cũng diễn ra ở Santa Fe, Bernalillo và Belen, thuê hơn 450 thành viên đội ngũ ở New Mexico và khoảng 1,800 diễn viên quần chúng New Mexico. Bộ phim đóng máy vào tháng 02 năm 2017. Phần lớn cảnh quay được quay vào buổi tối và một lần là 7 hoặc 8 giờ sáng, năm lần một tuần.
Marketing
Trailer chính thức của bộ phim ra mắt vào ngày 20 tháng 03 năm 2017.
Sự đón nhận
Phản ứng của giới phê bình
Trang web review Rotten Tomatoes báo cáo có 60% đánh giá ủng hộ với đánh giá trung bình là 5.3/10 dựa trên 25 đánh giá. Metacritic, quy số điểm là 50 trên 100, dựa trên 16 đánh giá, biểu thị "đánh giá hỗn hợp và trung bình."
Ratings
Tham khảo
Đường dẫn ngoài
Midnight, Texas on IMDb.
Chương trình truyền hình tiếng Anh
Chương trình mạng NBC
Chương trình sắp phát sóng
Phim truyền hình Mỹ thập niên 2010
Ma cà rồng trên truyền hình
Thuật phù thủy trên truyền hình
Chương trình truyền hình của Universal Television
|
2621773
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hirasa%20tulla
|
Hirasa tulla
|
Hirasa tulla là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hirasa
|
2764003
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phyllomyia%20dubia
|
Phyllomyia dubia
|
Phyllomyia dubia là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phyllomyia
|
11505264
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anderson%20Silva
|
Anderson Silva
|
Anderson da Silva (sinh ngày 14 tháng 4 năm 1975) là một võ sĩ MMA người Brazil và cựu vô địch UFC Middleweight. Silva đã giữ được danh hiệu này lâu nhất trong lịch sử UFC, kết thúc vào năm 2013 sau 2.457 ngày, với 16 trận thắng liên tiếp và 10 trận bảo vệ chức vô địch. Anh ta được 13 lần tiền thưởng sau các trận đấu, nhiều hạng nhì trong lịch sử UFC . Chủ tịch UFC Dana White và một số ấn phẩm võ thuật khác đã gọi Silva là võ sĩ MMA tài giỏi nhất của mọi thời đại . Anh hiện đang đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng chính thức UFC middleweight .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Official UFC Profile
|-
Nhân vật còn sống
Vô địch Ultimate Fighting Championship
Sinh năm 1975
|
2790606
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Conopyge%20cinctipes
|
Conopyge cinctipes
|
Conopyge cinctipes là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Conopyge
|
2907780
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agrotis%20benefida
|
Agrotis benefida
|
Agrotis benefida là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
B
|
2662644
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trichopterigia%20consobrinaria
|
Trichopterigia consobrinaria
|
Trichopterigia consobrinaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Trichopterigia
|
3158803
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Roy%20J.%20Glauber
|
Roy J. Glauber
|
Roy Jay Glauber (1 tháng 9 năm 1925 – 26 tháng 12 năm 2018) là nhà vật lý người Mỹ. Ông được trao Giải Nobel Vật lý vào năm 2005 do những đóng góp của ông cho lý thuyết lượng tử của tính kết hợp quang. Ông là người đề nghị sử dụng lý thuyết lượng tử để mô tả ánh sáng laser. Năm 1963, Glauber đã phát triển một phương pháp nhằm áp dụng sự lượng tử hóa điện từ trường để hiểu chính xác các kết quả thực nghiệm quang học như sự tách sóng quang điện. Nhờ lý thuyết đó, ông đã chứng minh được rằng sự bó mà Robert Browm Hanbury và Michael Twiss phát hiện ra chẳng qua chỉ là một hệ quả tự nhiên từ bản chất ngẫu nhiên của bức xạ nhiệt. Công trình của Glauber đã đặt cơ sở cho những phát triển trong tương lai trong lĩnh vực mới là quang học lượng tử.
Chú thích
Sinh năm 1925
Mất năm 2018
Nhà vật lý Mỹ
Người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel
Cựu sinh viên Đại học Harvard
Người đoạt giải Nobel Vật lý
|
3234428
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Deomyinae
|
Deomyinae
|
Phân họ Deomyinae chứa 04 chi chuột với 54 loài trong họ chuột Muridae
Các loài
Phân họ Deomyinae
Chi Acomys -
Acomys airensis
Acomys cahirinus
Acomys chudeaui
Acomys cilicicus
Acomys cineraceus
Acomys dimidiatus
Acomys ignitus
Acomys johannis
Acomys kempi
Acomys louisae
Acomys minous
Acomys mullah
Acomys nesiotes
Acomys percivali
Acomys russatus
Acomys seurati
Acomys spinosissimus
Acomys subspinosus
Acomys wilsoni
Chi Deomys
Deomys ferrugineus
Chi Lophuromys
Phân chi Kivumys
Lophuromys luteogaster
Lophuromys medicaudatus
Lophuromys woosnami
Phân chi Lophuromys
Lophuromys angolensis
Lophuromys ansorgei
Lophuromys aquilus
Lophuromys brevicaudus
Lophuromys brunneus
Lophuromys chercherensis
Lophuromys chrysopus
Lophuromys dieterleni
Lophuromys dudui
Lophuromys eisentrauti
Lophuromys flavopunctatus
Lophuromys huttereri
Lophuromys kilonzoi
Lophuromys laticeps
Lophuromys machangui
Lophuromys makundii
Lophuromys margarettae
Lophuromys melanonyx
Lophuromys menageshae
Lophuromys nudicaudus
Lophuromys pseudosikapusi
Lophuromys rahmi
Lophuromys rita
Lophuromys roseveari
Lophuromys sabunii
Lophuromys sikapusi
Lophuromys simensis
Lophuromys stanleyi
Lophuromys verhageni
Lophuromys zena
Chi Uranomys
Uranomys ruddi
Tham khảo
Chevret, P., C. Denys, J.-J. Jaeger, J. Michaux, AND F. M. Catzeflis. 1993. Molecular evidence that the spiny mouse (Acomys) is more closely related to gerbils (Gerbillinae) than to the true mice (Murinae). Proceedings of the National Academy of Sciences USA, 90:3433-3436.
Jansa, S. A. and M. Weksler. Phylogeny of muroid rodents: relationships within and among major lineages as determined by IRBP gene sequences. Molecular Phylogenetics and Evolution, 31:256-276.
Michaux, J., A. Reyes, and F. Catzeflis. 2001. Evolutionary history of the most speciose mammals: molecular phylogeny of muroid rodents. Molecular Biology and Evolution, 17:280-293.
Steppan, S. J., R. A. Adkins, and J. Anderson. 2004. Phylogeny và divergence date estimates of rapid radiations in muroid rodents based on multiple nuclear genes. Systematic Biology, 53:533-553.
Họ Chuột
|
2658728
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stamnodes%20morrisata
|
Stamnodes morrisata
|
Stamnodes morrisata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Stamnodes
|
13645989
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alexia%20Viruez
|
Alexia Viruez
|
Alexia Viruez (sinh ngày 04 tháng 5 năm 1994) là một thí sinh của cuộc thi sắc đẹp và người mẫu Bolivia được trao vương miện Hoa hậu Bolivia 2012 và đại diện cho đất nước của mình tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2013.
Tiểu sử
Lớn lên ở Santa Cruz, Bolivia, Alexia Viruez hiện đang nghiên cứu tâm lý học tại UDABOL (Universidad de Aquino Bolivia). Khi cô được 9 tuổi, Alexia được trao học bổng người mẫu, bắt đầu sự nghiệp người mẫu hiện tại của cô. Cô đam mê âm nhạc, nghệ thuật và sân khấu, mong muốn được trình diễn trên những sàn catwalk nổi tiếng nhất trên thế giới.
Các cuộc thi
Hoa hậu Bolivia 2012
Viruez thi đấu trong cuộc thi Hoa hậu Bolivia năm 2012, cuộc thi mà cô trở thành người chiến thắng và giành được quyền đại diện cho Bolivia tham gia cuộc thi Reina Hispanoamericana 2012 và Hoa hậu Hoàn vũ 2013.
Reina Hispanoamericana 2012
Viruez đại diện cho Bolivia tham gia cuộc thi Reina Hispanoamericana 2012 được tổ chức tại quê nhà Santa Cruz, cuộc thi mà cô này kết thúc với tư cách là Á hậu 1.
Hoa hậu Hoàn vũ 2013
Viruez sau đó tiếp tục đại diện cho Bolivia tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2013 vào ngày 9 tháng 11 năm 2013 được tổ chức tại Moskva, Nga. Mặc dù được coi là một ứng viên sáng giá cho danh hiệu - một ứng viên nặng ký, cô ra về mà không được xếp hạng do thua trong phần thi bán kết.
Tham khảo
Hoa hậu Bolivia
Người Bolivia
Sinh năm 1994
Nhân vật còn sống
|
13743675
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kosmos%20146
|
Kosmos 146
|
Kosmos 146 là tiền thân của vệ tinh thử nghiệm của Liên Xô đối với dòng Zond, được phóng từ sân bay vũ trụ Baikonur trên một tên lửa Proton K. Tàu vũ trụ được thiết kế để khởi động một phi hành đoàn từ Trái Đất để tiến hành một lần bay sát Mặt Trăng và trở về Trái Đất. Trọng tâm chính là một chuyến bay hình số 8 vòng qua Mặt Trăng của Liên Xô, giúp thu thập thông tin của Mặt Trăng, và cũng cho thấy quyền lực của Liên Xô. Cuộc thử nghiệm chạy từ chương trình Zond từ 1967-1970, đã tạo ra nhiều thất bại trong các hệ thống tái nhập cảnh vào khí quyển của 7K-L1. Các phiên bản 7K-L1 còn lại bị loại bỏ, cuối cùng được thay thế bằng Soyuz 7K-L3
Mục tiêu
Có những ý kiến khác nhau về các mục tiêu và thành công của sứ mệnh "Kosmos-146". Hầu hết các nguồn tin báo cáo rằng Kosmos 146 đạt được vận tốc thoát ra khỏi Trái Đất. Mục tiêu của Kosmos-146 không thể là quay quanh Mặt Trăng, vì thời gian và địa điểm phóng đã không cho phép một quỹ đạo như vậy.
Các động cơ của Block D không được bắt đầu ngay lập tức, nhưng chỉ sau khi khoảng 8 quỹ đạo được hoàn thành, điều đó là không bình thường. Được biết một số người cho rằng có những người suy đoán rằng sự chậm trễ này hoặc là có nghĩa là để mô phỏng sự xuất hiện của một phi hành đoàn được phóng lên riêng biệt tại tàu vũ trụ Soyuz hay không.
Cuộc đua Mặt Trăng
Vào thời điểm thiết bị được đưa ra, Hoa Kỳ đã có các tàu vũ trụ được đưa vào quỹ đạo Mặt Trăng theo nguyên mẫu của chiếc xe Mặt Trăng (AS-201, AS-202, AS-203). Mỹ có thể tiếp tục ra mắt các nguyên mẫu có người lái của các tàu Mặt Trăng trước khi Liên Xô đưa nguyên mẫu không người lái đầu tiên vào quỹ đạo, nhưng hai tháng trước khi khởi động Kosmos-146, đã xảy ra đám cháy trong mô-đun lệnh, và toàn bộ phi hành đoàn của Apollo 1 đã bị chết.
Tham khảo
|
2716080
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudebulea%20fentoni
|
Pseudebulea fentoni
|
Pseudebulea fentoni là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
}
Pseudebulea
|
3527314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kiyohara%20no%20Motosuke
|
Kiyohara no Motosuke
|
là một nhà thơ quý tộc của Nhật Bản vào thời kỳ Heian. Xuất thân trong một gia đình văn học lớn, ông gọi Kiyohara Fukayabu (tác giả bài số 36 trong tập Ogura Hyakunin Isshu) bằng ông nội và là cha đẻ của nữ sĩ tài hoa Sei Shōnagon (tác giả bài số 62 trong tập Ogura Hyakunin Isshu), nổi tiếng đến ngày nay với tác phẩm Makura no Sōshi. Ông có chân trong Ba mươi sáu ca tiên, và một trong những bài thơ nằm trong tập thơ nổi tiếng Ogura Hyakunin Isshu. Ông giữ chức Tổng đốc tỉnh Kawachi và Higo.
Ông là một trong năm người nổi tiếng làm việc ở Viện Hòa Ca , vì sân công thự làm việc có trồng nhiều cây lê. Ông có công biên tập . Nhóm này cũng biên soạn , các văn bản đọc lấy từ Vạn diệp tập.
Thơ của ông nằm trong nhiều tập thơ nổi tiếng, bao gồm cả . Tập thơ cá nhân của ông là tập vẫn còn được lưu truyền.
Thơ Kiyohara Motosuke
Đây là bài thơ thứ 42 trong tập Ogura Hyakunin Isshu do Fujiwara no Teika biên tập:
Xuất xứ
, thơ luyến ái phần 4, bài 770.
Hoàn cảnh sáng tác
Lời thuyết minh trong tập Goshūi Wakashū cho biết tác giả viết thay cho một người đàn ông bị tình phụ. Bài thơ nhắc lại tình cảm tương thân tương ái, kỷ niệm đẹp, lời thề nguyền thuở hai bên còn gắn bó. Nhân đó người đàn ông trong cuộc nói lên mối hận lòng nhưng cũng cho biết lòng mình hãy còn vương vấn chưa thôi.
Đề tài
Bày tỏ mối hận lòng với người đàn bà đổi thay mà mình khó quên.
Chữ na trong câu đầu là một trợ từ bày tỏ sự cảm động. , một phó từ có nghĩa là tagai ni (lẫn nhau) nhưng có thể làm liên tưởng đến là “kỷ niệm”. Núi – đúng hơn là một dãi đất cao ven biển có nhiều tùng và hay bị sóng đánh tên gọi là - trong bài thơ là một địa danh tỉnh Miyagi, miền bắc nước Nhật, đã trở thành một gối thơ (uta-makura) danh tiếng.
Tham khảo
Đường dẫn ngoài
McMillan, Peter. Năm 2010 (Bản in đầu, Năm 2008). Một Trăm Nhà Thơ, Mỗi Vị Một Thơ. New York: Nhà xuất bản Đại Học Columbia.
Suzuki Hideo, Yamaguchi Shin'ichi, Yoda Yasushi. Năm 2009 (Bản in đầu, Năm 1997). Genshoku: Ogura Hyakunin Isshu. Tokyo: Bun'eidō.
Một trăm bài thơ Nhật Bản cổ (Hyakunin-isshu), biên dịch bởi William N. Porter, 1909, tại trang sacred-texts.com
Ogura Hyakunin Isshu, biên dịch bởi chimviet.free.fr
Sinh năm 908
Mất năm 990
Nhà thơ Nhật Bản
|
15125257
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Naina%20Ravaoarisoa
|
Naina Ravaoarisoa
|
Naina Cécilia Ravaoarisoa (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1976 tại Antananarivo) là một judoka Malagasy, người thi đấu ở hạng mục bán nhẹ nữ. Cô đã nhặt được tổng cộng sáu huy chương trong sự nghiệp của mình, bao gồm một huy chương đồng từ Đại hội Thể thao toàn châu Phi năm 1999 tại Johannesburg, Nam Phi và đại diện cho quốc gia Madagascar của cô trong hai phiên bản Thế vận hội Olympic (2000 và 2004).
Ravaoarisoa ra mắt chính thức tại Thế vận hội Mùa hè 2000 ở Sydney, nơi cô thi đấu ở hạng bán nhẹ nữ (52 kg). Cô thua trận mở màn trước Shih Pei-chun của Đài Bắc Trung Hoa, người đã ghi thành công chiến thắng ippon và làm tê liệt cô trong một chiếc khăn quàng cổ (kesa gatame) trên tấm chiếu chỉ còn chín mươi giây trong trận đấu năm phút.
Tại Thế vận hội Mùa hè 2004 ở Athens, Ravaoarisoa đủ tiêu chuẩn làm một Judoka đơn độc cho đội Malagasy thứ hai của cô trong lớp học nửa nhẹ của phụ nữ (52 kg), bằng cách đặt thứ hai và cấp một bến từ Giải vô địch châu Phi ở Tunis, Tunisia. Giống như Olympic trước đây của cô, Ravaoarisoa từ chối cơ hội của mình để cạnh quá khứ mở tròn và để cạnh tranh trong Vòng đấu vớt, sau khi đâm ra sớm trong một thất bại để judoka Bỉ và cuối cùng đoạt huy chương đồng Ilse Heylen bởi một ippon awasete waza-ari điểm và một mạnh mẽ deashi harai ném (quét chân nâng cao) chỉ 34 giây vào trận đấu của họ.
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1976
|
2630513
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maxates%20coelataria
|
Maxates coelataria
|
Maxates coelataria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Maxates
|
3214375
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%ADu%20Thi%C3%AAn%20Huy%E1%BB%81n%20N%E1%BB%AF
|
Cửu Thiên Huyền Nữ
|
Cửu Thiên Huyền Nữ (chữ Hán: 九天玄女) hay còn gọi Cửu Thiên Huyền Mỗ (九天玄姆), tực gọi Cửu Thiên Huyền Nữ nương nương (九天玄女娘娘) hay Cửu Thiên nương nương (九天娘娘) là một vị nữ thần về chiến tranh và sự trường thọ trong thần thoại Trung Hoa. Cửu Thiên Huyền Nữ là Nữ Thần Chiến Tranh trong Thần Thoại Trung Hoa. Theo thần thoại Trung Hoa, một trong những điển tích nổi tiếng nhất về bà là việc bà là người đã chỉ dạy cho Hoàng Đế đánh bại Xi Vưu. Cửu Thiên Huyền Nữ ngài là vị thần tối cao trên cung trời Tạo Hóa chủ của tạo hóa là thầy của bách nghệ là tổ của các chiến thần ,tên ngài trần gian hay gọi nữa là Hoằng Nhân Thánh Mẫu
Hình tượng
Cổ đại kinh sách thường viết Cửu Thiên Huyền Nữ là một người phụ nữ đầu người mình chim. Có thuyết cho rằng đó là Huyền điểu (玄鳥). Kinh Thi - Thương tụng có phần "Huyền điểu", ghi nhận: "Thiên mệnh huyền điểu, là để sanh ra nhà Thương, trạch ân thổ mang mang. Cổ đế mệnh Vũ Thang, chính vực bỉ tứ phương". Tuy nhiên, thuyết Huyền Điểu không được thuyết phục lắm vì không có nhiều liên hệ để chứng minh đây là Cửu Thiên Huyền Nữ, chỉ có từ Huyền, phụ nữ và thân chim. Ngoài ra, Thuyết văn nói: "màu đen còn gọi là huyền", chứng tỏ Huyền Điểu đơn giản là con chim màu đen. Chân chính sử thư kí tái, có lẽ là sớm nhất về sự tích Cửu Thiên Huyền Nữ là trong Dung Thành tập tiên lục (墉城集仙录) của Đỗ Quang Đình thời Ngũ Đại. Trong sách nói Cửu Thiên Huyền Nữ là một môn đồ của Tây Vương Mẫu và nhận mệnh giúp Hoàng Đế đánh Xi Vưu trong trận Trác Lộc.
Trong trận Trác Lộc, quân Hữu Hùng Thị bị Xuy Vưu vây chặt, không nhận định được phương hướng đánh ra giải vây, nên thường bị Xuy Vưu đánh bại phải tháo lui. Trong lúc nguy cấp như thế, Cửu Thiên Huyền Nữ cưỡi một con phượng hoàng hiện ra dạy, Hữu Hùng Thị chế ra xe hai bánh chỉ Nam, có bộ phận chỉ rõ hướng Nam, để phân định phương hướng và vị trí tiến quân, lại dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hữu Hùng Thị củng cố binh mã, từ trong đánh ra bất ngờ, làm cho binh đội Xuy Vưu thảm bại, bắt sống được thủ lĩnh Xuy Vưu đem giết chết. Sau đó, Cửu Thiên Huyền Nữ cũng thường ứng hiện giúp Hoàng Đế và những người hiền tài trong nước, như giúp cung phi chế ra nghề nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, giúp ông Dung Thành chế ra máy Cai Thiên để xem thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng hình để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc. Ngoài ra Cửu Thiên Huyền Nữ truyền khoa Lục Nhâm Độn Giáp, và phép bói 64 quẻ Dịch mà đoán kiết hung.
Trong Thủy hử truyện
Thủy hử truyện hồi 41 kể rằng: Tống Công Minh trong lần về quê nhà Vận Thành thăm cha bị bọn quan quân phát hiện truy bắt, phải trốn trong miếu “Cửu Thiên Huyền Nữ”. Trong giấc mơ của mình, Tống Giang được Cửu Thiên Huyền Nữ truyền cho 3 cuốn thiên thư binh pháp và dặn thế này: “Ta truyền cho ngươi ba cuốn Thiên Thư này, ngươi khá thay trời làm Đạo. Làm chúa phải hết lòng trung nghĩa, làm tôi phải hết sức yêu dân. Bỏ đường tà theo đường chính, chớ nên xao nhãng sai lầm mới được”. Cửu Thiên Huyền Nữ còn nói thêm: “Đức Ngọc Hoàng nhận thấy Tinh Chủ chưa dứt lòng ma, chưa tu trọn Đạo, nên tạm phạt xuống nơi trần thế, không bao lâu lại được trở về Tiên Cung. Vậy Tinh Chủ chớ nên đổi dạ thay lòng.... Ba cuốn sách này phải xem cho kỹ, mà thuộc cho kỹ, chỉ nên cùng với sao Thiên Cơ (chỉ Ngô Dụng) mà xem, còn không thể cho người nào khác xem được. Những lời ta dặn, phải nhớ chớ quên. Hiện nay tiên phàm đôi ngả không thể ở lâu, vậy ngươi nên mau mau trở về. Rồi sau đây lầu ngọc cửa vàng, tất lại có phần hậu hội”.
Khi tỉnh mộng, Tống Giang lấy làm lạ liền suy nghĩ: “Nương Nương gọi ta là Tinh Chủ, có lẽ kiếp trước ta cũng không tầm thường hẳn? Ba quyển Thiên Thư cho ta, tất là có dụng ý, mà những lời dặn bảo ta vẫn nhớ không quên”. Thời điểm ấy, Tống Giang mới lên tụ nghĩa Lương Sơn, chỉ coi “Bến nước” là nơi nương thân tránh khỏi việc bị triều đình tróc nã, chứ không có khát vọng cao xa. Chính giấc mơ gặp Cửu Thiên Huyền Nữ, mới thực sự khiến họ Tống xác định rõ ràng con đường của đời mình: Con đường Trung Nghĩa, bỏ Tà theo Chính, thế Thiên hành Đạo, cứu nước giúp dân.
Trong lời phán của Cửu Thiên Huyền nữ có câu “Rồi sau đây lầu ngọc cửa vàng, tất lại có phần hậu hội” chính là ám chỉ cho hậu vận sau này của Tống Giang. Rằng họ Tống chắc công thành danh toại nhưng đến khi được triều đình sắc phong thì sẽ “về trời”, trở lại với vai trò một vị Thần như tiền kiếp.
Tham khảo
Mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ Là Ai? Độ Mạng Tuổi Nào? Thờ Cúng Ra Sao?
Thần thoại
Thần thoại Trung Hoa
Nữ thần chiến tranh
Nhân vật Thủy hử
|
2610761
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euphyia%20luxuriata
|
Euphyia luxuriata
|
Euphyia luxuriata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
L
|
2909279
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Craniophora%20picata
|
Craniophora picata
|
Craniophora picata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Craniophora
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.