id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
381
| title
stringlengths 1
211
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
2589735
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neidalia%20villacresi
|
Neidalia villacresi
|
Neidalia villacresi là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Neidalia
|
19554986
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brommella%20josephkohi
|
Brommella josephkohi
|
Brommella josephkohi là một loài nhện trong chi Brommella, họ Dictynidae.
Loài này được Shuqiang Li miêu tả năm 2017. Tính từ định danh loài lấy theo tên của Joseph K. H. Koh, nhà nghiên cứu nhện hàng đầu tại Singapore.
Phân bố
Loài này được tìm thấy ở cao độ 151 m trong hang Y Lĩnh Nham (伊岭岩), trong địa phận quận Vũ Minh, địa khu Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc.
Chú thích
J
Động vật được mô tả năm 2017
Nhện Trung Quốc
|
3668883
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Galahad
|
Galahad
|
Sir Galahad là danh xưng của một nhân vật trong hội Bàn Tròn của vua Arthur. Ông là con ngoài giá thú của ngài Lancelot và Elaine of Corbenic, và nổi tiếng với lòng dũng cảm và tính cách thuần khiết của mình.
Xem thêm
Lancelot
Chén Thánh
Tham khảo
Arthurian Tradition Essays in Convergence. Tuscaloosa: University of Alabama, 1988. 90–95. Print. Atkinson analyses Malory’s motives for writing about the Holy Grail quest. He compares the knights and focuses on how Galahad sticks out from the rest of the knights.
Berger, Thomas. Arthur Rex: A Legendary Novel. Boston: Little, Brown, 1990. Print.
Cohen, Matt. Too Bad Galahad. Toronto: The Coach House Press, 1972. Print. A comical approach to the legend of Sir Galahad, his quest for the Holy Grail, and his pier character is made to seem foolish.
Kị sĩ Bàn Tròn
|
2767719
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tachina%20bipartita
|
Tachina bipartita
|
Tachina bipartita là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tachina
Côn trùng hai cánh châu Âu
|
2813877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mesoleptus%20sollicitus
|
Mesoleptus sollicitus
|
Mesoleptus sollicitus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Mesoleptus
|
12789503
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/FX%20%28k%C3%AAnh%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29
|
FX (kênh truyền hình)
|
FX là một kênh truyền hình trả tiền của Mỹ thuộc sở hữu của FX Networks, LLC, một công ty con của đơn vị Disney General Entertainment thuộc Công ty Walt Disney. Phát sóng ngày 1 tháng 6 năm 1994, mạng của chương trình gốc cạnh tranh kênh truyền hình mạng lưới cao cấp như HBO và Showtime, liên quan đến người lớn chủ đề và chất lượng cao hơn viết, chỉ đạo diễn xuất. Nó cũng mang chiếu lại của bộ phim sân khấu và phát sóng mạng hài kịch.
Tháng 7 năm 2015, FX có khoảng 94,006,000 thuê bao (80.8% của gia đình với ít nhất một bộ truyền hình) ở Hoa Kỳ. ngoài các kênh khác "FX" tên là cấp phép cho một số liên quan trả truyền hình, kênh trong các quốc gia trên khắp thế giới.
Chương trình
FX có các phim nổi tiếng như: It's Always Sunny in Philadelphia, Sons of Anarchy, The Shield, Archer, American Horror Story, Anger Management, The Americans, Fargo, American Crime Story, Archer, Legion, and Atlanta.
Các kênh cũng phát rạp phát hành phim từ mạng công ty chị em 20th Century Fox và các hãng phim (như Sony Pictures, Universal Pictures, Warner Bros. Pictures và Paramount), trong đó có nhiều ngoại hối là giờ cao điểm và phần lớn của nó cuối tuần lịch trình. Nó được phát sóng lặp đi lặp lại của mạng truyền hình hài kịch (như Two and a Half Man và làm thế Nào, tôi đã Gặp Mẹ của Bạn). Từ cuối năm 1990 đến giữa những năm 2000, mua lại các chương trình mà ngoại hối phát sóng bao gồm chủ yếu của loạt được phát sóng trên Fox giữa năm 1980 và những năm 2000 (như That '70s Show, kết Hôn... với trẻ Em, và Trong cuộc Sống Màu).
Kênh Liên quan
FX Movie Channel
FX Movie Channel (hoặc FXM) đưa ra vào ngày 31, 1994 như fXM: Movies from Fox (trước khi nó khởi động, các kênh đã được đặt tên là "Fox Movies Studios") Ban đầu đưa ra như một phụ phẩm của ngoại hối, các kênh tập trung vào bộ phim từ 20th Century Fox từ những năm 1930 đến năm 1970 cùng với một vài hãng phim khác. FXM đã trở thành một cách hiệu kênh vào ngày 1 Tháng ba năm 2000, khi nó đã được đổi tên thành Fox Movie Channel
Ngày 1 tháng giêng năm 2012, chương trình đã được chia thành hai 12 giờ khối: chính của nó trình lịch, từ 3:00 giờ sáng đến 3:00 chiều, giờ địa Phương, đã là một thương mại-miễn phí khối giữ lại những phim cũ từ 20th Century Fox thư viện. Một khối từ 3:00 chiều đến 3:00 giờ sáng Phương Đông và một phần lớn quảng cáo phiên bản hỗ trợ tiến hành một mở rộng đá gần đây phim từ Fox và một số khác hãng phim, mà là nhắm vào khán giả từ 12 và 49.
Vào Ngày 27, 2013, Fox Entertainment Group thông báo rằng Fox sẽ được hoàn toàn đổi tên dưới FXM tên và format. Kênh Phim truyện trở thành chính hiệu cho các kênh vào tháng chín, 2013; bộ phim kinh điển khối giữ lại Fox Kênh Phim tên cho đến tháng 9 năm 2014, khi các khối (mà vẫn giữ được một thương mại-miễn phí dạng) đã được đổi tên thành CỐNG cổ Điển.
FXX
Nhằm vào những người trẻ 18 đến 34 tuổi phạm vi FXX là một kỹ thuật số cáp và kênh truyền hình vệ tinh mà đưa ra vào ngày 2, 2013 thay thế cho những môn thể thao hướng Fox Sports; GIÁ là một kênh giải trí tổng hợp mà chủ yếu tập trung vào hài (trong khi đó, ngoại hối tập trung chủ yếu trên series phim và phim mặc dù lòng đất và GIÁ, không duy trì cùng thể loại độc quyền dạng như là TBS và TNT như ngoại hối tiếp tục thực hiện truyền hình thực tế và phim hài hước, trong khi đánh GIÁ, mang một lựa chọn giới hạn của ấn tượng loạt và) chương trình của nó bao gồm gốc và mua lại loạt phim hài, một bộ phim và phim.
Với sự khởi động của các kênh đầu tiên chạy tập của một số hình hài hước loạt (như Nó luôn Luôn Nắng ở Philadelphia và Hoàn toàn Thiên vị với W. dinh bom Bell) đã chuyển lên GIÁ. Tại của nó khởi động hầu hết các nhà cung cấp đã thỏa thuận để thực hiện GIÁ, đã đặt các kênh trong thêm chi phí thể thao gói (mặc dù là một tướng dịch vụ giải trí) như một vật của vận chuyển giao dịch với trước chủ của GIÁ của kênh không gian, Fox bóng Đá, mặc dù điều này sẽ được sửa chữa.
Quốc tế
Châu Á
Trong năm 2004, Fox Network Asia và STAR TV (thông qua một thỏa thuận phân phối) hợp tác để khởi động FX châu Á. Các kênh được chia thành bốn vụ: một kênh quốc gia phân phối khắp lục địa, và ba kênh khu vực phục vụ Nam Triều tiên, và Philippines. Kênh này đã dừng phát sóng từ 1/10/2021.
Canada
Vào ngày 6 tháng tám năm 2011, Rogers phương Tiện truyền thông nhập vào một thỏa thuận cấp phép! Mạng để khởi động FX Canada như một Loại B kỹ thuật số cáp và vệ tinh kênh đặc. Các kênh cũng được thực hiện bởi các nhà cung cấp khác như EastLink, Shaw Cáp và TV TẤN. mạng, mà đưa ra vào ngày 1 tháng mười năm 2011, có một sự pha trộn của ngoại hối loạt ban đầu; mua phim Mỹ và hàng loạt, và lập trình Canada gốc và sự kiện thể thao (theo yêu cầu của nội dung quy tắc áp đặt bởi những người Canada, Đài truyền hình và Ủy ban Viễn thông). FX của Canada phát sóng giấy phép yêu cầu rằng 15% của chương trình của nó bao gồm Canada nội dung trong đầu tiên của nó năm, 20% trong năm thứ hai của mình và 25% vào năm thứ ba.
Châu Mỹ Latin
Thanh danh kênh ở Mỹ la tinh, là dành gần như hoàn toàn nhằm vào một đối tượng nam, như một đối tác của Fox Life, được tạo ra cho các khán giả. Ở Brazil, nó được phát sóng chủ yếu là bởi MẠNG TRUYỀN hình, Cơ TV, Oi TV, bầu TRỜI, Bỏ TRUYỀN hình THUẾ và TRUYỀN hình.
Nam Phi
FX đã được đưa ra ở Nam Phi như một phần của StarSat cung cấp trong Tháng năm 2010.
Thổ nhĩ kỳ
FX đã được đưa ra ở Thổ nhĩ kỳ vào ngày 14 năm 2008 trên D-thông Minh kỹ thuật số. Nó cũng có trên Teledünya và Tivibu nền tảng kỹ thuật số.
Mạng khẩu hiệu
"fX: The World's First Living Television Network" (primary; 1994–1996)
"fX: TV Made Fresh Daily" (secondary; 1994–1996)
"fX: TV with You in Mind" (1996–1997)
"FX: Fox Gone Cable" (1997–2008)
"There Is No Box" (2008–2013)
"Fearless" (2013–present)
Xem thêm
FX Movie Channel
Fox Reality Channel
Tài liệu tham khảo
Kênh truyền hình Mỹ
Công ty có trụ sở tại thành phố New York
Chương trình và người giành giải Peabody
|
2918207
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eumichtis%20johanna
|
Eumichtis johanna
|
Eumichtis johanna là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Eumichtis
|
2584447
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Urgleptes%20sordidus
|
Urgleptes sordidus
|
Urgleptes sordidus là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Urgleptes
|
2940180
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Orthosia%20annulimacula
|
Orthosia annulimacula
|
Orthosia annulimacula là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Orthosia (chi bướm)
|
13375796
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adam%20St%C3%A5hl
|
Adam Ståhl
|
Adam Mikael Sven Ståhl (sinh 8 tháng 10 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá Thụy Điển thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Kardemir Karabükspor ở Süper Lig.
Sự nghiệp chuyên nghiệp
Ståhl bắt đầu sự nghiệp bóng đá với Norrby IF, và giúp đội bóng thăng hạng Superettan. Anh ra mắt ở Superrettan cho Norrby trong trận hòa 1-1 với Trelleborgs FF ngày 17 tháng 4 năm 2017.
Ståhl kí bản hợp đồng 2,5 năm với Kardemir Karabükspor ngày 6 tháng 1 năm 2018, sau một mùa giải thành công với Norrby IF. Ståhl ra mắt chuyên nghiệp cho Kardemir Karabükspor trong trận thua 5-0 tại Süper Lig trước İstanbul Başakşehir F.K. ngày 29 tháng 1 năm 2018.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Soccerway Profile
Fotbolltransfers Profile
Svenskfotboll Profile
TFF Profile
Kardemir Karabukspor Profile
Sinh năm 1994
Nhân vật còn sống
Vận động viên Malmö
Cầu thủ bóng đá Thụy Điển
Cầu thủ bóng đá Kardemir Karabükspor
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Superettan
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ
|
2663011
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Triphosa%20rubrodotata
|
Triphosa rubrodotata
|
Triphosa rubrodotata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Triphosa
|
2635550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nyssia%20extincta
|
Nyssia extincta
|
Nyssia extincta là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Nyssia
|
2602064
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chloroclystis%20sericeata
|
Chloroclystis sericeata
|
Chloroclystis sericeata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Chloroclystis
|
2814165
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Messatoporus%20rufator
|
Messatoporus rufator
|
Messatoporus rufator là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Messatoporus
|
15448939
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Albategnius%20%28h%E1%BB%91%29
|
Albategnius (hố)
|
Albategnius là một hố Mặt Trăng cổ đại (hố va chạm) nằm ở vùng giữa cao. Được đặc tên theo nhà thiên văn Hồi Giáo và nhà khoa học Muhammad ibn Jābir al-Harrānī al-Battānī, được Latinh hóa là Albategnius.
Vị trí
Albategnius nằm ở phía nam của hố Hipparchus, và phía đông của hố Ptolemaeus và hố Alphonsus. Bề mặt ở đây được đánh dấu bằng những vết sẹo song song tạo thành những đường giống kênh nước trải dài từ bắt xuống nam, và hơi nghiêng một chút về hướng đông nam.
Quan sát
Galileo đã phác họa Albategnius trong cuốn sách của ông Sidereus Nuncius xuất bản năm 1610, cho rằng nó xuất hiện cùng lúc với đường rạng đông.
Hố vệ tinh
Theo quy ước, những đặc điểm này được xác định trên bản đồ bằng cách đặt từng chữ cái là tâm của các hố vệ tinh gần với Albategnius nhất.
Tham khảo
Liên kết ngoài
LTO-77C1 Albategnius — L&PI topographic map
Albategnius at The Moon Wiki
Hố va chạm trên Mặt Trăng
|
2914039
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Elaphria%20subrubens
|
Elaphria subrubens
|
Elaphria subrubens là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Elaphria
|
2642812
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Piercia%20cidariata
|
Piercia cidariata
|
Piercia cidariata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Piercia
|
19228140
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20Qu%E1%BB%91c%20Oai
|
Bùi Quốc Oai
|
Bùi Quốc Oai (sinh năm 1969), là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông hiện là Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam.
Thân thế và binh nghiệp
Ông sinh ngày 19 tháng 12 năm 1969. Quê quán: Vân Tảo, Thường Tín, TP.Hà Nội
Trước năm 2013: Thư ký Thượng tướng Ngô Xuân Lịch - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 09/2013: Chính ủy Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
Tháng 10/2014: Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 1.
Tháng 05/2016: Trợ lý Đại tướng Ngô Xuân Lịch - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng.
Ngày 4/5/2020: ông được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bổ nhiệm giữ chức vụ Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam.
Ngày 1/6/2020: ông chính thức nhận bàn giao nhiệm vụ Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Tham khảo
Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam đương nhiệm
Chính ủy Cảnh sát biển Việt Nam
Chính ủy Sư đoàn 312, Quân đoàn 1, Quân đội nhân dân Việt Nam
Họ Bùi Việt Nam
Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 2010
|
14379171
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B4n%20nh%C3%A2n%20c%C3%B9ng%20gi%E1%BB%9Bi%20%E1%BB%9F%20Qu%E1%BA%A7n%20%C4%91%E1%BA%A3o%20B%E1%BA%AFc%20Mariana
|
Hôn nhân cùng giới ở Quần đảo Bắc Mariana
|
Hôn nhân cùng giới ở Quần đảo Bắc Mariana là lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ đã được hợp pháp hóa bởi Obergefell v. Hodges của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 6 năm 2015, điều này cho thấy việc vi phạm các quyền hôn nhân cùng giới là bất hợp pháp. Vào ngày 29 tháng 6 năm 2015, Thống đốc Eloy Inos đã ca ngợi quyết định này là "lịch sử" trong một tuyên bố và nói rằng ông sẽ làm việc với Tổng chưởng lý và các quan chức địa phương ở Quần đảo Bắc Mariana để đưa lãnh thổ Hoa Kỳ tuân thủ. Tổng chưởng lý Edward Manibusan đã đưa ra một bản ghi nhớ vào ngày 30 tháng 6 xác nhận rằng lãnh thổ bị ràng buộc bởi phán quyết của tòa án, gọi các đạo luật xác định hôn nhân giữa một người đàn ông và một người phụ nữ là "bất hợp pháp và không thể thực hiện được", và cập nhật đơn đăng ký kết hôn để cung cấp cho các cặp cùng giới.
Lịch sử
Không có luật cấm kết hôn cùng giới trong luật lãnh thổ, cũng như các đạo luật không quy định giới tính của các bên tham gia hôn nhân giữa các công dân của Quần đảo Bắc Mariana.9 Các điều khoản khác cho rằng các bên tham gia hôn nhân không cùng giới tính. Đối với một cuộc hôn nhân liên quan đến một hoặc nhiều người không phải là công dân, các đạo luật nói: "Nam tại thời điểm ký kết hôn nhân phải ít nhất 18 tuổi và nữ ít nhất 16 tuổi..." Các đạo luật liên quan đến ly hôn cho rằng các đối tác của một cuộc hôn nhân là chồng và vợ.
Vào tháng 12 năm 2004, Hạ viện Quần đảo Bắc Mariana đã bỏ phiếu 15-0 với 1 phiếu trắng ủng hộ một sửa đổi hiến pháp cấm kết hôn cùng giới. Tuy nhiên, việc sửa đổi hiến pháp đã không thông qua Thượng viện.
Các quyết định của Tòa án phúc thẩm vòng thứ chín đã phát hiện ra các lệnh cấm kết hôn cùng giới ở Nevada và Idaho vi hiến là tiền lệ ràng buộc đối với các tòa án liên bang ở Bắc Mariana trước đây Obergefell v. Hodges. Tuy nhiên, giữa tháng 10 năm 2014 khi tiền lệ có hiệu lực và tháng 6 khi Tòa án Tối cao bãi bỏ tất cả các lệnh cấm, không có cặp đôi đồng tính nào đã đệ đơn kiện tại Tòa án quận cho Quần đảo Bắc Mariana để buộc vấn đề này.
Tham khảo
Hôn nhân cùng giới ở Hoa Kỳ
|
19770338
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A7m%20m%E1%BB%99%20Ho%C3%A0ng%20gia
|
Hầm mộ Hoàng gia
|
Hầm mộ Hoàng gia (tiếng Đức: Kaisergruft), còn được gọi là Hầm mộ Capuchin ( Kapuzinergruft), là một căn phòng dùng để chôn cất người chết bên dưới Nhà thờ Capuchin ở Viên, Áo. Nó được thành lập vào năm 1618 và dành riêng cho Hoàng gia Habsburg vào năm 1632, toạ lạc trên quảng trường Neuer Markt của Innere Stadt, gần Cung điện Hofburg. Kể từ năm 1633, Hầm mộ Hoàng gia đóng vai trò là nơi chôn cất chính cho các thành viên của Nhà Habsburg. Xương của 145 nhân vật hoàng gia Habsburg, cùng với bình chứa trái tim hoặc hài cốt hỏa táng của 4 người khác, bao gồm 12 hoàng đế và 18 hoàng hậu, đều ở đây. Có thể nhìn thấy 107 chiếc quách bằng kim loại và 5 chiếc bình đựng hài cốt hình trái tim có nhiều phong cách thiết kế nghệ thuật hoa lệ. Một số trong số hơn chục tu sĩ Capuchin cư trú tiếp tục vai trò thông thường của họ là những người bảo vệ và chăm sóc hầm mộ, cùng với các công việc mục vụ khác của họ ở Viên. Lần chôn cất gần đây nhất là vào năm 2011.
Lịch sử
Anna xứ Tyrol, vợ của Hoàng đế Matthias đã đưa ra ý tưởng xây dựng tu viện Capuchin và hầm mộ cho bà và chồng, sẽ được xây dựng trong khu vực lân cận của lâu đài Hofburg ở Viên. Cô ấy đã cung cấp tiền cho nó trong di chúc được viết vào ngày 10 tháng 11 năm 1617 và qua đời vào năm sau đó vào năm 1618, chồng bà mất năm 1619.
Viên đá nền được đặt vào ngày 8 tháng 9 năm 1622 với sự hiện diện của Hoàng đế Ferdinand II, nhưng tiến độ chậm chạp do những phiền nhiễu của Chiến tranh Ba mươi năm, nhà thờ được cung hiến vào ngày 25 tháng 7 năm 1632. Vào lễ Phục sinh năm sau, cỗ quan tài đơn giản chứa hài cốt của Hoàng đế Matthias và Hoàng hậu Anna1 đã được chuyển đến nơi mà ngày nay được gọi là Founders Vault.
Hoàng đế Leopold I đã mở rộng hầm mộ vào năm 1657 ở khu vực dưới gian giữa của nhà thờ và con trai của ông là Hoàng đế Joseph I đã mở rộng nó xa hơn về phía Tây và xây dựng một phòng lăng mộ khác và một nhà nguyện ở phía Đông vào năm 1710, nhưng thật khó xử khi mà em trai ông là Hoàng đế Karl VI tiếp tục ở rộng về phía Tây vào năm 1720 kéo dài bên dưới nhà hát và dàn hợp xướng apse ở trên. Lần đầu tiên, một kiến trúc sư nổi tiếng (Lukas von Hildebrandt) tham gia vào việc mở rộng hầm mộ.
Năm 1754, con gái của ông, Hoàng hậu Maria Theresa thậm chí còn mở rộng hơn về phía Tây, đi qua hoàn toàn nhà thờ phía trên, vào khu vườn của tu viện với mái vòm bổ sung đón ánh sáng tự nhiên. Mái vòm hùng vĩ và hầm mộ là tác phẩm của kiến trúc sư Jean Jadot de Ville-Issey. Trong thời trị vì của cháu trai bà, Hoàng đế Francis II, kiến trúc sư Johann Aman đã mở rộng về phía Bắc vào năm 1824.
Tu viện xung quanh nhà thờ đã xuống cấp sau 200 năm sử dụng liên tục, vì vậy dưới thời trị vì của Hoàng đế Ferdinand vào năm 1840, tu viện (chứ không phải nhà thờ) đã bị phá bỏ và xây dựng lại. Là một phần của dự án đó, kiến trúc sư Johann Höhne đã xây dựng Hầm mộ Ferdinand và Hầm rượu Tuscan như một phần tầng hầm của công trình kiến trúc mới.
Là một phần của lễ kỷ niệm 60 năm lên ngôi vào năm 1908, Hoàng đế Franz Joseph đã yêu cầu kiến trúc sư Cajo Perisic xây dựng một phòng lăng mộ khác và một nhà nguyện ở phía Đông của Franz II và hầm mộ của Ferdinand. Đồng thời, các khu phụ mới dành cho du khách được tạo ra ở hai bên nhà thờ.
Đến năm 1960, rõ ràng là tình trạng xuống cấp của các ngôi mộ cho thấy môi trường thay đổi nhiệt độ và độ ẩm cần phải được kiểm soát nếu muốn các quan tài tồn tại tiếp tục. New Vault, phía Bắc Tuscan, Ferdinand's và Franz Joseph Vault, được xây dựng bởi kiến trúc sư Karl Schwanzer, với những cánh cửa kim loại của nhà điêu khắc Rudolf Hoflehner. Nó đã thêm khoảng 20% vào không gian của hầm mộ, và được sử dụng như một phần của việc sắp xếp lại các ngôi mộ trong hầm.
Căn hầm nhỏ ban đầu, bên cạnh những ngôi mộ của hai người sáng lập, còn có những ngôi mộ của hàng chục đứa trẻ và được gọi là Hầm mộ của Thiên thần. Những thứ đó đã được chuyển đến các hốc mở mới được tạo ra ở bức tường phía trước của Leopold Vault. Những ngôi mộ được chọn từ nhiều hầm khác đã được chuyển đến Hầm mới và được nhóm theo các chủ đề như Giám mục, tổ tiên trực tiếp của vị hoàng đế trị vì cuối cùng và gia đình trực hệ của Đại công tước Karl.
Ba mươi bảy ngôi mộ khác, của một số trẻ vị thành niên và thành viên nhỏ của gia đình cầm quyền, được xây tường thành bốn trụ được tạo ra trong Hầm mộ Ferdinand. Do đó, khoảng một nửa số ngôi mộ đã được chuyển ra khỏi hầm ban đầu đến những nơi ngăn nắp hơn như một phần của cuộc tái tổ chức vi mô.
Vào năm 2003, một dự án khác đã giúp du khách tiếp cận vào hầm mộ và mở những cánh cửa chưa được sử dụng trước đó. Toàn bộ hầm mộ cũng được trang bị máy lạnh để ngăn chặn sự xuống cấp của các ngôi mộ.
Những chiếc quách trong hầm mộ
Bảo tồn các ngôi mộ
Những nhân vật được chôn cất
Các hầm chôn chất trong Hầm mộ Hoàng gia
Người sáng lập ý tưởng tạo ra các hầm
Nguồn
Chú thích
Trích dẫn
Thư mục
Liên kết ngoài
Online Capuchin Monastery in Vienna (in German)
Picture from the crypt—Br. Markus Mach OFM cap
Weiss-Krejci, E. Restless corpses. 'Secondary burial' in the Babenberg and Habsburg dynasties. Antiquity 75:769–780, 2001. Figures 4 and 6
Weiss-Krejci, E. Mortuary representations of the noble house. A cross-cultural comparison between collective tombs of the ancient Maya and dynastic Europe. Journal of Social Archaeology 4/3:368–404, 2004.
Nghĩa trang Viên
Nghĩa trang Công giáo ở Áo
Viện bảo tàng ở Viên
Quách
Điểm tham quan ở Viên
Tòa nhà và công trình ở Innere Stadt
Địa điểm chôn cất Nhà Habsburg
|
2710875
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mimudea%20detersalis
|
Mimudea detersalis
|
Mimudea detersalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Mimudea
|
2649735
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sabulodes%20gortyniaria
|
Sabulodes gortyniaria
|
Sabulodes gortyniaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sabulodes
|
2922915
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hadena%20juncta
|
Hadena juncta
|
Hadena juncta là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hadena
|
13738251
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Walid%20El%20Karti
|
Walid El Karti
|
Walid El Karti là một cầu thủ bóng đá người Maroc, thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho Wydad Casablanca.
Danh hiệu
Wydad Casablanca
CAF Champions League: 2017
CAF Siêu cúp CAF 2018
Botola: 2015-16,2016–17
Maroc
Giải vô địch bóng đá châu Phi: 2018
Sự nghiệp quốc tế
Vào tháng 1 năm 2014, huấn luyện viên Hassan Benabicha, triệu tập anh vào đội hình Maroc tham dự Giải vô địch bóng đá châu Phi 2014. Anh giúp đội bóng đứng đầu bảng B sau trận hòa với Burkina Faso và Zimbabwe và đánh bại Uganda. Đội bóng bị loại ở tứ kết sau thất bại trước Nigeria.
Bàn thắng quốc tế
Tỉ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Maroc trước.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Maroc
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Maroc
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Phi
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Phi 2014
Sinh năm 1994
Cầu thủ bóng đá Wydad AC
Cầu thủ bóng đá Olympique Club de Khouribga
|
2576010
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sciades%20vagemarmorata
|
Sciades vagemarmorata
|
Sciades vagemarmorata là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sciades
|
2659524
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Synchlora%20pomposa
|
Synchlora pomposa
|
Synchlora pomposa là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Synchlora
|
2756580
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Genea%20major
|
Genea major
|
Genea major là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Genea
|
3424505
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kem%20s%E1%BB%AFa%20%C4%91%C3%A1
|
Kem sữa đá
|
Kem sữa đá là món tráng miệng đông lạnh, chứa ít hơn 10% sữa béo và có hàm lượng chất ngọt như kem sữa. Đôi khi kem sữa đá còn có giá thấp hơn cả kem sữa.
Có một sự thay đổi vào năm 1994, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược Hoa Kỳ đã cho phép kem sữa đá được mang nhãn hiệu là kem ít béo tại Mỹ.
Chú thích
Món tráng miệng đông lạnh
Sữa
Kem lạnh
|
2906878
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adonisea%20spraguei
|
Adonisea spraguei
|
Adonisea spraguei là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Adonisea
|
3297166
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20%C4%91au%20d%E1%BA%A1%20d%C3%A0y
|
Bệnh đau dạ dày
|
Các bệnh về dạ dày bao gồm viêm dạ dày, chứng liệt nhẹ dạ dày, bệnh Crohn và các bệnh ung thư khác nhau.
Dạ dày là một cơ quan quan trọng trong cơ thể. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc tiêu hóa thức ăn, giải phóng các enzyme khác nhau và cũng bảo vệ ruột dưới khỏi các sinh vật gây hại. Dạ dày kết nối với thực quản ở trên và với ruột non bên dưới. Nó liên quan phức tạp đến tuyến tụy, lá lách và gan. Dạ dày có kích thước khác nhau nhưng hình dạng chữ J là không đổi. Dạ dày nằm ở phần trên của bụng ngay dưới lồng xương sườn bên trái.
Các ví dụ bao gồm tên bệnh lý dạ dày bao gồm bệnh lý dạ dày tăng huyết áp cổng và bệnh Ménétrier, còn được gọi là "bệnh dạ dày tăng sản quá mẫn". Tuy nhiên, có nhiều bệnh dạ dày khác bệnh loét dạ dày (peptic uncer disease) hoặc viêm loét dạ dày tá tràng, chứng liệt nhẹ dạ dày và chứng khó tiêu.
Nhiều bệnh dạ dày có liên quan đến nhiễm trùng. Trong lịch sử, người ta tin rằng môi trường có tính axit cao của dạ dày sẽ giữ cho dạ dày không bị nhiễm trùng. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hầu hết các trường hợp loét dạ dày, viêm dạ dày và ung thư dạ dày là do nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori. Một trong những cách có thể tồn tại trong dạ dày liên quan đến các enzyme urease chuyển hóa urê (thường được tiết vào dạ dày) thành amonia và carbon dioxide để trung hòa axit dạ dày và do đó ngăn chặn sự tiêu hóa của nó. Trong những năm gần đây, người ta đã phát hiện ra rằng các vi khuẩn Helicobacter khác cũng có khả năng làm tổ trong dạ dày và có liên quan đến viêm dạ dày.
Có quá ít hoặc không có axit dạ dày được gọi là hypochlorhydria hoặc achlorhydria tương ứng và là điều kiện có thể có tác động tiêu cực đến sức khỏe. Có nồng độ axit dạ dày cao được gọi là hyperchlorhydria. Nhiều người tin rằng hyperchlorhydria có thể gây loét dạ dày. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng niêm mạc dạ dày tiết ra axit dạ dày có khả năng kháng axit.
Có nhiều loại rối loạn mãn tính ảnh hưởng đến dạ dày. Tuy nhiên, vì các triệu chứng được tập trung vào cơ quan này, các triệu chứng điển hình của các vấn đề dạ dày bao gồm buồn nôn, nôn, đầy hơi, chuột rút, tiêu chảy và đau.
Đặc điểm giải phẫu sinh lý
Về giải phẫu, dạ dày là túi đựng thức ăn nối thực quản với tá tràng. Dung lượng dạ dày có thể chứa được 1-1,5 lít, gồm 2 phần: phần đứng là thân dạ dày, phần ngang là hang môn vị. Cấu tạo thành dạ dày gồm 4 lớp, từ ngoài vào trong gồm: thanh mạc; lớp cơ: gồm 3 lớp nhỏ (cơ dọc, cơ vòng và cơ chéo); hạ niêm mạc; niêm mạc: phân cách với lớp hạ niêm mạc bởi lớp cơ trơn.
Mạch máu của dạ dày: dạ dày được nuôi dưỡng bởi động mạch từ thân tạng tới tạo nên hai vòng cung: vòng cung nhỏ dọc theo bờ cong nhỏ; vòng cung lớn dọc theo bờ cong lớn. Thần kinh chi phối dạ dày: là đám rối Meissner và Auerbach. Thần kinh phó giao cảm cholinergic (là dây thần kinh số X) và thần kinh giao cảm adrenergic (thần kinh tạng).
Chức năng sinh lý dạ dày
Chức năng vận động: trương lực dạ dày, áp lực trong lòng dạ dày khoảng 8–10 cm H2O, có áp lực là nhờ sự co thường xuyên của lớp cơ dạ dày. Khi dạ dày đầy, trương lực giảm đi chút ít, khi dạ dày vơi trương lực tăng lên, tăng lên cao nhất khi dạ dày rỗng.
Nhu động của dạ dày: khi thức ăn vào dạ dày thì 5-10 phút sau dạ dày mới có nhu động, nhu động bắt đầu từ phần giữa của thân dạ dày, càng đến gần tâm vị nhu động càng mạnh và sâu. Cứ 10-15 giây có 1 sóng nhu động. Kết quả co bóp của dạ dày là nhào trộn thức ăn với dịch vị, nghiền nhỏ thức ăn và tống xuống ruột.
Chức năng bài tiết: mỗi ngày dạ dày bài tiết 1-1,5 lít dịch vị, protein của huyết tương (đặc biệt là albumin, globulin miễn dịch), các enzym pepsinozen và pepsin, glycoprotein, yếu tố nội sinh (glycoprotein chứa ít glucid) và axit.
Chức năng tiêu hóa: HCl có tác dụng hoạt hoá các men tiêu hoá, điều chỉnh đóng mở môn vị và kích thích bài tiết dịch tụy. Chất nhầy có nhiệm vụ bảo vệ niêm mạc khỏi sự tấn công của chính dịch vị. Pepsinogen với sự có mặt của HCl sẽ phân chia protein thành các polypeptid và làm đông sữa. Yếu tố nội sinh có tác dụng làm hấp thu vitamin B12. Dạ dày cũng sản xuất secretin, một nội tiết tố kích thích bài tiết dịch tụy.
Nguyên nhân chính
Thuốc lá gây đau dạ dày
Khi nói đến thuốc lá, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến các căn bệnh liên quan đến phổi tuy nhiên có một căn bệnh liên quan khác mà ta không thể không nhắc đến đó là bệnh dạ dày, bệnh về đường tiêu hóa.
Chất độc hại có trong thuốc lá là nicotine có khả năng thúc đẩy sự bài tiết các acid clohydric và pepsin – các nguyên nhân hàng đầu làm mòn niêm mạc dạ dày, ức chế việc tổng hợp các chất bảo vệ và phục hồi niêm mạc khiến dạ dày bị tổn thương. Do đó nguy cơ mắc bệnh dạ dày của những người hút thuốc lá lâu năm sẽ cao hơn rất nhiều so với người khác.
Các chất rượu bia
Đây được xem là loại thức uống hàng đầu gây nguy hại cho sức khoẻ nói chung và dạ dày nói riêng. Các chất cồn trong rượu bia sẽ khiến lớp nhầy bảo vệ niêm mạc dạ dày bị phá huỷ, dẫn đến việc bị viêm loét, chảy máu dạ dày thậm chí là thủng dạ dày nếu không chữa trị kịp thời.
Chế độ ăn uống bất hợp lý
Các bệnh về đường tiêu hóa mà không nói nguyên nhân gây bệnh là do ăn uống thì đúng là một thiếu sót lớn. Những thói quen như ăn uống không đúng giờ, thực phẩm không sạch, ăn quá nhanh, nhai không kỹ, bỏ bữa, ăn đêm nhiều, ăn nhiều món cay chua nóng…. Cũng là những nguyên nhân quen thuộc gây ra căn bệnh đau dạ dày khó chịu cho người bệnh.
Vi khuẩn Helicobacter pylori gây đau dạ dày
Theo những số liệu nghiên cứu cho thấy hiện nay hơn 70% những người mắc bệnh dạ dày là do mắc phải vi khuẩn Helicobacter pylori. Vi khuẩn Helicobacter pylori thông qua đường ăn uống sẽ xâm nhập vào cơ thể chúng ta, rồi chui xuống dạ dày và bám vào thành dạ dày. Sau một thời gian nó sẽ gây tổn thương cho thành dạ dày, dẫn đến tình trạng loét, teo và bắt đầu căn bệnh.
Tinh thần căng thẳng
Trong bất cứ quá trình chữa bệnh nào thì tinh thần luôn là yếu tố được các bác sĩ khuyến cáo nhiều nhất, đem lại ảnh hưởng lớn đến kết quả điều trị.
Đối với những bệnh nhân dạ dày cũng thế, nếu như tinh thần của họ luôn căng thẳng, mệt mỏi sẽ rất dễ gây ra tình trạng co thắt dạ dày, kích thích nhu động ruột làm bệnh đau dạ dày thêm nặng hơn.
Triệu chứng
Các triệu chứng của bệnh dạ dày bao gồm:
Đau ở thượng vị, có người thì đau bụng [3] âm ỉ nhưng cũng có người lại đau dữ dội. Càng nặng thì càng đau thường xuyên hơn. Đau tức vùng bụng trên là một trong những dấu hiệu điển hình của viêm loét dạ dày giai đoạn đầu. Vùng bụng trên rốn thường xuất hiện những cơn đau bất thường, ngày càng dày và nặng hơn. Thời gian đầu, cơn đau thường xuất hiện khi đói quá hoặc no quá.
Cảm giác chướng hơi, đầy bụng, không tiêu hoá được. Đầy bụng trên sau khi ăn là cảm giác có thể biểu hiện bạn bị đau dạ dày ở mức độ nhẹ. Nên theo dõi tình trạng cơ thể mình để phát hiện bệnh sớm, dễ chữa trị. Trong trường hợp để lâu, bệnh tình sẽ trở nên nghiêm trọng, gây ra những biến chứng khó lường.
Ợ chua, ợ hơi hoặc có thể ợ ra chất đắng như mật, do sự vận động của dạ dày bị rối loạn làm thức ăn bị khó tiêu dẫn tới lên men và sinh ra hơi. Đây là một triệu chứng bệnh đau dạ dày thường gặp ở các bệnh nhân. Nếu tự nhiên mà bạn bị ợ và chướng bụng liên tục nên đi kiểm tra bác sĩ ngay.
Đau dạ dày nhẹ gây buồn nôn - Nôn hay buồn nôn là hiện tượng các thức ăn trong dạ dày bị đẩy ra ngoài qua đường miệng. Đây là triệu chứng đau dạ dày nhẹ thường gặp ở đại đa số người bệnh. Khi thường xuyên buồn nôn hoặc nôn bạn cần lưu ý. Vì nôn làm thức ăn trào ngược từ dạ dày đẩy ra miệng, nguy cơ dẫn đến rách thực quản, tổn thương niêm mạc dẫn đến bệnh đau dạ dày.
Có thể nôn ra máu hoặc đi cầu ra máu, do hiện tượng máu thoát ra khỏi thành mạch và chảy vào lòng ống tiêu hóa. Thường là do bệnh loét dạ dày tá tràng, hay ung thư dạ dày.
Chảy máu đường tiêu hóa [4]: Chảy máu dạ dày, chảy máu đường tiêu hóa là triệu chứng nặng của bệnh đau dạ dày. Nếu bệnh nhân rơi vào tình huống này mà không được cấp cứu ngay lập tức thì tính mạng sẽ bị đe dọa. Khi người bệnh bị chảy máu dạ dày, sẽ có các triệu chứng như nôn ra máu, đi ngoài ra máu, phân đen… Kèm theo đó là tình trạng người mệt mỏi, chóng mặt, choáng váng thường xuyên do mất máu… Hiện tượng, triệu chứng đau dạ dày này chứng tỏ bạn đang bị viêm loét dạ dày, tá tràng hoặc ung thư dạ dày…
Thay đổi thói quen đại tiện: Đầy hơi liên quan với đau bụng, thay đổi các thói quen đại tiện, hoặc giảm cân không giải thích được có thể là một dấu hiệu cho thấy bạn nhiễm một ký sinh trùng gọi là Giardia trong đường ruột.
Và một số triệu chứng ít gặp hơn như giảm cân nhanh, thiếu máu, đau tức vùng bụng trên, sờ thấy u trước bụng…
Chế độ ăn
Ăn uống hợp vệ sinh là khâu quan trọng nhất. Tránh các thức ăn kích thích niêm mạc dạ dày như rượu, bia, nước ngọt có ga, các loại thức ăn chua cay như canh chua, dưa muối, cà muối, cam, chanh, dứa, khế, sấu, tiêu, ớt, tỏi…
Các loại thực phẩm nên dùng: trứng, sữa, gạo nếp, … Uống sữa với chế độ hợp lí sẽ có tác dụng tốt đối với bệnh nhân đau dạ dày.
Hạn chế ăn các món nướng, chiên rán, các đồ ăn nhanh để phòng bệnh ung thư dạ dày.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Digestive Diseases A-Z The National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases
Đau dạ dày - nguyên nhân, dấu hiệu và cách chữa
Những thức ăn "đại kỵ" với người đau dạ dày
Bạn biết gì về bệnh đau dạ dày?
Đau dạ dày và cách điều trị - Sở y tế tỉnh Bắc Giang
Bệnh tiêu hóa
|
19497705
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kho%C3%A1ng%20v%E1%BA%ADt%20quang%20h%E1%BB%8Dc
|
Khoáng vật quang học
|
Khoáng vật quang học là nghiên cứu về khoáng vật và đá bằng cách đo đạc chúng qua tính chất quang học. Thông thường, mẫu đá và mẫu khoáng vật được chuẩn bị ở dạng lát mỏng hay hạt gắn kết cho nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm với kính hiển vi thạch học. Phương pháp này được sử dụng để xác định khoáng vật và thành phần của vật liệu địa chất để giúp xác định nguồn gốc và sự tiến hóa của chúng.
Một số tính chất và kỹ thuật được sử dụng bao gồm:
Chỉ số khúc xạ
Lưỡng chiết
Biểu đồ màu giao thoa Michel-Lévy
Hiện Tượng Đa Nguyên
Góc tắt
Hình ảnh giao thoa cực nhỏ (Hình giao thoa)
Kiểm tra đường Becke
Khoảng đặt tiêu cự
Dấu hiệu giãn dài (Chiều dài nhanh so với chiều dài chậm)
Tấm sóng
Lịch sử
William Nicol, người có tên tuổi gắn liền với việc tạo ra lăng kính Nicol, có khả năng là người đầu tiên chuẩn bị các lát mỏng của khoáng chất và phương pháp của ông đã được Henry Thronton Maire Witham (Tài khoản được xuất bản đầu tiên của Nicol vào năm 1831) áp dụng vào nghiên cứu sự hóa đá thực vật. Phương pháp này, có tầm quan trọng đáng kể trong lĩnh vực thạch học, đã không được sử dụng để khảo sát một cách hệ thống về đá, và phải đến năm 1858, Henry Clifton Sorby mới chỉ ra giá trị của nó. Trong khi đó, nghiên cứu quang học về các mặt cắt của tinh thể đã được ông David Brewster và các nhà vật lý và khoáng vật học khác nâng cao và nó chỉ được áp dụng vào các phương pháp của họ cho các khoáng chất có thể nhìn thấy trong các mặt cắt đá.
Mặt cắt
Mặt cắt của đá nên ở khoảng một phần nghìn của một inch (30 micrometres) về độ dày, và nó tương đối dễ dàng để thực hiện. Một mảnh vụn mỏng của đá khoảng 1 cm có thể được thực hiện , mảnh vụn này nên càng tươi càng tốt và lộ rõ vết nứt. Bằng cách mài nó trên một tấm của bào thép hoặc gang với một chút carborundum mịn và nó sẽ nhanh chóng được làm phẳng ở một mặt, và sau đó được chuyển sang một tấm kính và được làm mịn bằng đá nhám hạt mịn nhất cho đến khi loại bỏ hết độ nhám và vết rỗ, và bề mặt là bề mặt tiêu chuẩn. Sau đó, phôi đá được rửa sạch và đặt trên một tấm đồng hoặc sắt được nung nóng bằng cồn hoặc đèn khí đốt. Một vi kính trượt cũng được làm ấm trên tấm đồng hoặc sắt với một giọt nhớt tự nhiên của nhựa thơm Canada trên bề mặt của nó. Các thành phần dễ bay hơi hơn của nhựa thơm balsam bị nhiệt xua tan, và khi hoàn thành việc đó, đá mịn, khô, ấm được ép chặt để tiếp xúc với tấm kính để màng balsam có thể xen vào và vừa mỏng nhất có thể và không bị bọt khí. Phần chuẩn bị được cho phép để làm mát, và các phôi đá lại tiếp tục hoạt động như trước, đầu tiên với carborundum và khi nó trở nên trong suốt với đá nhám mịn cho đến khi đạt độ dày mong muốn. Sau đó, nó được làm sạch và nung nóng một lần nữa với thêm một số lượng nhỏ của nhựa thơm, và được bao phủ bởi một vỏ bọc bằng kính. Công việc của mài bề mặt đầu tiên có thể được tránh bằng cách cắt đứt một lát nhẵn với một đĩa sắt trang bị nghiền bột kim cương. Ứng dụng thứ hai của máy cưa mỏng, sau khi được làm nhẵn mặt đầu tiên và dính chặt vào kính, ở trong bàn tay chuyên gia, sẽ để lại một phần mặt cắt mỏng của đá để nó như là trong suốt. Bằng cách này, phần chuẩn bị mặt cắt của đá chỉ yêu cầu có hai mươi phút.
Kính hiển vi
Những kính hiển vi sử dụng thường là loại cung cấp một bộ phận quay bên dưới bộ phân cực, trong khi phía trên vật kính hoặc thị kính được gắn một máy phân tích; mặt khác, giai đoạn này có thể được cố định, và các lăng kính phân cực và phân tích có thể có khả năng quay đồng thời nhờ các bánh răng và một thanh nối. Nếu ánh sáng bình thường và không phân cực ánh sáng như mong muốn, cả hai lăng kính chỉ có thể bị rút khỏi trục của dụng cụ; nếu chỉ lắp bộ phân cực thì ánh sáng truyền qua là phân cực phẳng, với cả hai lăng kính ở vị trí, bản chiếu được nhìn trong ánh sáng phân cực chéo, còn được gọi là" nicol giao thoa". Một phần đá cực nhỏ trong ánh sáng thông thường, nếu sử dụng độ phóng đại thích hợp (ví dụ khoảng 30x), được nhìn thấy bao gồm các hạt hoặc tinh thể khác nhau về màu sắc, kích thước và hình dạng..
Đặc điểm của khoáng chất
Màu sắc
Một số khoáng vật là không màu và trong suốt (thạch anh, canxit, feldspar, muscovite, etc.), trong khi những khoáng vật khác có màu màu vàng hay nâu (rutil, tourmalin, biotit), xanh lục (sapphire, hornblend, chloride), xanh lam (glaucophane). Nhiều khoáng chất có thể cho nhiều màu sắc, trong cùng một hoặc loại đá khác nhau, hoặc thậm chí nhiều màu sắc trong một khoáng mẫu vật được gọi là sự phân vùng màu. Ví dụ, khoáng nhiên có thể có tâm khu vực của màu khác nhau, từ nâu, vàng, hồng, màu xanh, màu xanh, màu tím, hay màu xám, đến không màu. Mỗi khoáng vật đều có một hoặc nhiều sắc thái phổ biến
Thói Quen Và Cát Khai
Hình dạng của các tinh thể xác định một cách tổng quát đường nét của các phần của chúng được trình bày trên các mặt. Nếu khoáng vật có một hoặc nhiều mặt cát khai tốt, chúng sẽ được biểu thị bằng tập hợp các mặt phẳng định hướng tương tự được gọi là mặt phẳng phân cắt.
Hướng của cát khai của mặt phẳng phân cắt được xác định bởi cấu trúc tinh thể của khoáng chất và hình thành ưu tiên thông qua mặt phẳng mà các liên kết yếu nhất nằm, do đó định hướng của mặt phẳng phân cắt có thể được sử dụng trong khoáng vật học quang học để xác định khoáng vật.
Chỉ số khúc xạ & lưỡng chiết
Thông tin liên quan đến chiết suất của khoáng chất có thể được quan sát bằng cách so sánh với các vật liệu xung quanh. Đây có thể là các khoáng chất khác hoặc môi trường chứa hạt gắn kết. Sự khác biệt điểm đặt tiêu cự càng lớn thì sự khác biệt về chiết suất giữa các phương tiện càng lớn. Vật liệu có chiết suất thấp hơn và do đó giảm nhẹ hơn sẽ xuất hiện chìm vào trong nắp trượt hoặc giá đỡ, trong khi vật liệu có chiết suất cao hơn sẽ có độ chiết suất cao hơn và dường như bật ra. Phép thử đường Becke cũng có thể được sử dụng để so sánh chiết suất của hai môi trường.
Hiện tượng Đa nguyên
Thông tin xa hơn thu được bằng cách đưa bộ phân cực dưới và xoay phần mặt cắt. Nói chung, ánh sáng dao động trong một mặt phẳng, và khi truyền qua các tinh thể khúc xạ kép trong bản chiếu, nói chung, chia thành các tia, dao động vuông góc với nhau. Trong nhiều khoáng chất có màu như biotit, hornblend, tourmaline, clorit, hai tia này có màu sắc khác nhau, và khi xoay một phần chứa bất kỳ khoáng chất nào trong số này, sự thay đổi màu sắc thường có thể nhận thấy rõ ràng. Tính chất này, được gọi là "đa nguyên" có giá trị lớn trong việc xác định thành phần khoáng vật.
Hiện tượng đa nguyên thường đặc biệt mạnh mẽ trong những vị trí đốm nhỏ đó bao quanh vỏ bọc nhỏ những khoáng chất khác, như zircon và epidot. Chúng được gọi là "quầng đa màu."
Các sản phẩm biến đổi
Một số khoáng chất dễ bị phân hủy và trở nên đục và nửa trong suốt (ví dụ như fenspat); những loại khác vẫn luôn tươi và trong suốt hoàn toàn (ví dụ như thạch anh), trong khi những loại khác tạo ra các sản phẩm thứ cấp đặc trưng (chẳng hạn như chlorit xanh sau biotit). Các thể vùi trong tinh thể (cả rắn và lỏng) rất được quan tâm; một khoáng chất có thể bao bọc một khoáng chất khác, hoặc có thể chứa những khoảng trống bị thủy tinh, chất lỏng hoặc khí chiếm chỗ.
Cấu Trúc Vi Mô
Cấu trúc của đá - mối quan hệ của các thành phần của nó với nhau - thường được chỉ ra rõ ràng, cho dù nó là mảnh vỡ hay khối lượng lớn; sự hiện diện của vật chất thủy tinh trái ngược với tình trạng hoàn toàn kết tinh hoặc "tinh thể holo"; bản chất và nguồn gốc của các mảnh hữu cơ; dải, tán lá hoặc cán mỏng; các cấu trúc pumiceous (đá bọt) hoặc cấu trúc lỗ rỗng của dung nham. Những ký tự này và nhiều ký tự khác, mặc dù thường không nhìn thấy trong các mẫu vật bằng tay của một tảng đá, nhưng được hiển thị rõ ràng bằng cách kiểm tra mặt cắt hiển vi. Có thể áp dụng nhiều phương pháp quan sát chi tiết khác nhau, chẳng hạn như đo kích thước của các phần tử của đá nhờ sự trợ giúp của micromet, tỷ lệ tương đối của chúng bằng một tấm kính có hình vuông nhỏ, các góc giữa các khe hở hoặc các mặt nhìn thấy phần bằng cách sử dụng giai đoạn chia độ quay và ước tính chiết suất của khoáng chất bằng cách so sánh với chiết suất của các phương tiện gắn kết khác nhau.
Khúc Xạ Kép
Nếu phân tích được đưa vào một vị trí mà nó tương đối vượt qua với bộ phân cực, khoảng nhìn thấy sẽ tối ở nơi không có những khoáng chất hoặc nơi mà ánh sáng đi qua đẳng chất như kính, chất lỏng và khối tinh thể. Tất cả các bộ phận tinh thể, được gấp đôi khúc xạ, sẽ xuất hiện sáng trong một số vị trí như những giai đoạn này là xoay. Ngoại lệ duy nhất với quy tắc này được cung cấp bởi các mặt cắt đó là vuông góc với quang trục của lưỡng chiết tinh thể, phần vẫn tối hoặc gần tối trong suốt quá trình quay, việc khảo sát phần đó thường quan trọng.
Góc tắt
Các phần khoáng chất khúc xạ kép trong mọi trường hợp sẽ xuất hiện màu đen ở một số vị trí nhất định khi bậc này được quay. Chúng được cho là sẽ "tuyệt chủng" khi điều này diễn ra. Góc giữa chúng và bất kỳ khe hở nào có thể được đo bằng cách xoay bậc này và ghi lại các vị trí này. Những góc này là đặc trưng của hệ thống mà khoáng vật thuộc về, và thường là của chính loài khoáng vật đó (xem Tinh thể học). Để thuận tiện cho việc đo góc tắt, nhiều loại thị kính khác nhau đã được phát minh ra, một số có một tấm canxit lập thể, một số khác có hai hoặc bốn tấm thạch anh kết dính với nhau. Chúng thường cho kết quả chính xác hơn là thu được bằng cách chỉ quan sát vị trí mà phần khoáng chất tối hoàn toàn giữa các nicol giao nhau.
Các phần khoáng chất khi không bị dập tắt không chỉ sáng mà còn có màu và màu sắc của chúng phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó quan trọng nhất là độ mạnh của khúc xạ kép. Nếu tất cả các mặt cắt có cùng độ dày, gần như đúng với các phiến kính được chế tạo tốt, thì các khoáng chất có khúc xạ kép mạnh nhất sẽ mang lại màu sắc phân cực cao nhất. Thứ tự sắp xếp các màu được thể hiện theo thang đo Newton, thấp nhất là màu xám đậm, sau đó là xám, trắng, vàng, cam, đỏ, tím, xanh lam, v.v. Chênh lệch giữa chiết suất của tia thường và tia bất thường trong thạch anh là 0,009, và trong một phần đá dày khoảng 1/500 inch, khoáng chất này cho màu sắc phân cực xám và trắng; nepheline có khúc xạ kép yếu hơn cho màu xám đen; Mặt khác, augit sẽ cho màu đỏ và xanh lam, trong khi canxit có khúc xạ kép mạnh hơn sẽ có màu hơi hồng hoặc trắng lục. Tuy nhiên, tất cả các mặt cắt của cùng một khoáng chất sẽ không có cùng màu: các mặt cắt vuông góc với trục quang học sẽ gần như màu đen và nói chung, càng gần mặt cắt nào tiếp cận theo hướng này thì màu sắc phân cực của nó càng thấp. Bằng cách lấy giá trị trung bình, hoặc màu cao nhất do bất kỳ khoáng vật nào cho, có thể ước tính giá trị tương đối của khúc xạ kép của nó, hoặc nếu biết chính xác độ dày của mặt cắt thì có thể xác định chính xác sự khác biệt giữa hai chiết suất. Nếu các trang chiếu dày thì màu sắc sẽ cao hơn toàn bộ so với các trang chiếu mỏng.
Nó thường quan trọng để tìm hiểu xem trong hai trục đàn hồi (hoặc dấu vết dao động) trong mặt cắt mà trục có độ đàn hồi lớn hơn (hay chiết suất nhỏ hơn).Thạch anh nêm hoặc selenite tấm cho phép này. Giả sử một gấp đôi khúc khoáng phần đặt nó là "hủy diệt", nếu bây giờ, xoay qua 45 độ, nó sẽ được chiếu sáng rực rỡ. Nếu thạch anh nêm được vượt qua nó, vì vậy mà trục dài của nêm là song song với trục độ đàn hồi trong những phần sự phân cực màu sắc sẽ lên hoặc xuống. Nếu họ nổi dậy trục đàn hồi lớn trong hai khoáng chất là song song, nếu họ chìm trục đàn hồi lớn ở một trong những song song với mà ít tính đàn hồi trong khác. Trong trường hợp này bằng cách đẩy nêm đủ xa bóng tối hoàn toàn hoặc bồi thường sẽ kết quả. Selenite nêm, selenite tấm mica nêm và mica tấm cũng được dùng cho mục đích này. Một thạch anh nêm cũng có thể được chỉnh bởi xác định lượng khúc xạ kép trong tất cả các bộ phận của chiều dài của nó. Nếu bây giờ nó được dùng để sản xuất bồi thường hay diệt hoàn toàn trong bất kỳ gấp đôi khúc khoáng phần, chúng tôi có thể xác định là gì sức mạnh của đôi xạ của phần bởi vì nó là rõ ràng là tương đương và ngược lại của một biết một phần của thạch anh nêm.
Một sự cải tiến hơn nữa của các phương pháp hiển vi bao gồm việc sử dụng ánh sáng phân cực hội tụ mạnh (phương pháp hiển vi). Điều này thu được nhờ một tụ thơm có góc rộng phía trên bộ phân cực và một vật kính hiển vi công suất cao. Những phần này hữu ích nhất là vuông góc với trục quang học, và do đó, kết quả là vẫn tối khi quay. Nếu chúng thuộc về tinh thể đơn trục, chúng cho thấy vùng tối đi qua hoặc ánh sáng hội tụ giữa các nicol giao nhau, các thanh của chúng vẫn song song với các dây trong trường của thị kính. Các mặt cắt vuông góc với trục quang học của khoáng chất hai trục trong cùng điều kiện cho thấy một thanh tối khi quay trở nên cong thành hình hypebol. Nếu mặt cắt vuông góc với "đường phân giác" (xem Tinh thể học) thì sẽ thấy một chữ thập màu đen khi quay sẽ mở ra tạo thành hai hypebol, các đỉnh của chúng sẽ quay về phía nhau. Các trục quang học xuất hiện ở đỉnh của các hypebol và có thể được bao quanh bởi các vòng màu, mặc dù do độ mỏng của khoáng chất trong các phần đá, chúng chỉ được nhìn thấy khi khúc xạ kép của khoáng vật mạnh. Khoảng cách giữa các trục như được thấy trong trường của kính hiển vi một phần phụ thuộc vào góc trục của tinh thể và một phần vào khẩu độ số của vật kính. Nếu nó được đo bằng micromet mảnh mắt, góc trục quang học của khoáng vật có thể được tìm thấy bằng một phép tính đơn giản. Nêm thạch anh, một phần tư tấm mica hoặc tấm selente cho phép xác định đặc tính tích cực hoặc tiêu cực của tinh thể bằng những thay đổi về màu sắc hoặc hình dạng của các hình quan sát được tại hiện trường. Các thao tác này tương tự như các thao tác mà nhà khoáng vật học sử dụng trong việc kiểm tra các tấm cắt từ tinh thể.
Đánh giá bột đá
Mặc dù đá hiện nay được nghiên cứu chủ yếu ở các phần vi mô, nhưng việc khảo sát bột đá nghiền mịn, là nhánh đầu tiên của thạch học vi mô nhận được sự chú ý, vẫn đang được sử dụng tích cực. Các phương pháp quang học hiện đại có thể dễ dàng áp dụng cho các mảnh khoáng chất trong suốt thuộc bất kỳ loại nào. Khoáng chất gần như dễ dàng xác định ở dạng bột cũng như phần mặt cắt, nhưng với đá thì khác, vì cấu trúc hoặc mối quan hệ của các thành phần với nhau. Đây là một yếu tố có tầm quan trọng lớn trong việc nghiên cứu lịch sử và phân loại đá, và gần như bị phá hủy hoàn toàn khi nghiền chúng thành bột.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Video tập bản đồ khoáng sản phần mỏng
Bảng dữ liệu động để nhận dạng phần mỏng từ các đặc tính quang học
Phân cực
Quang khoáng vật học
|
19523426
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0ng%20gi%C3%A1o%20c%C3%B3%20g%C3%AC%20vui
|
Làng giáo có gì vui
|
"Làng giáo có gì vui" là một bút ký của nhà văn Hoàng Minh Tường trong giai đoạn Đổi Mới tại Việt Nam. Tác phẩm được đăng trên Tuần báo Văn Nghệ vào tháng 10 năm 1987, sau đó được nhà xuất bản Lao Động in lại trong truyện ngắn Đa thê năm 1995. Nội dung bút ký xoay quanh tình cảnh ngành giáo dục Việt Nam những năm đầu đổi mới, nhiều nhà giáo có gia cảnh khó khăn và không còn nhiều nhiệt huyết trên bục giảng.
Nội dung
Tiếng chuông đầu tiên
Vào khoảng ba giờ đêm cuối tháng 3 năm 1987, một công chức ở Thành phố Hồ Chí Minh gọi điện cấp báo đến văn phòng Công đoàn giáo dục Việt Nam ghi nhận đơn xin nghỉ việc của 2.105 giáo viên trong vòng mấy tháng qua tại các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Mấy ngày sau đó, các tỉnh phía Nam công điện liên tục tới Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng thời với Công đoàn giáo dục Việt Nam về tình trạng giáo viên nghỉ việc. Giai đoạn 1986–1987, thống kê ước tính số giáo viên các tỉnh miền Nam nghỉ việc lên tới vạn vì tiền lương không đủ sinh sống. Vừa nhậm chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo được vài tháng, Phạm Minh Hạc cấp tốc đến Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nhằm tìm giải pháp ngăn chặn giáo viên bỏ nghề.
Ngày 7 tháng 8 năm 1987 trên báo Nhân Dân, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh kêu gọi quan tâm đến đời sống nhà giáo trong chuyên mục Những việc cần làm ngay. Các biện pháp cứu trợ nhanh chóng được chính quyền địa phương trên toàn quốc thực hiện, hầu hết số giáo viên xin nghỉ việc quay trở lại giảng dạy. Theo kết luận từ tác giả, đội ngũ giáo viên hao hụt do nguyên nhân một phần từ xã hội tín nhiệm họ tham gia vào các lĩnh vực kinh tế, nhưng phần đông là do tâm can họ không còn trên bục giảng vì chuyện gạo củi. Hiện tượng nhiều giảng viên đại học sốt sắng xin được giảng dạy ở châu Phi trong vai trò chuyên gia xuất hiện phổ biến.
Định nghĩa mới về nghề thầy
Trong một lần đến một trường học ở nông thôn, Hoàng Minh Tường và các giáo viên tại đây bàn luận về định nghĩa nhà giáo. "Thầy giáo là người nông dân có nghề phụ là nghề dạy học" được đúc rút, nguyên nhân do giáo viên làm ruộng lúa ở nông thôn và làm nghề phụ nếu ở thành phố. Trong một lần ra đảo Phú Quốc năm 1986, các nhà giáo nói rằng giáo viên muốn sống được thì cần phải đi biển đánh cá hoặc trồng hồ tiêu. Sau đó, Hoàng Minh Tường trở lại Đồng bằng sông Cửu Long và tiếp xúc rất nhiều nhà giáo nuôi lợn, làm vườn, gieo trồng lúa. Sau khi thực địa Đồng bằng sông Hồng và chứng kiến nhiều giáo viên tranh thủ làm ruộng khoán, tác giả sửng sốt bối cảnh tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu diễn ra ba mươi năm trước đang lặp lại. Một số khu vực gần làng gốm Bát Tràng, nhiều giáo viên đến xin làm phụ trong làng nghề. Người bạn Đỗ Ngọc Quang gửi thư từ thành phố Cần Thơ đề cập cô giáo Nguyễn Thị Kim Hoa dạy giỏi, đồng thời nêu thực trạng người chồng cô Hoa là hiệu phó trường phổ thông cơ sở nhưng vẫn phải tranh thủ đi xe đạp chở khách kiếm tiền thêm.
Những nghịch lý có thực
Tính đến năm 1987, ngành giáo dục Việt Nam đã tiến hành thay sách giáo khoa được bảy năm, ước tính số giáo viên nắm vững chương trình giảng dạy mới không vượt quá 50%. Trong chương trình sách giáo khoa lớp bảy, nhiều giáo viên gặp khó khăn trong nhiều bài tập và nhiều chương. Hoàng Minh Tường cho rằng cải cách giáo dục phải bắt đầu từ người thầy và cơ sở vật chất, nhưng thực tế lại tiến hành ngược lại khi đội ngũ giáo viên hoàn toàn bị động và chưa kịp tiếp cận giáo trình sách mới. Phòng giáo dục quận Hoàn Kiếm cho biết hầu như giáo viên trung học cơ sở không được phân nhà ở tại thành phố Hà Nội, các giáo viên Trường Trung học cơ sở Trưng Vương cho biết "chuyện được phân nhà với chúng tôi là một ảo tưởng". Căn hộ gia đình vợ chồng thầy giáo Vũ Xuân Túc—dạy học tại Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội – Amsterdam— tại phố Bùi Thị Xuân rộng sáu mét vuông, khách và chủ nhà không thể đứng thẳng vì chạm trần nhà. Thầy giáo Vũ Xuân Túc cho biết không thấy học trò giỏi của mình thi vào sư phạm mấy năm gần đây, trong khi trưởng phòng giáo dục thị xã Hải Dương nêu tình cảnh không có học sinh giỏi thi vào ngành sư phạm. Chánh thư ký công đoàn giáo dục tỉnh Hải Hưng Trịnh Dưỡng nhận định tình cảnh hiện tại lực bất tòng tâm. Giáo viên được nhận đồng loạt mỗi tháng năm lạng đường và hai cân gạo theo chế độ lương cũ trước đó, bây giờ các tiêu chí cũ bị bãi bỏ và chỉ trả bằng tiền mặt. Các báo cáo ghi nhận giáo viên mắc bệnh nghề nghiệp, trong khi sư phạm vẫn chưa được coi là một nghề lao động đặc thù. Nhiều trường học xiêu vẹo và dột nát, trong khi kế bên là một trụ sở ủy ban hoặc một hội trường bề thế.
Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Trong một lần đến thăm trường Bắc Lý—nơi khai sinh khẩu hiệu "Tất cả vì tương lai con em chúng ta", Hoàng Minh Tường cùng một nhà giáo dục tranh luận về khẩu hiệu này. Đề xuất bỏ cụm từ "tương lai" vì cần sống cho hiện tại, hoặc đề xuất thay đổi "Tất cả vì chúng ta và con em chúng ta". Điển cố thầy đồ Nguyễn Phi Khanh dạy học ở tư gia Tư đồ Trần Nguyên Đán nói về sự quý trọng nhà giáo của tiền nhân. Nhiều ngôi trường mái ngói đỏ hoặc cao tầng do người dân đóng góp và xây dựng. Tại trường mầm non Hoa Sứ của nhà máy sứ Hải Dương, 21 cô giáo ngoài tiền lương của ngành giáo dục thì được nhà máy phụ cấp ăn trưa và tiền thưởng tăng giờ cùng với nhà ở. Tại trường trung học phổ thông kỹ thuật Gang thép Thái Nguyên, công ty Gang thép Thái Nguyên cho nhà trường sắt vụn để giảng dạy hướng nghiệp. Tác giả cho rằng nhà giáo sống bằng sự hảo tâm của người dân, nhưng rồi sự hảo tâm cũng có giới hạn và nhà giáo cần thực sự sống được bằng đồng lương của họ. Bút ký kết luận cần phải xem lại chế độ chính sách với ngành giáo dục, đồng thời đề nghị các hợp tác xã và cơ quan nhiều doanh thu nên có một phần nghĩa vụ đóng góp cho giáo dục.
Hoàn cảnh ra đời
Kinh tế Việt Nam thập niên 1980 khó khăn, nhiều lĩnh vực tính đến năm 1987 "vẫn tiếp tục đà rơi tới đáy". Giáo dục – văn hóa vẫn tiếp tục khủng hoảng, hiện tượng hàng loạt giáo viên bỏ nghề do mức lương không đủ sống, học sinh chán nghề sư phạm. Nghề giáo giai đoạn này được đúc kết bằng câu so sánh "thầy cô giáo là người nông dân có nghề phụ là nghề dạy học", "chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm". Đa số nhà giáo phải làm thêm việc phụ (như chạy xe ôm, bán hàng ngoài chợ) để gia tăng thu nhập. Một thời gian sau, tình trạng dạy học thêm tràn lan xuất hiện, phụ huynh lo lắng giáo viên không dạy tận tình so với lớp học thêm, các nhà quản lý giáo dục ban hành nhiều chỉ thị nhằm cấm dạy thêm. Hiện tượng "dạy chui" xuất hiện, được hợp thức hóa bằng đơn xin mở lớp học thêm của phụ huynh.
Sau khi nhà văn Nguyên Ngọc được cử về làm Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, số lượng bản in của báo gia tăng từ 2.000 bản lên đến 70.000 bản một số in phát hành, nhiều loạt phóng sự được độc giả đón nhận rộng rãi như "Vua lốp" của Trần Huy Quang và "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của Phùng Gia Lộc. Hoàng Minh Tường khi đó đang là phóng viên báo Người giáo viên nhân dân, thâm niên hoạt động về giáo dục khoảng mười năm. Trưởng ban văn xuôi Ngô Ngọc Bội cùng Tổng biên tập báo Văn Nghệ Nguyên Ngọc gặp mặt tác giả trong một buổi họp cộng tác viên tại Hà Nội; sau đó họ đề xuất tác giả viết một phóng sự về giáo dục. Cộng tác viên Hoàng Viết Nghiệm—hiện đang làm việc tại Công đoàn Giáo dục Việt Nam—thông báo cho tác giả về một báo cáo hàng nghìn giáo viên tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nghỉ việc, Hoàng Minh Tường quyết định viết một phóng sự với tựa đề "Làng giáo có gì vui".
Sáng tác
Năm 1980, Hoàng Minh Tường cùng nhà văn Nguyễn Vũ Tiềm có chuyến đi thị sát giáo dục Đồng bằng sông Cửu Long; sau đó tác giả tiếp tục hành trình một mình đến Phú Quốc do người đồng hành bận chuyện đời tư. Trên chuyến đi từ Hà Tiên đến Phú Quốc, tác giả đã đi cùng một công chức Sở giáo dục Kiên Giang trên chiếc ghe chở lợn của hai cha thương lái. Tại Phú Quốc, tác giả đã miêu tả lại cuộc sống khốn khó của thầy cô giáo dạy học sau khi chuyển công tác từ tỉnh Thái Bình đến đây.
Hoàng Minh Tường phác thảo bút ký với đề mục "Hồi chuông lúc nửa đêm", tiếp tục viết đề mục "Định nghĩa mới về nghề thầy"; sau đó tác giả đi thực địa đến làng gốm Bát Tràng để tìm hiểu về thực trạng nhà giáo làm thuê tại đây khi hết tiết giảng dạy. Hoàng Minh Tường đến thăm gia đình nhà giáo Vũ Xuân Túc—hai vợ chồng dạy học tại Trường Trung học phổ thông chuyên Hà Nội – Amsterdam—và đề cập gia cảnh họ trong bút ký này. Tác giả cho biết động lực sáng tác nhằm có "một phúc trình về hiện trạng đời sống nhà giáo và ngành giáo dục lên Chính phủ, góp phần tạo dựng những chính sách kịp thời, tháo gỡ nhiều khó khăn cho nhà giáo, nhà trường ngay sau đó".
Phát hành
Bút ký được Hoàng Minh Tường đăng trên Tuần báo Văn Nghệ năm 1987, sau đó nhà xuất bản Lao Động tuyển tập trong truyện ngắn Đa thê vào năm 1995.
Đón nhận
Xã hội
Sau khi bút ký đăng trên Tuần báo Văn Nghệ, nhiều trường học và nhiều giáo viên sao chụp, chuyền tay nhau đọc. Bút ký gây chấn động công chúng Việt Nam. Trường Giang biên khảo sách Một thập kỷ bài báo hay nhận định bút ký "vừa nói lên một cảnh đời chua chát vừa thể hiện một sự đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với những đồng nghiệp".
Truyền thông
Lã Nguyên trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An cho biết "có rất nhiều bài phê bình xuất hiện trên mặt báo để phát biểu một ý kiến nào đó về những phóng sự, ví như "Người đàn bà quỳ", "Vua lốp", "Làng giáo có gì vui"". Trần Thiện Khanh trên báo Nhân Dân coi bút ký là "những trường hợp tiêu biểu, một thành quả của đổi mới ở thể loại ký sự, phóng sự". Cũng trên báo Nhân Dân, Song Hà nhận xét bút ký "như một lời cảnh tỉnh, là sự giật mình vì sự nghèo vật chất, sự coi thường giá trị tinh thần nguy hại đến thế nào". Hà Trọng Nghĩa trên báo Đại Đoàn Kết cho rằng bút ký "đã gây chấn động không chỉ làng giáo"; đồng thời "cho thấy những người làm giáo dục, nhất là những thầy cô đứng lớp không hẳn ai cũng vui, ai cũng tự hào, và nhất là ít người được ăn sung mặc sướng lắm". Trần Huy Quang trên báo Người đô thị nhấn mạnh đây là một trong "những bút ký, phóng sự phản ánh những bức xúc xã hội tới tấp gửi đến báo Văn nghệ".
Văn đàn
Đỗ Thị Hương Thủy tại Đại học Đà Nẵng khen ngợi đây là một trong những bút ký "gây chấn động dư luận với ý thức nhìn thẳng vào sự thật". Đỗ Hải Ninh tại Viện Văn học phân tích: "Đói nghèo thiếu thốn là tình trạng chung của xã hội nhưng trong "Làng giáo có gì vui" lại diễn ra một nghịch lý hết sức bi hài, giáo viên vừa dạy học vừa phải làm thêm đủ nghề mà vẫn đói nghèo hơn cả nông dân, có thể gọi họ là những nông dân đi dạy học". Cù Thị Bích Thủy tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội bình phẩm ""Làng giáo có gì vui" – những dấu hiệu suy sụp đáng lo ngại về nghề thầy giáo, về sự nghiệp giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau". Tiến sĩ Hoàng Minh Lường tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền gợi nhắc bút ký "Làng giáo có gì vui" cùng với Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng Phụng và "Làm no hay cái ăn trong những ngày nước ngập" của Ngô Tất Tố; đồng thời nhận xét điểm chung "đều lấy tâm điểm sự kiện là những nghịch lý của hoàn cảnh sinh tồn để gợi lên sự nhức nhối của trí tuệ và thức tỉnh lương tri người đọc". Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đánh giá "Làng giáo có gì vui" là "một bài phóng sự khá sắc sảo viết về giáo giới ở ta".
Chính khách
Sau khi Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đọc bút ký, vợ chồng nhà giáo Vũ Xuân Túc được phân nhà mới tại thành phố Hà Nội.
Tác động
Sau khi đăng bút ký "Làng giáo có gì vui" trên Tuần báo Văn Nghệ, Hoàng Minh Tường tiếp tục đến tỉnh Hòa Bình viết bút ký "Anh hùng khi đã sa cơ" nói về Trường Thanh niên Lao động XHCN Hoà Bình. Nội dung bút ký nối tiếp kể lại phương thức giáo dục vừa học vừa làm thời bao cấp tại Việt Nam, sau đó tác giả chuyển sang làm việc tại báo Văn Nghệ.
Xem thêm
Tắt đèn (1937, Ngô Tất Tố)
Chí Phèo (1941, Nam Cao)
Lão Hạc (1943, Nam Cao)
Chú thích
Bút ký Việt Nam
Việt Nam thập niên 1980
Thời bao cấp
Tác phẩm năm 1987
Lịch sử Hà Nội
Việt Nam năm 1987
|
2573951
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pterolophia%20szewezycki
|
Pterolophia szewezycki
|
Pterolophia szewezycki là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Pterolophia
|
3211566
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Thanh%20Tu%E1%BA%A5n
|
Nguyễn Thanh Tuấn
|
Nguyễn Thanh Tuấn (1954) là một vị tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Trước đó, ông từng giữ chức Phó Cục trưởng Cục Chính trị Quân khu 5
Năm 2008, bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Chính trị Quân khu 5
Năm 2010, bổ nhiệm giữ chức Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị
Thiếu tướng (2008), Trung tướng (2012)
Năm 2014, nghỉ hưu
Chú thích
Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
|
2806920
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ichneumon%20epomidius
|
Ichneumon epomidius
|
Ichneumon epomidius là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ichneumon
|
2594769
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anisozyga%20moniliata
|
Anisozyga moniliata
|
Anisozyga moniliata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Eucyclodes
|
2600143
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cataspilates%20quadrilinea
|
Cataspilates quadrilinea
|
Cataspilates quadrilinea là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Cataspilates
|
13948345
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/George%20Zweig
|
George Zweig
|
George Zweig (; sinh ngày 30 tháng 5 năm 1937) là nhà vật lí người Mỹ gốc Nga, sinh ra tại Moscow. Ông được đào tạo vật lý hạt dưới sự hướng dẫn của Richard Feynman. Ông được giải thưởng MacArthur Fellowship.Sau khi giới thiệu độc lập với Gell-Mam mô hình quark(mặc dù ông đặt tên là "aces") ông chuyển sự chú ý sang thần kinh học.<google>
Ông đã giới thiệu, độc lập với Murray Gell-Mann, mô hình quark (mặc dù ông đặt tên là "aces"). Sau đó ông chuyển sự chú ý của mình sang thần kinh học. Ông đã làm việc như một nhà khoa học nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos và MIT, và trong ngành dịch vụ tài chính.
Thời trẻ
Zweig được sinh ra ở Moscow, Nga vào một gia đình Do Thái. Cha ông là một kỹ sư dân dụng kết cấu. Ông tốt nghiệp Đại học Michigan năm 1959, với bằng cử nhân toán học, đã tham gia nhiều khóa học vật lý như môn tự chọn. Ông lấy bằng tiến sĩ về vật lý lý thuyết tại Viện Công nghệ California năm 1964.
Sự nghiệp
Zweig đề xuất sự tồn tại của các quark tại CERN, độc lập với Murray Gell-Mann, ngay sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ của ông. Zweig gọi họ là "aces", sau bốn lá bài, bởi vì anh ta suy đoán có bốn người trong số họ (trên cơ sở bốn lepton tồn tại được biết đến vào thời điểm đó). Sự ra đời của các quark cung cấp một nền tảng cho vật lý hạt.
Giống như Gell-Mann, ông nhận ra rằng một số tính chất quan trọng của các hạt như baryon (ví dụ, proton và neutron) có thể được giải thích bằng cách xử lý chúng như ba bộ phận của các hạt cấu thành khác (mà ông gọi là aces và Gell-Mann gọi là quark) số baryon và điện tích. Không giống như Gell-Mann, Zweig đã phần nào dẫn đến hình ảnh của ông về mô hình quark bởi những phân rã đặc biệt suy giảm của meson to π, một tính năng được mã hóa bởi cái được gọi là Quy tắc OZI, " Z "viết tắt của" Zweig ". Trong thuật ngữ kỹ thuật tiếp theo, cuối cùng các quark của Gell-Mann gần với "các quark hiện tại", trong khi Zweig là "các quark thành phần".
Tham khảo
Giải thưởng MacArthur Fellows
|
2907881
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agrotis%20clodiana
|
Agrotis clodiana
|
Agrotis clodiana là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
C
|
15433301
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/NGC%20410
|
NGC 410
|
NGC 410 là một thiên hà hình elip nằm trong chòm sao Song Ngư. Nó được phát hiện vào ngày 12 tháng 9 năm 1784 bởi William Herschel. Nó được Dreyer mô tả là "khá sáng, khá lớn, phía đông bắc của 2.", cái còn lại là NGC 407.
Tham khảo
Thiên hà elip
Chòm sao Song Ngư
Thiên thể phát hiện năm 1784
Thiên thể NGC
|
2636075
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontopera%20orographica
|
Odontopera orographica
|
Odontopera orographica là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Odontopera
|
2628379
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leptodontopera%20basipuncta
|
Leptodontopera basipuncta
|
Leptodontopera basipuncta là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Leptodontopera
|
14453049
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alina%20Fern%C3%A1ndez
|
Alina Fernández
|
Alina Fernández Revuelta (sinh năm 1956) là một nhà hoạt động xã hội người Cuba. Bà là con gái của vị lãnh đạo của Cuba là ông Fidel Castro. Bà đã bị chỉ trích bởi chính quyền của Cuba, nơi bà sống cho đến năm 1993.
Tiểu sử
Fernández sống với người mẹ của mình là bà Natalia Revuelta Clews, người sinh ra tại Havana vào năm 1925 và người cha dượng Orlando Fernández. Ở Cuba, bà Fernández sống với công việc của một người mẫu và giám đốc điều hành về quan hệ công chúng của một công ty thời trang của Cuba, theo như Ban Chương trình Đại học. Vào năm 1993, khi đã 37 tuổi, bà đã rời Cuba đến Tây Ban Nha, có sử dụng những giấy tờ giả và cả tóc giả. Elena Díaz-Verson Amos, một di dân người Cuba, và người chồng của bà là John Amos (một người thành lập ra Alfac) đã giúp bà Fernández rời khỏi Cuba. Fernández đã sống ở Columbus, Georgia với Díaz-Verson trong một số năm.
Bà Fernández đã rời đến Miami, Florida và bà làm việc cho một đài phát thanh. Vào năm 1998, bà viết cuốn sách Con gái của Castro: Hồi ký của một người chạy trốn của Cuba đã mô tả cuộc sống của mình ở Cuba và những thay đổi xảy ra trong gần 4 thập niên đã qua. Bà có một chường trình phát thanh có tên là Simplemente Alina (Alina Đơn giản) thuộc đài WQBA ở Miami. Vào thứ ba và thứ năm, giá vé trong chương trình của bà la tốt, với những khách mời như các họa sĩ và nhà soạn nhạc. Bà dành những ngày thứ tư để nói về chính trị của Cuba.
Bà có một người con gái. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2008 với tạp chí Foreign Policy, bà nói rằng bà thân thiét với người chú của mình là Raúl Castro hơn là người cha Fidel. Bà nói rằng Raúl, người tiếp nối cha bà với vai trò chủ tịch của Cuba, đã giúp đỡ bà trong một số dịp. "Ông ấy là con người mà bạn có thể đến và yêu cầu sự giúp đỡ trong mọi lúc nếu như bạn có một vấn đề thực tế nào đó. Về mặt cá nhân tôi hỏi ông ấy để được sự giúp đỡ hai lần, và ông ấy giúp tôi ngay lập tức. Trong gia đình này, ông ấy là người duy nhất có thể giúp bạn. Trong những vấn đề như thế này, Fidel thực sự không giúp ích gì".
Vê việc bà có muốn trở lại Cuba hay không, bà Fernández đã trả lời: "Tôi không biết. Trong những năm sống dài, tôi đã trở thành một cái cây già cỗi và già cỗi hơn mà không có gốc".
Vụ kiện
Người cô của bà Fernández, Juanita Castro, đã tố cáo cháu mình vì tội phỉ báng nói xấu vê các đoạn văn về đoạn tự truyện về Juanita và cha mẹ của Fidel, Angél Castro và Lina Ruz. Vào năm 2005, một phiên tòa tiếng Tây Ban Nha đã phán quyết Fernández và Plaza & Janes, nhà xuất bản tại Barcelona của Random House, phải trả 45000 dollar Mỹ cho Juanita, người nói rằng cuốn sách đã phỉ báng gia đình của bà: "Những người đã ăn hết đĩa của Fidel hôm qua đến đây và muốn có tiền và quyền lực, vì vậy họ nói bất cứ điều gì họ muốn, ngay cả khi điều đó không đúng... Một phần gia đình tôi chịu trách nhiệm cho rất nhiều đau khổ ở Cuba - bạn không thể thay đổi cái đó". Juanita cũng nói thêm rằng: "Nhưng không ai có quyền xúc phạm gia đình của Fidel. Xúc phạm Fidel - có rất nhiều điều để nói". Một bản dịch tiếng Anh của cuốn tự truyện nói trên đã loại bỏ những đoạn đó.
Chú thích
Liên kết ngoài
Castro's Daughter Pleads for Her Own, The New York Times.
Sách và tự truyện
Havana Dreams, a Story of Cuba by Wendy Gimbel (Alfred A. Knopf, 1998)
Castro's Daughter, An Exile's Memoir of Cuba by Alina Fernandez (St. Martin's Press, 1997)
Sinh năm 1956
Nhân vật còn sống
Người chống cộng Cuba
Người Cuba lưu vong
|
19714861
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yi%C4%9Fit%20Caner%20Ayd%C4%B1n
|
Yiğit Caner Aydın
|
Yiğit Caner Aydın (sinh ngày 23 tháng 8 năm 1992) là một vận động viên bắn cung người Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu trong sự kiện W1.
Tiểu sử
Yiğit Caner Aydın sinh ra ở Trabzon, đông bắc Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 23 tháng 8 năm 1992. Anh chuyển đến Istanbul cùng gia đình năm 3 tuổi.
Năm 2006, anh bắt đầu phát triển các dự án web và tự lập. Năm 2010, anh nhập học Khoa Thiên văn và Khoa học Không gian tại Đại học Istanbul. Bằng cách tham gia vào các dự án trách nhiệm xã hội, nhằm giúp trẻ em sống ở các vùng khó khăn phát triển các kỹ năng xã hội và bản thân.
Năm 2013, khi đang ngồi trong phòng khách ở trường học một người bạn, một chiếc giá đỡ nặng đã rơi xuống đầu Aydın dẫn đến gãy xương cổ ở mức độ C6. Anh đã phải nằm viện tám tháng sau sáu ngày ở lại chăm sóc đặc biệt. Anh bị liệt từ ngực trở xuống và trải qua liệu pháp vật lý trị liệu trong hai năm rưỡi, cuối cùng phải ngồi xe lăn.
Sự nghiệp thể thao
Năm 2016, Aydın bắt đầu môn bắn cung sau khi gặp Naci Yenier, một cung thủ bắn cung, thông qua cha mình. Aydın tham gia các khóa huấn luyện tại Archery Foundation. Với số tiền dành dụm được trước khi bị tai nạn, anh đã mua dụng cụ bắn cung. Được cha mẹ ủng hộ, anh đã luyện tập 5-6 giờ mỗi ngày.
Aydın được chọn vào đội tuyển quốc gia. Số điểm ghi được tại các cuộc thi quốc tế đã giúp Aydın tham gia Giải vô địch Bắn cung Thế giới vào năm 2017. Anh cùng hai đồng đội đã giành huy chương vàng nội dung Đồng đội mở rộng W1 nam tại Giải vô địch bắn cung thế giới 2017 ở Bắc Kinh, Trung Quốc. Aydın là một phần của đội lập kỷ lục Thế giới trong nội dung 50m với 1.967 điểm. Aydın đã giành được huy chương vàng trong sự kiện Nam W1 Mở rộng và một huy chương vàng khác trong sự kiện Đồng đội mở rộng W1 cùng hai đồng đội tại chặng đầu tiên của Cúp bắn cung châu Âu 2019 được tổ chức tại Olbia, Sardinia, Ý. Đội tuyển Thổ Nhĩ Kỳ đã lập kỷ lục Thế giới với 215 điểm. Tại Giải vô địch Bắn cung Thế giới năm 2019 ở s-Hertogenbosch, Hà Lan, anh đã giành được huy chương vàng trong Đội nam W1 Mở rộng và lập lại kỷ lục Đồng đội Thế giới. Aydın trở thành nhà vô địch trong sự kiện Nam W1 tại Thế giới Bắn cung Nam Giải đấu Xếp hạng và Vòng loại Chung kết Paralympic 2021 được tổ chức tại Nové Město nad Metují, Cộng hòa Séc. Anh đã giành được hai huy chương vàng tại Giải vô địch Bắn cung Thế giới năm 2022 được tổ chức tại Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, một trong sự kiện Nam W1 và một trong sự kiện Đôi nam W1 cùng với đồng đội Nihat Türkmenoğlu.
Aydın xếp hạng thứ hai thế giới vào ngày 5 tháng 5 năm 2019. Tính đến ngày 18 tháng 3 năm 2022, Aydın đứng thứ ba thế giới.
Tham khảo
|
11077711
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cobalt%28II%29%20iodide
|
Cobalt(II) iodide
|
Cobalt(II) iodide là các hợp chất vô cơ với công thức CoI2 và hexahydrat CoI2(H2O)6. Những muối này là những iodide chính của cobalt.
Điều chế
Cobalt(II) iodide được điều chế bằng cách xử lý bột cobalt vào khí HI. Muối hydrat hóa (CoI2(H2O)6) có thể được điều chế bằng phản ứng của cobalt(II) oxide (hoặc các hợp chất liên quan với cobalt) với acid hydroiodic.
Cobalt(II) iodide kết tinh trong hai dạng, các dạng α và β. Dạng α bao gồm các tinh thể lục giác đen, chuyển màu xanh đậm khi tiếp xúc với không khí. Dưới chân không ở , mẫu các mẫu tinh thể α-CoI2, tạo ra dạng β như một tinh thể màu vàng. β-CoI2 cũng dễ dàng hấp thụ độ ẩm từ không khí, chuyển thành hydrate xanh lục. Ở , β-CoI2 quay trở lại dạng α.
Cấu trúc
Các muối khan ở các dạng cấu trúc cadmi halide.
Muối hexaquo gồm có các ion Co(H2O)62+ và ion iodide đã được chứng minh bằng tinh thể học.
Phản ứng và ứng dụng
Cobalt(II) iodide khan đôi khi được sử dụng để kiểm tra sự có mặt của nước trong các dung môi khác nhau. Cobalt(II) iodide được sử dụng làm chất xúc tác, ví dụ: trong các phản ứng cacbonyl hóa. Nó xúc tác phản ứng của điketen với thuốc thử Grignard, hữu ích cho việc tổng hợp các terpenoid.
Hợp chất khác
Cobalt(II) iodide còn tạo ra hợp chất với amonia, như CoI2·2NH3 – chất rắn màu dương, CoI2·4NH3 – chất rắn màu hoa hồng hay CoI2·6NH3 – chất rắn màu hồng. Hỗn hợp phức (CoI2·6NH3)(CoI2·2NH3)1,15, hay CoI2·166⁄43NH3 cũng được biết đến, dưới dạng tinh thể màu đỏ tím.
Với hydrazin, muối phức CoI2·2N2H4 sẽ xuất hiện, là bột hoặc tinh thể màu hoa hồng-đỏ hay CoI2·3N2H4 là tinh thể màu hồng cam.
Với urê, nó tạo CoI2·CO(NH2)2·2,5H2O (tinh thể lục), CoI2·4CO(NH2)2·2H2O (tinh thể hồng) hay CoI2·10CO(NH2)2 (tinh thể cam, dung dịch màu xanh dương).
Với thiourê, nó tạo CoI2·2CS(NH2)2 (chất rắn dương) hay CoI2·4CS(NH2)2 (chất rắn lục nhạt).
Tham khảo
Muối halogen của kim loại
Hợp chất cobalt
Muối iodide
|
11628635
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calci%20pyrophosphat
|
Calci pyrophosphat
|
Calci pyrophosphat là một hợp chất hóa học vô cơ, là một muối calci không hòa tan chứa anion pyrophosphat, với công thức hóa học được quy định là Ca2P2O7. Hợp chất này tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau, và một số dạng đã được báo cáo: dạng khan, dạng ngậm nước dihydrat với công thức Ca2P2O7·2H2O và dạng thức tetrahydrat với công hức Ca2P2O7·4H2O. Sự kết tinh của tinh thể calci pyrophosphat dạng dihydrat trong sụn khớp gây ra đau khớp nghiêm trọng (bệnh gút giả) và có các triệu chứng tương tự như bệnh gút. Ca2P2O7 thường được sử dụng như một chất mài mòn nhẹ trong kem đánh răng.
Điều chế
Tinh thể dạng tetrahydrat có thể được điều chế bằng cách phản ứng giữa natri pyrophosphat, Na4P2O7 với Calci nitrat, Ca(NO3)2, có pH và nhiệt độ được kiểm soát cẩn thận, qua phương trình:
Na4P2O7(aq) +2 Ca(NO3)2(aq) → Ca2P2O7·4 H2O + 2 Na2NO3
Các dạng dihydrat, đôi khi được gọi là CPPD, có thể được hình thành bởi phản ứng của axit pyrophotphoric với calci chloride:
CaCl2 + H4P2O7(aq) → Ca2P2O7·2 H2O + HCl.
Dạng khan của hợp chất này có thể được điều chế bằng cách nung dicalci phosphat:
2 CaHPO4 → Ca2P2O7 + H2O
Ở 240-500 °C, một dạng hợp chất vô định hình được hình thành, nung nóng đến 750 °C hình thành β-Ca2P2O7, nung nóng đến 1140-1350 °C tạo thành α-Ca2P2O7.
Tham khảo
Hợp chất calci
|
2591817
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pelosia%20muscerda
|
Pelosia muscerda
|
Pelosia muscerda là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Pelosia
Côn trùng châu Âu
|
19639851
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Max%20Steiner
|
Max Steiner
|
Maximilian Raoul Steiner (10 tháng 5 năm 1888 – 28 tháng 12 năm 1971) là một nhà soạn nhạc cho sân khấu và phim ảnh, đồng thời là một nhạc trưởng người Mỹ gốc Áo. Ông là thần đồng với vở operetta đầu tiên khi mới 12 tuổi và trở thành chuyên gia toàn phần sáng tác, chuyển soạn hoặc chỉ huy khi 15 tuổi.
Steiner làm việc ở Anh, sau đó là Broadway rồi chuyển đến Hollywood năm 1929. Tại đây, ông trở thành soạn giả âm nhạc điện ảnh đầu tiên. Steiner được coi là "cha đẻ nhạc phim" khi đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra truyền thống soạn nhạc cho phim, cùng với các nhà soạn nhạc Dimitri Tiomkin, Franz Waxman, Erich Wolfgang Korngold, Alfred Newman, Bernard Herrmann và Miklós Rózsa.
Steiner đã sáng tác hơn 300 nhạc nền phim cho RKO Pictures và Warner Bros., được đề cử 24 giải Oscar, giành ba giải cho các phim The Informer (1935); Now, Voyager (1942) và Since You Went Away (1944). Bên cạnh giải Oscar, một số tác phẩm nổi tiếng của Steiner là nhạc phim King Kong (1933), Little Women (1933), Jezebel (1938) và Casablanca (1942) (dù không sáng tác bản nhạc chủ đề "As Time Goes By"). Ngoài ra, Steiner còn soạn nhạc cho The Searchers (1956), A Summer Place (1959) và Cuốn theo chiều gió (1939) đứng thứ nhì trong danh sách nhạc phim Hoa Kỳ hay nhất của Viện phim Mỹ, đây cũng là nhạc phim nổi tiếng nhất của ông.
Steiner cũng là người đầu tiên nhận Giải Quả cầu vàng cho nhạc phim hay nhất với phim Life with Father. Steiner thường xuyên cộng tác với một số đạo diễn điện ảnh nổi tiếng nhất trong lịch sử như Michael Curtiz, John Ford và William Wyler; và soạn nhiều nhạc phim cùng Errol Flynn, Bette Davis, Humphrey Bogart và Fred Astaire. Nhiều bản nhạc phim của ông hiện đang là những bản thu soundtrack riêng biệt.
Tiểu sử
Thời thơ ấu (1888–1907)
Max Steiner sinh ngày 10 tháng 5 năm 1888 tại Đế quốc Áo-Hung, là con một trong gia đình gốc Do Thái làm sân khấu và kinh doanh giàu có. Tên ông được đặt theo ông nội là Maximilian Steiner (1839–1880), người có công đầu tiên thuyết phục Johann Strauss II viết nhạc kịch đồng thời là người quản lý có tầm ảnh hưởng của nhà hát lịch sử Theater an der Wien tại Viên. Cha mẹ ông là Marie Josefine/Mirjam (Hasiba) và Gabor Steiner, người Hungary gốc Do Thái (1858-1944, sinh tại Temesvár, Vương quốc Hungary, Đế quốc Áo), làm ông bầu, quản lý triển lãm lễ hội và nhà phát minh, chịu trách nhiệm xây dựng vòng đu quay Wiener Riesenrad. Người cha khích lệ tài năng âm nhạc của Steiner ở tuổi 12 với vở operetta The Belle of New York dưới sự chỉ huy của Steiner, và tài năng của ông sớm được tác giả operetta Gustave Kerker công nhận. Bà Marie, mẹ của Steiner, khi còn trẻ là vũ công được ông nội Steiner đưa lên sân khấu, nhưng sau đó bà tham gia vào công việc kinh doanh nhà hàng. Steiner có cha đỡ đầu là nhà soạn nhạc Richard Strauss. Strauss có ảnh hưởng mạnh mẽ đến công việc sau này của Steiner. Steiner thường nói gia đình đã truyền cảm hứng cho khả năng âm nhạc của mình thuở ban đầu. Ngay từ khi lên 6, Steiner đã học ba hoặc bốn buổi piano một tuần nhưng thường không thích các bài học đó. Vì vậy, Steiner tự tập luyện ngẫu hứng và được cha khuyến khích tự viết nhạc cho mình. Steiner cho rằng ngẫu hứng ban đầu đã ảnh hưởng đến sở thích âm nhạc, đặc biệt là nhạc của Claude Debussy, người tiên phong "avant garde" khi ấy. Lúc nhỏ, Steiner bắt đầu sự nghiệp sáng tác với các hành khúc cho ban nhạc trung đoàn và những ca khúc chủ điểm cho show diễn của cha.
Được cha mẹ gửi vào Đại học Bách khoa Vienna nhưng Steiner tỏ ra không mấy hứng thú với các môn học sách vở. Năm 1904, Steiner đăng ký vào Học viện Âm nhạc Hoàng gia. Nhờ năng khiếu âm nhạc bẩm sinh và được Robert Fuchs và Gustav Mahler dạy riêng, Steiner hoàn thành khóa học bốn năm chỉ trong một năm, 15 tuổi giành được huy chương vàng từ học viện. Steiner học nhiều loại nhạc cụ khác nhau như dương cầm, phong cầm, vĩ cầm, đại vĩ cầm (công tra bát) và kèn trumpet. Tuy thích và chơi piano hay nhất nhưng Steiner thừa nhận tầm quan trọng khi quen với cách tấu các nhạc cụ khác. Steiner cũng tham gia các khóa hòa âm, đối âm và sáng tác. Cùng với Mahler và Fuchs, Steiner còn nhắc đến các thầy giáo Felix Weingartner và Edmund Eysler.
Bắt đầu sự nghiệp âm nhạc (1907–1914)
Âm nhạc của Edmund Eysler có ảnh hưởng ban đầu đến các sáng tác của Max Steiner. Tuy nhiên, Franz Lehár mới là một trong những người giới thiệu operetta với Steiner, ông từng quản lý ban quân nhạc cho nhà hát của cha Steiner. Năm 1907 tại Viên, Steiner thể hiện lòng ngưỡng mộ đối với Lehár khi dàn dựng vở operetta phỏng theo Die lustige Witwe (Bà quả phụ vui tính) của ông. Eysler nổi tiếng với những bản operetta dù bị Richard Traubner phê bình lời nhạc kịch libretto đơn điệu với cách thức khá đơn giản, âm nhạc thường quá đậm chất valse thành Viên. Kết quả là khi bắt đầu sáng tác cho nhà hát, Steiner thích viết libretto như thầy mình và thu được rất ít thành công. Tuy nhiên, nhiều nhạc phim về sau của ông như Dark Victory (1939), In This Our Life (1941) và Now, Voyager (1942) thường có giai điệu valse theo kiểu Eysler. Theo tác giả cuốn sách Max Steiner's "Now, Voyager" là Kate Daubney, Steiner cũng có thể bị ảnh hưởng từ Felix Weingartner, người chỉ huy dàn nhạc Nhà hát Opera Viên giai đoạn 1908–1911. Tuy theo học các lớp sáng tác của Weingartner nhưng ngay từ khi còn bé, Steiner luôn muốn trở thành một nhạc trưởng tài ba.
Từ năm 1907 đến năm 1914, Steiner qua lại giữa Anh và Châu Âu để chỉ huy các tác phẩm sân khấu. Mới 15 tuổi, Steiner đã lần đầu bước vào thế giới âm nhạc chuyên nghiệp. Steiner đã viết và chỉ huy vở operetta The Beautiful Greek Girl, nhưng cha anh nói nó chưa đủ hay nên không cho lên sàn diễn. Steiner liền mang tác phẩm tới ông bầu cạnh tranh là Carl Tuschl, người đưa ra lời đề nghị thực hiện. Tác phẩm được diễn tại nhà hát Orpheum trong một năm đã khích lệ Steiner. Từ đó mang lại cơ hội với những buổi trình diễn khác tại các thành phố khắp thế giới như Moskva và Hamburg. Khi quay về Viên, Steiner phát hiện cha mình bị phá sản. Tìm việc khó khăn, Steiner chuyển đến London (một phần lý do là đi theo vũ nữ người Anh mà anh đã gặp ở Viên). Tại London, Steiner được mời để chỉ huy vở Die lustige Witwe của Lehár. Anh sống tại London 8 năm, chỉ huy dàn nhạc tại Nhà hát Daly, Adelphi, Hippodrome, London Pavilion và Blackpool Winter Gardens. Ngày 12 tháng 9 năm 1912, Steiner kết hôn với Beatrice Tilt nhưng không rõ về sau chia tay khi nào.
Ở Anh, Steiner biên soạn, chỉ huy các tác phẩm sân khấu và nhạc giao hưởng. Nhưng Thế chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914 khiến Steiner bị giam giữ như kẻ thù trong xứ. May mắn thay, Công tước Westminster là bạn và cũng rất hâm mộ tác phẩm của Steiner đã kiếm giấy xuất cảnh sang Mỹ cho anh, dù toàn bộ tiền bạc bị giữ lại. Tháng 12 năm 1914, Steiner cập cảng New York chỉ với vỏn vẹn 32 đô la. Không thể tìm được việc làm, Steiner phải làm giúp việc như thợ sao chép cho Harms Music Publishing, nhưng từ đó lại nhanh chóng đưa Steiner đến với công việc hòa âm nhạc kịch trên sân khấu.
Sân khấu Broadway (1914–1929)
Tại New York, Max Steiner nhanh chóng được tuyển dụng và trong 15 năm giữ các vị trí đạo diễn, chuyển soạn, hòa âm, chỉ huy âm nhạc các tác phẩm Broadway. Những tác phẩm này bao gồm operetta và nhạc kịch của Victor Herbert, Jerome Kern, Vincent Youmans và George Gershwin cùng những người khác nữa. Các tác phẩm ghi công Steiner như George White's Scandals (1922) (đạo diễn), Peaches (1923) (soạn nhạc) và Lady, Be Good (1924) (chỉ huy và hòa âm). Năm 1935, Steiner trở thành đạo diễn âm nhạc cho Fox Film khi 27 tuổi. Lúc ấy không có nhạc viết dành riêng cho phim và Steiner trình bày ý tưởng soạn riêng bản nhạc cho The Bondman (1916) với người sáng lập hãng William Fox. Fox đồng ý và lập dàn nhạc 110 người để hỗ trợ chiếu phim. Ngày 27 tháng 4 năm 1927, ông kết hôn với Audree van Lieu và ly hôn ngày 14 tháng 12 năm 1933. Năm 1927, Steiner hòa âm và chỉ huy Rio Rita của Harry Tierney. Sau đó, chính Tierney đề nghị RKO Pictures ở Hollywood thuê Steiner đến làm việc trong bộ phận sản xuất âm nhạc. Trưởng bộ phận sản xuất của RKO William LeBaron đã đến New York xem biểu diễn và ấn tượng khi thấy Steiner cùng các nhạc công ôm đồm nhiều nhạc cụ. Cuối cùng, Steiner trở thành một phần của Hollywood. Tác phẩm cuối cùng của Steiner tại Broadway là Sons O' Guns năm 1929.
Soạn nhạc cho RKO (1929–1937)
Như Harry Tierney đề nghị, RKO thuê Max Steiner làm nhà soạn nhạc. Công việc đầu tiên là các bản nhạc chủ đề chính và cuối phim, đôi lúc cũng có nhạc phân cảnh phim nữa. Theo Steiner, các nhà làm phim lúc ấy có chung quan điểm rằng nhạc phim là "ác ma cần thiết" vì nó thường làm chậm tiến độ ra mắt sau khi đã quay xong. Công việc đầu tiên của Steiner là dành cho phim Dixiana; nhưng sau một thời gian, RKO cảm thấy không cần nữa nên quyết định để ông ra đi. Người đại diện của Steiner đưa ông vào làm đạo diễn âm nhạc cho vở operetta ở thành phố Atlantic. Trước khi rời đi, RKO lại đề nghị Steiner ký hợp đồng theo tháng cho vị trí trưởng bộ phận âm nhạc với hứa hẹn có nhiều việc hơn trong tương lai và ông đồng ý. Vì một số nhà soạn nhạc ở Hollywood không tham gia, Steiner đã sáng tác bản nhạc đầu tiên của mình cho phim Cimarron. Bản nhạc được công chúng đón nhận và phần nào ghi nhận tạo nên thành công của bộ phim. Steiner từ chối một số lời đề nghị hướng dẫn kỹ thuật soạn nhạc phim ở Moskva và Bắc Kinh để tiếp tục ở lại Hollywood. Năm 1932, nhà sản xuất mới của RKO là David O. Selznick yêu cầu Steiner thêm nhạc vào Symphony of Six Million. Chỉ với một đoạn ngắn, Steiner đã khiến Selznick thích thú đến nỗi yêu cầu sáng tác nhạc chủ đề và nhạc kèm cho cả bộ phim. Selznick tự hào về bộ phim, cảm thấy nó mang đến một cái nhìn thực tế về cuộc sống và truyền thống gia đình Do Thái. "Trước đó, âm nhạc đi kèm không được sử dụng nhiều lắm". Steiner "đi tiên phong trong việc sử dụng bản nhạc nguyên gốc riêng làm nhạc nền cho phim". Thành công với nhạc cho Symphony of Six Million là bước ngoặt trong sự nghiệp của Steiner với ngành công nghiệp điện ảnh. Sau Symphony of Six Million, 1/3 đến một nửa các bộ phim thành công là "nhờ vào việc sử dụng rộng rãi âm nhạc".
Nhạc phim King Kong (1933) là bước đột phá của Steiner và tiêu biểu cho sự thay đổi nhạc phim phiêu lưu kỳ ảo. Nhạc là phần không thể thiếu vì đã bổ sung tính hiện thực cho nội dung phi thực tế trong phim. Ban đầu, các ông chủ hãng phim tỏ ra nghi ngờ việc phải có bản nhạc riêng, nhưng khi không thích hiệu ứng đặc biệt có sắp xếp trước trong phim, họ đã để Steiner dùng âm nhạc để nâng cao chất lượng phim. Hãng phim đề xuất dùng lại các bản nhạc cũ để tiết kiệm chi phí nhưng nhà sản xuất King Kong Merian C. Cooper đã yêu cầu Steiner soạn nhạc còn ông sẽ trả kinh phí cho dàn nhạc. Steiner tận dụng đề xuất này và sử dụng dàn giao hưởng 80 nhạc công, ông nói bộ phim này "dành cho âm nhạc". Theo Steiner, "đó là loại phim cho phép làm bất cứ điều gì và mọi thứ đều có thể, từ các hợp âm kỳ quặc quãng nghịch cho đến những giai điệu đẹp". Steiner cũng soạn thêm nhạc bộ lạc hoang dã trong cảnh hiến tế Ann cho Kong. Ông biên soạn trong hai tuần, chi phí thu âm khoảng 50.000 đô la. Bộ phim trở thành "dấu mốc nhạc phim", cho thấy sức mạnh âm nhạc có thể chi phối cảm xúc khán giả. Steiner tạo nên bản nhạc theo nguyên lý nét chủ đạo của Wagner, yêu cầu nhạc chủ đề đặc biệt cho nhân vật và ý tưởng chủ đạo hàng đầu. Nhạc chủ đề của con quái vật có thể nhận thấy dưới mô típ nửa cung 3 nốt giai điệu hướng xuống. Sau cái chết của King Kong, nhạc chủ đề Kong và chủ đề Fay Wray hội tụ, nhấn mạnh mối quan hệ theo kiểu Người đẹp và quái thú giữa các nhân vật. Âm nhạc cảnh cuối phim giúp thể hiện tình cảm dịu dàng mà Kong dành cho người phụ nữ mà không cần hình ảnh rõ ràng. Phần lớn nhạc mạnh mẽ và to, nhưng một số có nhẹ hơn chút đỉnh. Ví dụ, khi tàu đi vào Đảo Đầu Lâu, Steiner giữ cho nhạc êm đềm nhẹ nhàng bằng tiếng đàn hạc giúp khắc họa hình ảnh con tàu thận trọng đi qua vùng nước mù sương. Thành quả của Steiner được ghi nhận, Cooper xác định nhạc đã tạo nên 25% thành công cho bộ phim. Trước khi qua đời, Steiner thừa nhận King Kong là một trong những bản nhạc yêu thích của mình.
King Kong nhanh chóng đưa Steiner trở thành một trong những cái tên được kính trọng nhất tại Hollywood. Ông tiếp tục làm đạo diễn âm nhạc cho RKO trong hai năm tiếp theo tới năm 1936. Năm 1936, Steiner kết hôn với nhạc công hạc cầm Louise Klos và có một con trai đặt tên là Ron, nhưng rồi họ ly dị năm 1946. Steiner đã sáng tác, chuyển soạn và chỉ huy cho 55 bộ phim khác, gồm hầu hết các nhạc khiêu vũ của Fred Astaire và Ginger Rogers. Ngoài ra, Steiner viết một bản sonata trong phim đầu tiên của Katharine Hepburn là Bill of Divorcement (1932). Các nhà sản xuất RKO gồm cả Selznick, thường đến gặp Steiner khi phim gặp vấn đề, và coi ông như "bác sĩ" âm nhạc.
Phim Of Human Bondage (1934) lúc ban đầu thiếu mảng nhạc. Ông đã thêm điểm nhấn âm nhạc vào những cảnh quan trọng. Đạo diễn John Ford mời Steiner soạn nhạc cho The Lost Patrol (1934) vì thiếu kịch tính nếu không có âm nhạc. John Ford lại mướn Steiner để soạn nhạc trước khi sản xuất bộ phim tiếp theo The Informer (1935). Ford thậm chí còn yêu cầu Steiner hợp tác ngay trong giai đoạn viết kịch bản. Bình thường Steiner không làm vậy mà sẽ từ chối trước khi có đoạn cắt cảnh thô. Vì có nhạc trước nên Ford đôi lúc làm ngược lại thông lệ là cho quay các cảnh đồng bộ với nhạc của Steiner có sẵn. Do đó, Steiner ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân vật chính Gypo. Diễn viên Victor McLaglen vào vai Gypo đã tập lại cách bước đi cho phù hợp với nét chủ đạo vụng về mà Steiner dùng nhạc khắc họa cho Gypo. Cách sản xuất phim độc đáo này mang lại thành công; bộ phim được đề cử sáu và giành được bốn giải Oscar, bao gồm cả Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất cho Steiner. Bản nhạc minh chứng cho khả năng Steiner thể hiện tinh thần bộ phim trong một bản nhạc chủ đề duy nhất. Tựa soundtrack nhạc phim chính có ba khía cạnh cụ thể. Thứ nhất, chủ đề hành khúc dồn dập giúp mô tả khí thế đoàn quân tiến lên và sự sụp đổ của nhân vật chính Gypo là không thể tránh khỏi. Thứ hai, nhạc chủ đề nhân vật khắc họa sự lạnh lùng điềm tĩnh và đưa khán giả đồng cảm chính xác với tâm trạng trong phim. Cuối cùng, nhạc chủ đề mang âm hưởng dân ca Ireland giúp mô tả rõ hơn bối cảnh lịch sử Ireland tác động trong phim. Nhạc phim không đồng nhất một kiểu trong suốt phim mà chỉ là khung sườn cho các mô típ giai điệu từng phần khác nhau.
Nhạc phim này gồm nhiều chủ đề khác nhau, đặc trưng cho tính cách nhân vật và tình huống khác nhau trong phim. Steiner giúp khắc họa tình yêu chân thành Katie dành cho nhân vật chính Gypo. Trong một phân cảnh, tiếng độc tấu vĩ cầm vang lên theo từng tiếng Katie gọi theo Gypo. Trong một cảnh khác, Gypo xem quảng cáo về con tàu hơi nước đến Mỹ và thay vào đó, anh lại thấy mình đang nắm tay Katie trên tàu. Chuông hôn lễ vang lên cùng tiếng đàn organ và anh thấy Katie đeo lúp che mặt, tay cầm bó hoa. Một cảnh sau đó, nhạc chủ đề về Katie cất lên khi Gypo uống say nhìn thấy một phụ nữ xinh đẹp tại quán bar, hàm ý rằng anh đã nhầm cô với Katie. Các nhạc chủ đề khác như dân ca Ireland bằng kèn Pháp cho Frankie McPhilip, chủ đề bằng nhạc cụ dây ấm áp cho Dan, Gallagher và Mary McPhillip, và chủ đề buồn bằng kèn Anh với đàn hạc cho người mù. Mô típ quan trọng nhất trong phim là "tiền công kẻ giết mướn" bằng nhạc chủ đề về sự phản bội khi Gypo phản bội người bạn Frankie của mình. Nhạc cất lên khi nhân vật Thuyền trưởng ném tiền ra bàn sau khi Frankie bị giết. Đây là tiếng đàn hạc với giai điệu hướng xuống bằng bốn nốt; quãng đầu tiên là quãng ba. Với cảnh quyết định ai sẽ là kẻ hành quyết, mô típ nhạc được lặng lẽ lặp đi lặp lại không ngừng để hình thành tội lỗi trong Gypo, mô típ nhạc được đồng bộ với tiếng nước nhỏ giọt trong nhà giam. Nhưng vào cuối phim, chủ đề này lại dùng âm lượng cực mạnh khi Gypo bước vào nhà thờ, kết thúc cao trào bằng loạt tiếng dập chũm chọe khắc họa sự sám hối của Gypo chứ không đề cập đến tội lỗi hình thành nữa.
Sáng tác của Steiner vẫn còn phong cách phim câm, chẳng hạn trước một hành động hay hệ quả sẽ là hợp âm sforzato ngay trước đó, tiếp theo là khoảng lặng. Ví dụ như khi Frankie đối mặt với Gypo đang nhìn vào khoản tiền thưởng trên giấy truy nã dán trên tường. Trong phim, Steiner thử sử dụng kỹ thuật "Mickey Mousing". Qua bản nhạc này, Steiner cho thấy tiềm năng âm nhạc điện ảnh khi cố gắng thể hiện đấu tranh nội tâm Gypo bằng việc pha trộn các nhạc chủ đề khác nhau như "Vũ khúc vòng quanh người Circassia" của Ireland, mô típ "tiền công kẻ giết mướn" và nhạc chủ đề cho Frankie. Tác phẩm kết thúc với bản nhạc gốc "Sancta Maria" của Steiner. Một số tác giả đã nhầm bản này sang "Ave Maria" của Franz Schubert.
Năm 1937, Frank Capra thuê Steiner đến chỉ huy âm nhạc của Dimitri Tiomkin cho phim Lost Horizon (1937). Việc này được coi là giải pháp an toàn vì Tiomkin còn thiếu kinh nghiệm, nếu cần thì Steiner sẽ viết lại. Tuy nhiên theo Hugo Friedhofer, Tiomkin chủ động yêu cầu chính Steiner, mến mộ ông hơn là đạo diễn âm nhạc xưởng phim khi ấy. Năm 1936, Selznick thành lập công ty phim riêng và tuyển Steiner viết nhạc cho ba bộ phim tiếp theo của mình.
Sáng tác cho Warner Bros. (1937–1953)
Tháng 4 năm 1937, Steiner rời RKO và ký hợp đồng dài hạn với Warner Bros. nhưng vẫn làm tiếp cho Selznick. Bộ phim đầu tiên ông soạn nhạc cho Warner Bros. là The Charge of the Light Brigade (1936). Steiner trở thành trụ cột tại Warner Bros., soạn nhạc cho 140 phim trong vòng 30 năm cùng với các ngôi sao Hollywood như Bette Davis, Errol Flynn, Humphrey Bogart và James Cagney. Steiner thường xuyên làm việc với Hugo Friedhofer, người hòa âm dàn nhạc cho Warner Bros.. Trong sự nghiệp, Friedholfer hòa âm 50 tác phẩm của Steiner. Năm 1938, Steiner viết và chuyển soạn tác phẩm "soạn cho phim" đầu tiên là Symphony Moderne để nhân vật chơi dương cầm và rồi là nhạc một chủ đề trong Four Daughters (1938), tiếp đến được cả dàn giao hưởng trình diễn Four Wives (1939).
Năm 1939, Steiner được Warner Bros. cho Selznick mượn để soạn nhạc phim Gone with the Wind (1939) là một trong những thành công đáng chú ý nhất của Steiner. Steiner là người duy nhất mà Selznick chọn mặt để soạn nhạc cho phim này. Steiner chỉ có ba tháng để hoàn thành bản nhạc. Lưu ý trong năm 1939, Steiner đã biên soạn cho hơn 12 phim, nhiều hơn bất cứ năm nào khác trong sự nghiệp sáng tác của mình. Vì lo ngại Steiner không đủ thời gian hoàn tất, Selznick đã để Franz Waxman soạn một bản dự phòng. Để đáp ứng thời hạn, Steiner đôi khi làm việc liền 20 tiếng, phải dùng Benzedrine bác sĩ kê cho tỉnh táo. Khi phát hành, đây là nhạc phim dài nhất từng được sáng tác, tổng thời gian gần ba giờ. Tác phẩm bao gồm 16 chủ đề chính và gần 300 phân đoạn âm nhạc. Do độ dài bản nhạc, Steiner được bốn người hòa âm và chuyển soạn hỗ trợ về nhạc, bao gồm cả Heinz Roemheld. Selznick đề nghị Steiner chỉ dùng nhạc cổ điển có sẵn để cắt giảm chi phí và thời gian, nhưng Steiner thuyết phục lại rằng dùng nhạc hòa tấu cổ điển hoặc thông dụng sẽ không hiệu quả bằng nhạc gốc dành riêng, sẽ nâng cao nội dung cảm xúc các cảnh quay. Steiner bỏ qua yêu cầu từ Selznick và soạn bản nhạc mới hoàn toàn. Selznick đã thay đổi ý kiến mình về việc dùng nhạc gốc dành riêng cho phim khi có những phản hồi quá tích cực về bộ phim, gần như tất cả đều có âm nhạc của Steiner. Thậm chí một năm sau, ông còn viết thư nhấn mạnh giá trị nhạc gốc dành riêng. Bài nhạc chủ đề nổi tiếng nhất trong phim là "Tara" dành cho đồn điền gia đình O'Hara. Steiner giải thích tình yêu sâu đậm của Scarlett dành cho mảnh đất là lý do "chủ đề 'Tara' bắt đầu và kết thúc phim và xuyên suốt toàn bộ bản nhạc". Bộ phim tiếp tục giành được mười giải Oscar, tuy nhạc phim gốc hay nhất đã thuộc về The Wizard of Oz của Herbert Stothart. Cuốn theo chiều gió được AFI xếp thứ 2 cho những nhạc phim Mỹ hay nhất mọi thời đại.
Now, Voyager (1942) là nhạc phim giúp Steiner giành được Giải Oscar thứ hai của mình. Kate Daubney cho rằng bản nhạc thành công vì Steiner có khả năng "[cân bằng] ý nghĩa chủ đề với thanh âm của âm nhạc". Steiner đã dùng các mô típ và yếu tố chủ đề trong âm nhạc để nhấn mạnh sự phát triển cảm xúc câu chuyện. Sau khi hoàn thành Now, Voyager, Steiner lại được thuê để soạn nhạc cho Casablanca (1942). Steiner thường đợi cho đến giai đoạn biên tập phim mới bắt tay vào soạn nhạc. Sau khi xem Casablanca, ông thấy ca khúc "As Time Goes By" của Herman Hupfeld không thích hợp nên muốn dùng bài hát do mình sáng tác để thay thế. Tuy nhiên, Ingrid Bergman vừa cắt tóc ngắn để chuẩn bị quay For Whom the Bell Tolls (1943), nên không thể quay lại đoạn có bài hát của Steiner. Bị kẹt với "As Time Goes By", Steiner chấp nhận và biến bài hát trở thành chủ đề trung tâm trong toàn bộ bản nhạc của mình. Bản nhạc phim Casablanca được đề cử Oscar hạng mục Bản nhạc hay nhất cho phim lãng mạn hoặc hài, nhưng thất bại trước The Song of Bernadette (1943). Năm 1944, Steiner nhận giải Oscar thứ ba và cũng là cuối cùng của mình cho phim Since You Went Away (1944). Steiner lần đầu tiên trong thực tế vừa sáng tác chủ đề từ Since You Went Away vừa tái cân bằng bản nhạc đầy tâm trạng của Franz Waxman cho Rebecca. Nhà sản xuất David O. Selznick rất thích nhạc chủ đề này và yêu cầu Steiner đưa vào Since You Went Away. Năm 1947, Steiner kết hôn với Leonette Blair.
Steiner cũng thành công với thể loại phim noir. The Big Sleep, Mildred Pierce và The Letter là những bản nhạc phim noir hay nhất của ông trong thập niên 1940. The Letter lấy bối cảnh ở Singapore với câu chuyện án mạng bắt đầu bằng nhạc chủ đề chính ồn ào ngay trong phần danh đề đầu phim đã tạo nên không khí căng thẳng và bạo lực cho phim. Nhạc chủ đề góp phần phác họa lên nỗi đam mê bi thảm của nhân vật chính Leslie. Nhạc chủ đề chính được phát trong cảnh Leslie gặp mặt vợ nạn nhân trong tiệm ăn người Hoa. Steiner khắc họa cảnh này qua tiếng chuông gió leng keng khi người vợ xuất hiện trong làn khói thuốc phiện. Tiếng leng keng vang tiếp cho đến khi người vợ yêu cầu Leslie tháo khăn choàng ren che mặt, nhạc bùng lên cho thấy cảm xúc những phụ nữ này rạn vỡ. Nhạc phim The Letter đề cử giải Oscar hạng mục Nhạc gốc phim hay nhất, nhưng thất bại trước Pinocchio của Walt Disney. Trong The Big Sleep, Steiner dùng chủ đề âm nhạc để miêu tả tính cách nhân vật. Nhạc chủ đề Philip Marlowe (Humphrey Bogart) lý thú và châm biếm bằng nốt láy vui đùa ở cuối mô típ, được miêu tả xen lẫn giữa trưởng và thứ. Cuối phim, chủ đề này được chơi hoàn toàn bằng hợp âm chính và đột ngột kết thúc hợp âm khi hết phim (cách thức này không phổ biến ở Hollywood lúc ấy). Theo Christopher Palmer, nhạc chủ đề tình yêu giữa Philip (Bogart đóng) và Vivian (Lauren Bacall đóng) là một trong những nhạc chủ đề mạnh mẽ nhất của Steiner. Steiner tận dụng sự tương phản giữa đàn dây nốt cao và trầm cùng kèn đồng để nhấn mạnh tình cảm Philip dành cho Vivian đối lập thế giới tội phạm bạo tàn.
Năm 1947, Steiner soạn nhạc cho phim noir Viễn Tây là Pursued. Steiner thành công hơn nữa với thể loại phim Viễn Tây, soạn nhạc cho hơn 20 phim quy mô lớn, phần lớn đều là những bản nhạc mang cảm hứng sử thi "xây dựng và tiến bộ của đế chế" như Dodge City (1939), The Oklahoma Kid ( 1939) và Virginia City (1940). Dodge City, với diễn xuất của Errol Flynn và Olivia de Havilland, là ví dụ tiêu biểu cho việc Steiner xử lý các khung cảnh điển hình trong thể loại phim Viễn Tây. Steiner đã sử dụng "giai điệu chạy nhảy, nâng lên" phản ánh chuyển động và âm thanh của xe hàng, ngựa và gia súc. Steiner bày tỏ tâm huyết khi kết hợp phong cách Viễn Tây và lãng mạn như trong They Died with their Boots On (1941) cũng với cặp diễn viên Flynn và de Havilland. Ngày nay, The Searchers (1956) được coi là tác phẩm Viễn Tây hay nhất của ông.
Các tác phẩm về sau (1953–1965)
Mặc dù kết thúc hợp đồng năm 1953, Steiner đã trở lại Warner Bros. năm 1958 và soạn nhạc cho một số phim như Band of Angels, Marjorie Morningstar và John Paul Jones, rồi thử sức trong lĩnh vực truyền hình. Steiner vẫn thích các dàn nhạc lớn và kỹ thuật nhạc tố chủ đạo trong giai đoạn này. Sức làm việc của Steiner chậm lại đáng kể vào giữa thập niên 1950 và bắt đầu làm việc tự do. Năm 1954, RCA Victor đề nghị Steiner chuẩn bị và chỉ huy nhạc giao hưởng Gone with the Wind để thu đĩa LP đặc biệt, sau này được phát hành trên CD. Ngoài ra còn có các đĩa ET ghi âm Steiner chỉ huy dàn nhạc Warner Brothers chơi nhiều bản nhạc phim của mình. Nhà soạn nhạc Victor Young và Steiner là bạn tốt của nhau, và Steiner đã giúp hoàn thành nhạc phim China Gate, vì Young qua đời trước khi kịp hoàn tất. Khung credit viết: "Nhạc của Victor Young, được người bạn cũ Max Steiner góp thêm". Có rất nhiều bản ghi âm nhạc của Steiner dưới dạng nhạc phim, bộ sưu tập và người khác ghi âm lại. Qua tuổi thất tuần Steiner vẫn còn sáng tác, dù đã yếu và gần như mù lòa nhưng các sáng tác vẫn "lộ ra sự tươi mới và dồi dào sáng tạo". Năm 1959, Steiner đã 71 tuổi, soạn ra nhạc nền phim A Summer Place trở thành một trong những giai điệu ăn khách nhất của Warner Brothers trong nhiều năm và tiêu chuẩn nhạc pop được thu âm lại. Nhạc chủ đề A Summer Place đã giữ vị trí số 1 suốt chín tuần trên xếp hạng đĩa đơn Billboard Hot 100 năm 1960 (với phiên bản làm lại cho nhạc khí của Percy Faith). Steiner tiếp tục soạn nhạc cho phim hãng Warner đến giữa thập niên 1960.
Năm 1963, Steiner bắt đầu viết tự truyện. Tuy hoàn tất nhưng lại chưa bao giờ xuất bản, tự truyện là nguồn tư liệu duy nhất nói về thời thơ ấu Steiner. Bản sao của bản thảo nằm chung trong Bộ sưu tập Max Steiner tại Đại học Brigham Young ở Provo, Utah. Năm 1965, Steiner soạn bản nhạc cuối nhưng tuyên bố rằng sẽ soạn nhạc phim nữa nếu được trao cơ hội. Những năm cuối đời Steiner không còn tác phẩm nào là do Hollywood bớt chuộng nhạc của ông, việc này xuất phát từ những nhà sản xuất phim mới cũng như khẩu vị mới về nhạc phim. Phần khác khiến sự nghiệp đi xuống là do thị lực yếu và sức khỏe suy giảm, Steiner đành miễn cưỡng về hưu. Tony Thomas gọi bản nhạc cuối cùng của Steiner như "đoạn kết (coda) yếu cho một sự nghiệp vĩ đại".
Steiner qua đời vì suy tim sung huyết ở Hollywood, hưởng thọ 83 tuổi. Ông an nghỉ trong Lăng mộ Lớn tại Nghĩa trang Forest Lawn Memorial Park ở Glendale, California.
Phương pháp sáng tác
Âm nhạc làm nền hội thoại
Trong thời kỳ đầu, các nhà sản xuất tránh sử dụng nhạc nền cho các cảnh thoại vì cho rằng khán giả sẽ tự hỏi nhạc đến từ đâu. Kết quả là, Steiner ghi chú "Họ bắt đầu thêm một ít nhạc rải rác nhằm hỗ trợ các cảnh yêu đương hoặc cảnh yên lặng." Nhưng trong những khung cảnh âm nhạc là tất yếu như hộp đêm, sảnh khiêu vũ hay nhà hát, dàn nhạc giao hưởng thích hợp một cách tự nhiên hơn và được dùng thường xuyên. Để lý giải cho việc thêm nhạc vào những cảnh bình thường không có, âm nhạc được lồng ghép thông qua nhân vật hoặc thể hiện nguyên nhân rõ ràng. Ví dụ, cậu bé chăn cừu thổi sáo phía sau trên nền nhạc gia hưởng, hay nghệ sĩ vĩ cầm lang thang ngẫu nhiên đi theo cặp đôi trong cảnh yêu đương tình tứ. Tuy nhiên, vì một nửa lượng nhạc được ghi trên trường quay, Steiner nói rằng điều đó dẫn đến rất nhiều bất tiện và tốn kém khi sau đó phải biên tập lại, nhạc thường bị phá hỏng. Khi công nghệ ghi âm đương thời được cải thiện, ông có thể ghi âm nhạc đồng bộ hóa với phim và thay đổi nhạc sau quá trình biên tập. Steiner giải thích phương pháp soạn nhạc điển hình của riêng mình:
Khi soạn nhạc phim, Steiner thường hướng theo bản năng và lý trí của mình. Ví dụ, khi làm ngược lại ý kiến Selznick muốn dùng nhạc cổ điển cho Cuốn theo chiều gió, Steiner nói:
Bản nhạc cổ điển đôi khi tác động tiêu cực cho phim, đặc biệt khi quá quen thuộc lại vô tình làm khán giả chú ý đến nhạc thay vì hình ảnh. Ví dụ, những phim như 2001: A Space Odyssey, The Sting và Manhattan có giai điệu dễ nhận biết thay vì dùng hiệu ứng "trong tiềm thức" được ưa chuộng hơn. Steiner là một trong những người đầu tiên nhận thấy cần thiết phải có những bản nhạc gốc riêng cho mỗi phim.
Steiner cảm biết thời điểm phát và dừng là khó nhất trong tạo nhạc, vì nhạc đưa vào không đúng có thể tăng tốc cảnh quay đáng ra cần chậm và ngược lại: "Cảm biết sự khác biệt sẽ tạo ra nhà soạn nhạc phim." Steiner cũng lưu ý rằng nhiều nhà soạn nhạc khi đi ngược lại với kỹ thuật này sẽ hứng chịu thất bại trong việc đưa nhạc vào phim:
Click track
Mặc dù một số học giả cho rằng Steiner là người phát minh ra kỹ thuật click track, nhưng ông cùng với Roy Webb chỉ là những người đầu tiên áp dụng kỹ thuật này trong soạn nhạc phim. Carl Stalling và Scott Bradley mới là những người sử dụng kỹ thuật này đầu tiên trong âm nhạc hoạt hình. Click track cho phép soạn giả đồng bộ nhạc với phim một cách chính xác hơn. Kỹ thuật này bao gồm việc đục lỗ lên phim soundtrack dựa trên nguyên lý toán học về tốc độ máy đếm nhịp. Khi các lỗ đi qua máy chiếu, dàn nhạc và người chỉ huy có thể nghe thấy tiếng lách cách (click) qua tai nghe, cho phép ghi âm chính xác cùng lúc với thời điểm phim. Kỹ thuật này cho phép người chỉ huy và dàn nhạc khớp nhạc hoàn hảo với thời gian phim, xóa bỏ việc cắt hoặc dừng nhạc giữa chừng như từng làm trước đó. Steiner phổ biến kỹ thuật này trong nhạc phim, cho phép "bắt được hành động", tạo ra âm thanh cho các chi tiết nhỏ trên màn hình. Trên thực tế, người ta cho rằng Steiner mất nhiều thời giờ khớp hành động với nhạc hơn là sáng tác giai điệu và mô típ, bởi đó là những việc quá dễ dàng với ông.
Nét chủ đạo
Với nền tảng âm nhạc châu Âu chủ yếu là opera và operetta cùng với kinh nghiệm sân khấu, Steiner đã mang tới cho nhạc phim Hollywood một loạt kỹ thuật cổ điển và góp phần trong sự phát triển của nó. Mặc dù được gọi là "nhà phát minh nhạc phim hiện đại", nhưng bản thân Steiner tự phát biểu rằng "ý tưởng bắt nguồn từ Richard Wagner... Nếu sống ở thế kỷ này, Wagner sẽ là nhà soạn nhạc phim số 1". Wagner là người phát minh leitmotif có ảnh hưởng đến sáng tác của Steiner. Âm nhạc Steiner chủ yếu dựa vào nét chủ đạo. Ông cũng sẽ trích dẫn những giai điệu có sẵn, dễ nhận biết vào trong bản nhạc của mình, chẳng hạn như quốc ca. Người ta biết đến cũng như thường phê bình Steiner vì sử dụng kỹ thuật Mickey Mousing hoặc "bắt hành động". Kỹ thuật này có đặc trưng khớp chính xác nhạc với hành động hoặc cử chỉ trên màn hình. Steiner bị chỉ trích vì dùng kỹ thuật này quá thường xuyên. Ví dụ, trong Of Human Bondage, Steiner dùng nhạc tạo ra hiệu ứng bước thấp bước cao mỗi khi nhân vật khoèo chân đi lại.
Một trong những nguyên tắc quan trọng Steiner áp dụng bất cứ khi nào có thể là: Mỗi nhân vật nên có một nhạc chủ đề. "Steiner tạo ra một bức tranh âm nhạc truyền tải tất cả những gì chúng ta cần biết về nhân vật." Để đạt được điều này, Steiner đồng bộ âm nhạc với hành động trần thuật trên phim, và nét chủ đạo đóng vai trò như khung cấu trúc trong tác phẩm.
Một minh chứng điển hình rõ nét nhất về cách nhân vật và âm nhạc đồng bộ với nhau là nhạc phim The Glass Menagerie (1950):
Với nhân vật nữ chính Laura tàn tật, Steiner phải "bằng cách nào đó nắm bắt được bằng âm thanh cuộc trốn chạy của cô thoát khỏi hiện thực hào nhoáng vào thế giới ảo tưởng bằng những bức tượng thủy tinh... Kết quả là âm sắc trong trẻo thích hợp;... dùng thoải mái đàn tăng rung, celesta, dương cầm, đàn chuông và kẻng tam giác giúp tăng cường vẻ mong manh và vẻ đẹp âm thanh."
Với người anh trai quân nhân đi nhiều nơi của Laura: "Chủ đề Tom mang âm hưởng thể loại blues thành thị lớn, phong phú và ấm áp... [và] cho chúng ta vài nét về bản chất tốt bụng của Tom."
Với Jim, 'chàng trai trong mộng' mà Laura mong đợi từ lâu sẽ sớm biến đổi cuộc đời cô: "Giai điệu nho nhã phản ánh tính cách dễ mến và trung thực... Các yếu tố trong chủ đề của Jim được lồng vào bản nhạc khiêu vũ tại phòng 'Paradise' khi anh khẳng định nét đẹp cốt yếu của cô và bắt đầu thành công bật lại nỗi mặc cảm sâu thẳm trong cô. Trên đường về nhà, âm nhạc làm khung cảnh tối đi chuẩn bị cho việc Jim tiết lộ đã đính hôn với cô gái khác."
Một phim khác minh chứng nhân vật và âm nhạc đồng bộ với nhau là The Fountainhead (1949): Nhân vật Roark, một kiến trúc sư lý tưởng (do Gary Cooper thủ vai):
Giống như cách Steiner tạo ra nhạc chủ đề cho mỗi nhân vật trong phim, âm nhạc của ông đã phát triển các chủ đề để thể hiện khía cạnh cảm xúc cho những cảnh thông thường có nội dung không mang sắc thái tình cảm. Ví dụ:
King Kong (1933): Bản nhạc kể chuyện đang diễn ra trong phim. Nó thể hiện "cảm giác âu yếm của Kong trước nạn nhân bất lực của mình." Âm nhạc nhấn mạnh những cảm xúc mà máy quay đơn thuần không thể diễn tả được. Nhạc phim cho thấy "sức mạnh cơ bản của âm nhạc để gây khiếp hãi và để nhân bản hóa".
The Letter (1940), với sự diễn xuất của Bette Davis: Nhạc phim tạo ra bầu không khí "sức ép và bạo lực miền nhiệt đới" bằng cách "bùng lên ngay đoạn credit fortissimo khắp không gian". Nhạc Steiner nhấn mạnh chủ đề bi kịch và đam mê của phim.
The Big Sleep (1946): Nhạc phim này "sầm lại cho khớp" với bầu không khí thay đổi trong phim. Nó tạo ra cảm giác ngột ngạt bằng bộ dây cao "đấu nhịp nhàng" với bộ dây trầm và kèn đồng.
The Treasure of the Sierra Madre (1948): Steiner dùng âm nhạc làm gia tăng nỗi thống khổ của Bogart và Holt khi họ bị bỏ lại để đào mỏ dưới trời nắng gắt. Âm nhạc "giả định nhân vật đang trong một đoàn tang lễ chống đối mãnh liệt". Bắt nhịp nhạc dúm lại như tâm trí Bogart. Nhạc cũng dùng để nhấn mạnh chủ đề tham lam. Nó "cho chúng ta biết bản chất suy nghĩ lướt qua tâm trí Holt khi đứng bên ngoài khu mỏ đổ nát". Nhưng khi giai điệu ấm áp nổi lên lại phản ánh lòng tốt của Holt đã cứu Bogart khỏi sập mỏ. "Cao trào được đánh dấu qua khúc grandioso hùng tráng chơi bằng cả dàn giao hưởng".
Âm nhạc hiện thực và nhạc nền
Khi đưa nhạc vào phim, Steiner sử dụng "quy trình đánh dấu" (spotting process), trong đó ông và đạo diễn sẽ xem toàn bộ phim và thảo luận về điểm đầu, cuối cho nhạc thực tế (diegetic). Một kỹ thuật khác mà Steiner sử dụng là trộn nhạc nền và nhạc thực tế. Ví dụ, nhân vật tự đang ngâm nga là âm nhạc hiện thực còn dàn nhạc có thể chơi cùng giai điệu đó tạo ra hiệu ứng nhạc nền gắn liền với hình ảnh. Kỹ thuật này của Steiner bị chỉ trích vì nhận thức về nhạc phim có thể làm hỏng ảo ảnh tường thuật của phim. Tuy nhiên, Steiner hiểu tầm quan trọng để phim trở nên nổi bật, khiến âm nhạc "lệ thuộc... vào hình ảnh" và nói rằng "nếu phô diễn quá, nó sẽ mất đi sức lôi cuốn về cảm xúc". Trước năm 1932, các nhà sản xuất phim có tiếng cố gắng tránh dùng nhạc nền vì người xem sẽ thắc mắc không hiểu nhạc từ đâu ra. Steiner được biết đến với việc sử dụng âm nhạc không có nội dung giai điệu nhưng tạo ra bầu không khí cho những cảnh quay trung tính nhất định. Steiner thiết kế chuyển động có giai điệu để tạo ra thứ nhạc nghe bình thường làm khán giả không bị phân tâm khỏi nội dung phim. Ngược lại, Steiner đôi khi sử dụng nhạc hiện thực hoặc tự sự để nhấn mạnh hoặc phủ nhận những cảm xúc nhất định. Theo Steiner, "không có đối âm nào lớn hơn... nhạc đồng tính nam ẩn chứa cảnh bi kịch hoặc ngược lại".
Ảnh hưởng
Ghi công trong ngành
Ba trong số những bản nhạc của Max Steiner đã giành được Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất: The Informer (1935), Now, Voyager (1942) và Since You Went Away (1944). Steiner có được chứng nhận cho phim The Informer. Ban đầu ông nhận bằng khen (plaque) cho Now, Voyager và Since You Went Away nhưng rồi được thay bằng tượng Oscar năm 1946. Với tư cách cá nhân, Steiner đã được đề cử tổng cộng 20 giải Oscar và giành được hai giải. Trước năm 1939, Viện Hàn lâm chỉ công nhận bộ phận âm nhạc trong xưởng phim để đề cử hạng mục nhạc phim, chứ không phải cá nhân nhà soạn nhạc. Giai đoạn ấy, nhạc của Steiner trong The Lost Patrol và The Charge of the Light Brigade được đề cử, nhưng Viện Hàn lâm không coi những đề cử này thuộc về cá nhân Max Steiner. Do đó, tuy nhạc phim The Informer giành giải Oscar năm 1936 nhưng Viện Hàn lâm không coi Steiner là người chiến thắng giải thưởng hạng mục cá nhân, vì ông nhận giải trên cương vị người đứng đầu thay mặt cho bộ phận âm nhạc RKO. Steiner được 20 đề cử cho hạng mục nhạc phim, đứng thứ ba trong lịch sử sau John Williams và Alfred Newman.
Ngày 16 tháng 9 năm 1999, Bưu chính Hoa Kỳ phát hành bộ tem "American Music Series" (Loạt âm nhạc Hoa Kỳ) để tri ân các nhà soạn nhạc lừng danh của Hollywood, trong đó có con tem Steiner giá mặt 33c. Sau khi Steiner qua đời, Charles Gerhardt đã chỉ huy Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Hoa Kỳ làm một album RCA Victor về dấu mốc trong sự nghiệp Steiner với tựa đề Now, Voyager. Steiner cũng giành Giải Quả cầu vàng cho nhạc phim hay nhất với Life with Father (1947). Các bản nhạc Steiner được tuyển lựa vào những album phim kinh điển khác của RCA trong đầu thập niên 1970. Bản ghi âm 4 kênh rời về sau được hoàn thiện lại bằng kỹ thuật số cho âm thanh vòm Dolby và phát hành trên CD. Năm 1975, Steiner được vinh danh bằng ngôi sao tại 1551 Vine Street trên Đại lộ Danh vọng Hollywood vì những đóng góp trong lĩnh vực điện ảnh. Năm 1995, Steiner được truy cử vinh danh vào Đại sảnh Danh vọng Nhà soạn nhạc. Năm 1988, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Steiner, thị trưởng thành Viên lúc đó là Helmut Zilk đã khai trương tấm bảng kỷ niệm tại nơi sinh Steiner, khách sạn Nordbahn (nay là Austria Classic Hotel Wien) trên đường Praterstraße 72.
Dấu ấn trong giới soạn nhạc
Trong Film Music, Kurt London bày tỏ ý kiến cho rằng sáng tác nhạc phim Mỹ thua kém châu Âu vì thiếu tính độc đáo nhưng Steiner là một ngoại lệ. Steiner cùng với các soạn giả đương thời Erich Wolfgang Korngold và Alfred Newman đã thiết lập phong cách và hình thức nhạc phim thời đó cũng như sau này. Được biết đến với phong cách âm nhạc tương đồng, Roy Webb sống cùng thời và cũng là bạn Steiner cho đến khi ông qua đời. Bản nhạc Mighty Joe Young của Webb gợi nhớ đến Steiner. Nhà soạn nhạc cho James Bond là John Barry nói Steiner có ảnh hưởng đến tác phẩm của mình. James Newton Howard, nhà soạn nhạc phim King Kong phiên bản làm lại năm 2005, nói rằng ông bị ảnh hưởng từ nhạc của Steiner; nhạc chủ đề hạ xuống trong cảnh đầu tiên Kong xuất hiện gợi nhớ đến nhạc Steiner. Trên thực tế với phiên bản 2005, nhạc trong cảnh bộ lạc hiến tế chính là nhạc của Steiner cùng phân cảnh phiên bản năm 1933. Nhà soạn nhạc phim cho Star Wars là John Williams nêu danh Steiner cũng như các nhà soạn nhạc châu Âu nhập cư khác vào thập niên 1930 và 1940 trong "Thời kỳ hoàng kim" của nhạc phim đã ảnh hưởng tới tác phẩm của mình. George Lucas muốn Williams sử dụng nhạc của Steiner và Korngold tác động tới nhạc Star Wars, bất chấp sự hiếm hoi nhạc phim hoành tráng và việc không dùng nét chủ đạo cũng như cả dàn nhạc trong thập niên 1970.
Giới phê bình thường so sánh Steiner với Erich Wolfgang Korngold đương thời là đối thủ cũng như bạn Steiner tại Warner Bros., cho rằng nhạc Steiner kém hơn Korngold. Nhà soạn nhạc David Raksin cho rằng nhạc Korngold "cấp bậc cao hơn với tầm rộng hơn nhiều". Tuy nhiên, theo American Film Music của William Darby và Jack Du Bois, dù các nhà soạn nhạc nền phim khác có một số bản hay hơn Steiner, không ai từng tạo ra nhiều bản nhạc "rất tốt" như Steiner. Có thể thành tích cá nhân không cao nhưng Steiner có ảnh hưởng lớn đến lịch sử. Steiner là một trong những nhà soạn nhạc đầu tiên đưa lại âm nhạc vào phim sau khi phim thoại ra đời. Nhạc phim King Kong trở thành hình mẫu cho phương thức thêm nhạc nền vào phim. Một số người cùng thời không ưa nhạc của Steiner. Miklós Rózsa chỉ trích Steiner về việc sử dụng Mickey Mousing và không thích âm nhạc của ông, nhưng cũng thừa nhận Steiner đã có một sự nghiệp thành công và "cảm giác giai điệu" tốt.
Giờ đây được coi là "cha đẻ nhạc phim" hay "trưởng lão nhạc phim", Steiner đã viết hoặc chuyển soạn cho hơn 300 bộ phim trong toàn bộ sự nghiệp. Con trai của Erich Korngold là George Korngold sản xuất album Classic Film Score Series (Loạt nhạc phim cổ điển) trong đó có nhạc Steiner. Albert K. Bender thành lập Hiệp hội âm nhạc Max Steiner (Max Steiner Music Society) với các thành viên quốc tế tham gia, xuất bản tạp chí, bản tin và thư viện bản ghi âm. Năm 1981, tổ chức này giải tán khi bộ sưu tập Steiner được chuyển đến Đại học Brigham Young. Hiệp hội Tưởng niệm Max Steiner (Max Steiner Memorial Society) được thành lập tại Vương quốc Anh kế tục công tác của Hiệp hội Âm nhạc Max Steiner.
Thành tựu điện ảnh
Viện phim Mỹ lần lượt xếp hạng nhạc Steiner cho Cuốn theo chiều gió (1939) và King Kong (1933) ở vị trí thứ 2 và thứ 13 trong danh sách 25 nhạc phim hay nhất. Các nhạc phim sau đây của ông cũng được đề cử vào danh sách:
The Informer (1935)
Jezebel (1938)
Dark Victory (1939)
Casablanca (1942)
Now, Voyager (1942)
Adventures of Don Juan (1948)
Johnny Belinda (1948)
The Treasure of Sierra Madre (1948)
A Summer Place (1959)
Ghi chú
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Max Steiner trên Internet Broadway Database
Âm nhạc và hình ảnh của Max Steiner, MSS 6131 trong Bộ sưu tập đặc biệt của L. Tom Perry, Đại học Brigham Young
Bản ghi âm Max Steiner từ The Informer, MSS 8705 trong Bộ sưu tập đặc biệt của L. Tom Perry, Đại học Brigham Young
, phim tài liệu của Barry Kolman
, đoạn giới thiệu phim tài liệu
, do Beny Debny tổng hợp
Max Steiner từ kho lưu trữ Österreichische Mediathek
Vnexpress - Những 'phù thủy' nhạc phim
Nhạc sĩ giành giải Quả cầu vàng
Phim và người giành Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất
Nhà soạn nhạc tại các nhà hát nhạc kịch người Mỹ
Nhà soạn nhạc nền phim người Mỹ
Người Viên
Nhạc sĩ Los Angeles
|
16982660
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng%20V%C4%83n%20Th%C3%A0nh%20%28th%E1%BA%A9m%20ph%C3%A1n%29
|
Đặng Văn Thành (thẩm phán)
|
Đặng Văn Thành là thẩm phán cao cấp người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Chánh tòa Tòa Dân sự, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông từng có chức danh Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Tiểu sử
Đặng Văn Thành sinh năm 1961.
Đặng Văn Thành từng là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao công tác tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau khi Tòa án nhân dân cấp cao thành lập ngày 1 tháng 6 năm 2015, Đặng Văn Thành được điều động công tác tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và giữ chức vụ Chánh tòa Tòa Lao động Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
Chiều ngày 19 tháng 9 năm 2017, Đặng Văn Thành được điều trở lại TPHCM và được bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh tòa Tòa Dân sự, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này ông là thẩm phán cao cấp.
Sáng ngày 28 tháng 5 năm 2018, Đặng Văn Thành làm chủ tọa xét xử phúc thẩm Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như.
Tham khảo
Người họ Đặng tại Việt Nam
Cựu Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam
Thẩm phán cao cấp Việt Nam
Chánh tòa Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
|
2628207
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Larentia%20exoriens
|
Larentia exoriens
|
Larentia exoriens là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Larentia (chi bướm)
|
14457601
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20bu%C3%B4n%20l%C6%B0%C6%A1ng%20th%E1%BB%B1c%20th%E1%BB%B1c%20ph%E1%BA%A9m
|
Người buôn lương thực thực phẩm
|
Theo truyền thống, người buôn lương thực thực phẩm là người cung cấp thực phẩm, đồ uống và các loại lương thực khác cho thủy thủ đoàn trên biển.
Có một số cách sử dụng cụ thể khác của thuật ngữ này, chẳng hạn như:
Nhà cung cấp thực phẩm chính thức cho Hải quân Hoàng gia Anh vào thế kỷ 18 và 19 là Ban tiếp tế. Nhà cung cấp thực phẩm là một tàu cung cấp vào thời điểm đó.
Một thuật ngữ thay thế cho một người bán hàng căng tin (quân sự), một người bán lương thực cho quân đội.
Một người cung cấp được cấp phép, một tên chính thức cho chủ nhà của một nhà công cộng hoặc cơ sở được cấp phép tương tự.
Ở Ireland, người buôn lương thực thực phẩm là một thuật ngữ chỉ một người bán thịt.
Tham khảo
buôn
lương thực thực phẩm
|
3379391
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20Gi%C3%A1m%20m%E1%BB%A5c%20%C4%90%C3%A0i%20Loan
|
Hội đồng Giám mục Đài Loan
|
Hội đồng Giám mục Đài Loan, tên chính thức là Giám mục đoàn Giáo hội Công giáo lãnh thổ Đài Loan (), tên (Hội đồng Giám mục vùng lãnh thổ Trung Hoa), là tổ chức giám mục đoàn Công giáo tại Trung Hoa Dân quốc, là cơ quan lãnh đạo hoạt động Công giáo tại Đài Loan, hiệp thông với giáo hội hoàn vũ. Thành lập năm 1967, Hội đồng Giám mục Đài Loan có quyền tài phán và quản trị Giáo hội Công giáo tại Đài Loan.
Lịch sử
Được thành lập năm 1967, ban đầu với tên gọi Giám mục đoàn Công giáo tại Trung Quốc (, , ), trùng với quan điểm của chính phủ Trung Hoa Dân quốc, Hội đồng Giám mục này cũng tự nhận là đại diện cho cả Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc Đại lục. Tuy nhiên, bởi tình trạng phức tạp về chính trị giữa eo biển Đài Loan nên trên thực tế, Hội đồng Giám mục Đài Loan chỉ quản trị người Công giáo tại đảo Đài Loan, mà họ gọi là Vùng Tự do của Trung Hoa Dân Quốc; vì vậy, từ năm 1998, tổ chức này đã được đổi tên lại như hiện nay. Hiện nay, Hội đồng Giám mục Đài Loan là thành viên của Liên Hội đồng Giám mục Á châu. Các phán quyết của Hội đồng Giám mục Đài Loan không bao hàm lãnh thổ Hồng Kông, Ma Cao và Ngoại Mông.
Chú thích
Tham khảo
Đ
H
Giáo hội Công giáo Rôma tại Trung Quốc
|
3432744
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20C%C3%A1c%20ti%E1%BB%83u%20V%C6%B0%C6%A1ng%20qu%E1%BB%91c%20%E1%BA%A2%20R%E1%BA%ADp%20Th%E1%BB%91ng%20nh%E1%BA%A5t
|
Danh sách Thủ tướng Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất
|
Phó Tổng thống và Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất. Cho đến nay, tất cả Thủ tướng đều kiêm nhiệm Phó Tổng thống. Không dựa theo Hiến pháp, trong lịch sử phó cai trị Dubai sẽ trở thành Thủ tướng. Thủ tướng hiện tại là Mohammed bin Rashid al-Maktoum. được bầu ngày 11/2/2006, sau khi anh trai của ông, Maktoum bin Rashid al-Maktoum qua đời trong chuyến thăm Gold Coast Australia.
Thủ tướng đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, thường họp 1 tuần tại thủ đô, Abu Dhabi.
Danh sách Phó Tổng thống và Thủ tướng Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (1971–nay)
Danh sách Phó Thủ tướng Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất (1971–nay)
Hamdan bin Rashid Al Maktoum (1971–1973)
Khalifa bin Zayed Al Nahyan (1973–1977)
Hamdan bin Mohammed Al Nahyan (1977–1979)
Hamdan bin Mohammed Al Nahyan & Maktoum bin Rashid Al Maktoum (1979–1990)
Sultan bin Zayed Al Nahyan (1990–1997)
Sultan bin Zayed Al Nahyan & Hamdan bin Zayed Al Nahyan (1997–2009)
Saif bin Zayed Al Nahyan & Mansour bin Zayed Al Nahyan (2009–nay)
Xem thêm
Tổng thống Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất
Tham khảo
Chính trị Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Phó Tổng thống
Danh sách thủ tướng theo quốc gia
|
2921934
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Celaena%20hibernica
|
Celaena hibernica
|
Celaena hibernica là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Celaena
|
14670676
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Coumarin
|
Coumarin
|
Coumarin (; 2 H -chromen-2-one) là một hữu cơ thơm hợp chất hóa học trong benzopyrone lớp hóa chất, mặc dù nó cũng có thể được xem như là một lớp con của lacton. Nó là một chất tự nhiên được tìm thấy trong nhiều loại thực vật và là chất kết tinh không màu ở trạng thái tiêu chuẩn.
Tên này xuất phát từ một thuật ngữ tiếng Pháp cho đậu tonka, coumarou, một trong những nguồn mà coumarin lần đầu tiên được phân lập như một sản phẩm tự nhiên vào năm 1820. Nó có mùi ngọt ngào, dễ dàng được công nhận là mùi hương của cỏ khô mới, và đã được sử dụng trong nước hoa từ năm 1882. Woodruff ngọt, Meadowsweet, cỏ ngọt và ngọt-clover đặc biệt được đặt tên cho ngọt (ví dụ, dễ chịu) mùi của họ, do đó có liên quan đến nội dung coumarin cao của họ. Khi nó xuất hiện ở nồng độ cao trong cây cỏ, coumarin là một chất ức chế sự thèm ăn có vị hơi đắng, và được cho là được sản xuất bởi các nhà máy như một hóa chất bảo vệ để ngăn chặn sự săn mồi.
Coumarin được sử dụng trong một số nước hoa và điều hòa vải. Coumarin đã được sử dụng như một chất tăng cường hương thơm trong thuốc lá và một số đồ uống có cồn, mặc dù nói chung nó bị cấm làm phụ gia thực phẩm có hương vị, do lo ngại về độc tính gan của nó trong mô hình động vật.
Coumarin được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1868. Nó được sử dụng trong ngành công nghiệp dược phẩm như thuốc thử tiền thân trong quá trình tổng hợp của một số tổng hợp thuốc chống đông dược phẩm tương tự như dicoumarol, những người đáng chú ý là warfarin (tên thương hiệu Coumadin) và một số chất thậm chí còn mạnh hơn (xem thuốc chuột / rodenticide) công việc mà bởi cơ chế chống đông máu tương tự. 4-hydroxycoumarin là một loại chất đối kháng vitamin K. Coumarin dược phẩm (sửa đổi) đều được phát triển từ nghiên cứu về bệnh cỏ ba lá ngọt; xem warfarin cho lịch sử này. Tuy nhiên, chính coumarin không biến đổi, như nó xảy ra trong thực vật, không có tác dụng đối với hệ thống đông máu vitamin K, hoặc tác dụng của thuốc loại warfarin.
Coumarin có giá trị y tế lâm sàng, như một công cụ điều chỉnh phù nề. Coumarin và các loại benzopyrones khác, chẳng hạn như 5,6-benzopyrone, 1,2-benzopyrone, diosmin và các loại khác, được biết là kích thích các đại thực bào để làm giảm albumin ngoại bào, cho phép tái hấp thu nhanh hơn các chất lỏng phù nề. Các hoạt động sinh học khác có thể dẫn đến sử dụng y tế khác đã được đề xuất, với mức độ bằng chứng khác nhau.
Coumarin cũng được sử dụng làm môi trường khuếch đại trong một số laser nhuộm, và là chất nhạy cảm trong các công nghệ quang điện cũ.
Lịch sử
Coumarin lần đầu tiên được phân lập từ đậu tonka và cỏ ba lá ngọt vào năm 1820 bởi A. Vogel của Munich, người ban đầu nhầm nó với axit benzoic. Cũng trong năm 1820, Nicholas Jean Baptiste Gaston Guibourt (1790 trừ1867) của Pháp đã phân lập độc lập coumarin, nhưng ông nhận ra rằng đó không phải là axit benzoic. Trong một bài luận tiếp theo, ông đã trình bày cho bộ phận dược phẩm của Académie Royale de Médecine, Guibourt đặt tên cho chất mới là "coumarine". Năm 1835, dược sĩ người Pháp A. Guillemette đã chứng minh rằng Vogel và Guibourt đã phân lập cùng một chất. Coumarin lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1868 bởi nhà hóa học người Anh William Henry Perkin.
Nguồn gốc
Coumarin có nguồn gốc từ coumarou, từ tiếng Pháp có nghĩa là đậu tonka. Từ tonka cho đậu tonka được lấy từ lưỡi Galibi (Carib) được nói bởi người bản địa Guiana thuộc Pháp (một nguồn cho cây); nó cũng xuất hiện trong Old Tupi, một ngôn ngữ khác cùng khu vực, như tên của cây. Tên chi cũ, Coumarouna, được hình thành từ một tên Tupi khác cho cây, kumarú.
Tổng hợp
Coumarin có thể được điều chế bằng một số phản ứng tên với phản ứng Perkin giữa salicylaldehyd và anhydrid acetic là một ví dụ phổ biến. Sự ngưng tụ Pechmann cung cấp một tuyến đường khác đến coumarin và các dẫn xuất của nó; cũng như sự acyl hóa Kostanecki cũng có thể được sử dụng để sản xuất crom.
Nguồn gốc tự nhiên
Coumarin được tìm thấy tự nhiên trong nhiều nhà máy, đặc biệt là ở nồng độ cao trong đậu tonka (dipteryx odorata), vani cỏ (Anthoxanthum odoratum), Woodruff ngọt (Galium odoratum), cây thảo bản bông vàng (Verbascum spp.), Cỏ ngọt (hierochloe odorata), quế đơn (Cinnamomum cassia) không nên nhầm với quế đúng ("Ceylon quế", Cinnamomum zeylanicum, trong đó có ít coumarin), ngọt-clover (chi nhãn hương sp.), deertongue (dichanthelium clandestinum), và lá của nhiều hoa anh đào giống cây (thuộc chi Prunus). Coumarin cũng được tìm thấy trong chiết xuất của Justicia pectoralis. Các hợp chất liên quan được tìm thấy trong một số nhưng không phải tất cả các mẫu của chi Glycyrrhiza, từ đó rễ và hương vị cam thảo có nguồn gốc.
Sự trao đổi chất
Sinh tổng hợp coumarin trong thực vật là thông qua quá trình hydroxyl hóa, glycolysis và chu kỳ của axit cinnamic. Ở người, enzyme được mã hóa bởi gen UGT1A8 có hoạt tính glucuronidase với nhiều cơ chất bao gồm cả coumarin.
Chức năng sinh học
Coumarin có đặc tính ức chế sự thèm ăn, có thể ngăn cản động vật ăn thực vật có chứa nó. Mặc dù hợp chất có mùi ngọt dễ chịu, nhưng nó có vị đắng, và động vật có xu hướng tránh nó.
Các dẫn xuất
Coumarin và các dẫn xuất của nó đều được coi là phenylpropanoids.
Một số dẫn xuất coumarin tự nhiên bao gồm umbelliferone (7-hydroxycoumarin), aesculetin (6,7-dihydroxycoumarin), herniarin (7-methoxycoumarin), psoralen và đế chế.
4-Phenylcoumarin là xương sống của neoflavone, một loại neoflavonoid.
Sử dụng y tế
Coumarin đã cho thấy một số bằng chứng về hoạt động sinh học và đã được phê duyệt hạn chế đối với một số ứng dụng y tế như dược phẩm, như trong điều trị phù bạch huyết và khả năng tăng nồng độ antithrombin huyết tương. Cả hai dẫn xuất coumarin và indandione đều tạo ra hiệu ứng uricosuric, có lẽ bằng cách can thiệp vào sự tái hấp thu ở ống thận của urate.
Ứng dụng laser
Thuốc nhuộm coumarin được sử dụng rộng rãi như là phương tiện truyền thông trong laser nhuộm hữu cơ có thể điều chỉnh màu xanh lục. Trong số các loại thuốc nhuộm laser coumarin khác nhau là coumarin 480, 490, 504, 521, 504T và 521T. Thuốc nhuộm laser tetramethyl coumarin cung cấp khả năng điều chỉnh rộng và mức tăng laser cao, và chúng cũng được sử dụng làm môi trường hoạt động trong các bộ phát OLED kết hợp.
Độc tính và sử dụng trong thực phẩm, đồ uống, mỹ phẩm và thuốc lá
Coumarin độc hại vừa phải đối với gan và thận, với liều gây chết trung bình (LD 50) là 275 mg / kg, độc tính thấp so với các hợp chất liên quan. Mặc dù nó chỉ hơi nguy hiểm đối với con người, nhưng coumarin gây độc cho gan ở chuột, nhưng ít hơn ở chuột. Các loài gặm nhấm chuyển hóa nó chủ yếu thành 3,4-coumarin epoxide, một hợp chất độc hại, không ổn định mà khi chuyển hóa khác biệt có thể gây ung thư gan ở chuột và khối u phổi ở chuột. Con người chuyển hóa nó chủ yếu thành 7-hydroxycoumarin, một hợp chất có độc tính thấp hơn. Viện đánh giá rủi ro liên bang Đức đã thiết lập mức tiêu thụ hàng ngày chấp nhận được (TDI) là 0,1 mg coumarin mỗi kg trọng lượng cơ thể, nhưng cũng khuyên rằng lượng cao hơn trong một thời gian ngắn không nguy hiểm. Cơ quan quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp (OSHA) của Hoa Kỳ không phân loại coumarin là chất gây ung thư cho con người.
Các cơ quan y tế châu Âu đã cảnh báo chống tiêu thụ một lượng lớn vỏ cây quế, một trong bốn loài quế chính, vì hàm lượng coumarin của nó. Theo Viện đánh giá rủi ro liên bang Đức (BFR), 1 kg bột quế (cassia) chứa khoảng 2,1 đến 4,4 g của coumarin. Bột quế bột nặng 0,56 g / cm 3, vì vậy một kg bột quế bằng 362,29 muỗng cà phê. Do đó, một muỗng cà phê bột quế chứa 5,8 đến 12,1 mg coumarin, có thể cao hơn giá trị lượng hàng ngày chấp nhận được đối với những người nhỏ hơn. Tuy nhiên, BFR chỉ thận trọng trước việc ăn nhiều thực phẩm hàng ngày có chứa coumarin. Báo cáo của nó nói rõ rằng quế Ceylon (Cinnamomum verum) có chứa "hầu như không" coumarin.
Quy định châu Âu (EC) số 1334/2008 mô tả các giới hạn tối đa sau đây đối với coumarin: 50 mg / kg trong các sản phẩm bánh truyền thống và/hoặc theo mùa có liên quan đến quế trong ghi nhãn, 20 mg / kg trong ngũ cốc ăn sáng bao gồm muesli, 15 mg / kg trong các sản phẩm bánh tốt, ngoại trừ các sản phẩm bánh truyền thống và/hoặc theo mùa có chứa một tham chiếu đến quế trong nhãn, và 5 mg / kg trong món tráng miệng. Một cuộc điều tra từ Cơ quan Thú y và Thực phẩm Đan Mạch năm 2013 cho thấy các mặt hàng bánh có đặc trưng là đồ làm bánh tốt vượt quá giới hạn châu Âu (15 mg / kg) trong gần 50% các trường hợp. Bài viết cũng đề cập đến trà như một đóng góp quan trọng bổ sung cho lượng coumarin tổng thể, đặc biệt là đối với trẻ em có thói quen ngọt ngào.
Coumarin được tìm thấy tự nhiên trong nhiều loại cây ăn được như dâu tây, lý chua đen, quả mơ và anh đào.
Coumarin thường được tìm thấy trong các chất thay thế vani nhân tạo, mặc dù đã bị cấm làm phụ gia thực phẩm ở nhiều nước kể từ giữa thế kỷ 20. Coumarin đã bị cấm làm phụ gia thực phẩm tại Hoa Kỳ vào năm 1954, phần lớn là do độc tính gan dẫn đến động vật gặm nhấm. Coumarin hiện đang được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) liệt kê trong số "Các chất thường bị cấm bổ sung trực tiếp hoặc sử dụng làm thực phẩm cho con người", theo 21 CFR 189.130, nhưng một số chất phụ gia tự nhiên có chứa coumarin như flavorant Woodruff ngọt được phép "trong đồ uống có cồn chỉ" dưới 21 CFR 172,510. Ở châu Âu, những ví dụ phổ biến của đồ uống như vậy là Maiwein, rượu vang trắng với gỗ, và Żubrówka, rượu vodka có hương vị cỏ bison.
Coumarin bị hạn chế sử dụng trong nước hoa, vì một số người có thể bị mẫn cảm với nó, tuy nhiên bằng chứng cho thấy coumarin có thể gây ra phản ứng dị ứng ở người.
Rối loạn chức năng thần kinh nhỏ đã được tìm thấy ở trẻ em tiếp xúc với thuốc chống đông máu acenvitymarol hoặc phenprocoumon trong khi mang thai. Một nhóm gồm 306 trẻ em đã được thử nghiệm ở độ tuổi 71515 để xác định các hiệu ứng thần kinh tinh tế do phơi nhiễm thuốc chống đông máu. Kết quả cho thấy mối quan hệ đáp ứng liều giữa phơi nhiễm thuốc chống đông máu và rối loạn chức năng thần kinh nhỏ. Nhìn chung, sự gia tăng 1,9 (90%) trong rối loạn chức năng thần kinh nhỏ đã được quan sát thấy ở những trẻ tiếp xúc với các thuốc chống đông máu này, được gọi chung là "coumarin". Kết luận, các nhà nghiên cứu tuyên bố: "Kết quả cho thấy coumarin có ảnh hưởng đến sự phát triển của não có thể dẫn đến rối loạn chức năng thần kinh nhẹ ở trẻ em trong độ tuổi đi học."
Coumarin vẫn được sử dụng như một chất tạo hương vị hợp pháp trong ngành công nghiệp thuốc lá, đặc biệt là thuốc lào ngọt. Sự hiện diện của nó trong thuốc lá Brown & Williamson, giám đốc điều hành Tiến sĩ Jeffrey Wigand để liên lạc với chương trình tin tức của CBS 60 phút vào năm 1995, cho rằng một dạng thuốc diệt chuột của Hồi có trong thuốc lá. Ông cho rằng theo quan điểm của một nhà hóa học, coumarin là tiền thân ngay lập tức của người Bỉ đối với coumadin của loài gặm nhấm. Tiến sĩ Wigand sau đó tuyên bố rằng chính coumarin là nguy hiểm, chỉ ra rằng FDA đã cấm bổ sung vào thực phẩm của con người vào năm 1954. Theo lời khai sau đó, anh ta sẽ liên tục phân loại coumarin là "chất gây ung thư đặc hiệu cho phổi". Ở Đức, coumarin bị cấm làm phụ gia trong thuốc lá.
Đồ uống có cồn được bán ở Liên minh Châu Âu được giới hạn tối đa là 10 mg / l coumarin theo luật. Hương vị quế nói chung là vỏ quế được chưng cất bằng hơi nước để cô đặc cinnamaldehyd, ví dụ, khoảng 93%. Rõ ràng đồ uống có cồn có hương quế thường kiểm tra âm tính với coumarin, nhưng nếu toàn bộ vỏ cây quế được sử dụng để làm rượu nghiền, thì coumarin sẽ xuất hiện ở mức độ đáng kể.
Các hợp chất và dẫn xuất liên quan
Các hợp chất có nguồn gốc từ coumarin cũng được gọi là coumarin hoặc coumarinoids; nhóm này bao gồm:
brodifacoum
bromadiolone
Difenacoum
auraptene
consaculin
phenprocoumon (Marcoumar)
PSB-SB-487
PSB-SB-1202
Scopoletin có thể được phân lập từ vỏ cây Shorea pinanga
warfarin (Coumadin)
Coumarin được chuyển thành chất chống đông máu tự nhiên dicoumarol bởi một số loài nấm. Điều này xảy ra như là kết quả của việc sản xuất 4-hydroxycoumarin, sau đó tiếp tục (trong sự hiện diện của tự nhiên xảy ra formaldehyde) vào thuốc kháng đông thực tế dicoumarol, một sản phẩm lên men và độc tố nấm mốc. Dicoumarol chịu trách nhiệm về bệnh chảy máu nổi tiếng trong lịch sử như " cỏ ba lá ngọt bệnh" trong gia súc ăn mốc clover ngọt ủ chua. Trong nghiên cứu cơ bản, bằng chứng sơ bộ tồn tại cho coumarin có các hoạt động sinh học khác nhau, bao gồm các đặc tính chống viêm, chống khối u, kháng khuẩn và kháng nấm, trong số những thứ khác.
Dùng làm thuốc trừ sâu
Nhiều hợp chất đã nêu ở trên (cụ thể là 4-hydroxycoumarin, đôi khi được gọi là coumarin) được sử dụng làm thuốc chống đông máu và/hoặc làm thuốc diệt chuột. Chúng ngăn chặn sự tái sinh và tái chế vitamin K. Những hóa chất này đôi khi cũng được gọi không chính xác là "coumadin" thay vì 4-hydroxycoumarin. Coumadin là một thương hiệu cho thuốc warfarin.
Một số loại hóa chất chống đông máu 4-hydroxycoumarin được thiết kế để có hiệu lực rất cao và thời gian lưu trú lâu trong cơ thể, và chúng được sử dụng đặc biệt như thuốc diệt chuột (" thuốc diệt chuột"). Tử vong xảy ra sau một khoảng thời gian vài ngày đến hai tuần, thường là do xuất huyết nội.
Vitamin K là một thuốc giải độc thực sự cho ngộ độc bởi các 4-hydroxycoumarin chống đông máu như bromadiolone. Điều trị thường bao gồm một liều lớn vitamin K được tiêm tĩnh mạch ngay lập tức, sau đó là liều ở dạng thuốc trong khoảng thời gian ít nhất hai tuần, mặc dù thường là ba đến bốn, sau đó. Điều trị thậm chí có thể tiếp tục trong vài tháng. Nếu được đánh bắt sớm, tiên lượng tốt, ngay cả khi ăn một lượng lớn. Trước mắt, truyền máu với huyết tương tươi đông lạnh để cung cấp các yếu tố đông máu, cung cấp thời gian cho vitamin K để đảo ngược ngộ độc enzyme ở gan và cho phép các yếu tố đông máu mới được tổng hợp ở đó.
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin thêm về coumarin
Coumarin trong thuốc lá
Coumarin là một thành phần của nước hoa.
http://ec.europa.eu/food/fs/sfp/addit_flavor/flav09_en.pdf
Độc tố có nguồn gốc thực vật
Coumarin
Nhiên liệu tự nhiên
Chiết xuất từ tinh dầu quế
Nguồn gốc từ thực vật
Chất thơm tự nhiên
Thuốc
|
15406751
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Buciumi
|
Buciumi
|
Buciumi có thể là một số địa danh ở România:
Buciumi, Bacău, xã ở hạt Bacău
Buciumi, Sălaj, xã ở hạt Sălaj
|
19815781
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C4%83ng%20Ho%C3%A1n%20T%C3%A2n
|
Lăng Hoán Tân
|
Lăng Hoán Tân (tiếng Trung giản thể: 凌焕新, bính âm Hán ngữ: Líng Huànxīn, sinh tháng 3 năm 1962, người Hán) là tướng lĩnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX, hiện là Chính ủy Viện Khoa học Quân sự Trung Quốc. Ông từng giữ các chức vụ trong quân đội như Phó Bí thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Quân ủy Trung ương; Chủ nhiệm Bộ Công tác chính trị Chiến khu Bắc Bộ.
Lăng Hoán Tân là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông có sự nghiệp hơn 40 năm tại ngũ, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực chính trị của quân đội trước khi tham gia lãnh đạo ngành khoa học quân sự Trung Quốc.
Sự nghiệp
Lăng Hoán Tân sinh tháng 3 năm 1962 tại huyện Tĩnh Giang, nay là thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Thái Châu, tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Tĩnh Giang, sau đó nhập ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, được điều chuyển công tác ở trung ương, phục vụ hoạt động chính trị trong quân đội. Ông từng là Phó Cục trưởng Cục Tổ chức của Tổng bộ Chính trị Quân ủy Trung ương những năm 2010. Tháng 1 năm 2016, ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Bộ Công tác chính trị Lục quân Chiến khu Bắc Bộ vào thời điểm hệ thống quân đội được cải tổ, 5 chiến khu được thành lập. Sau đó 1 năm, vào tháng 3 năm 2017, ông được điều về Trung ương, phân công làm Ủy viên chuyên chức Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Quân ủy Trung ương. Ngày 24 tháng 2 năm 2018, ông trúng tuyển Đại biểu của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa XIII, nhiệm kỳ 2018–2023.
Tháng 12 năm 2018, Lăng Hoán Tân được phê chuẩn làm Phó Bí thư Ủy ban Kiểm Kỷ Quân ủy Trung ương, sau đó 1 năm thì được thăng quân hàm Trung tướng. Cuối năm 2022, ông được bầu là đại biểu dự Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XX, từ đoàn Quân Giải phóng và Vũ cảnh. Trong quá trình bầu cử tại đại hội, ông tiếp tục được bầu là Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX. Ngày 28 tháng 6 năm 2023, ông được thăng quân hàm Thượng tướng, bậc chính quân khu, bổ nhiệm làm Chính ủy Viện Khoa học Quân sự Quân ủy Trung ương.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Xem thêm
Viện Hàn lâm Khoa học Quân sự Trung Quốc
Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Quân ủy Trung ương Trung Quốc
Danh sách Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX
Chú thích
Liên kết ngoài
Quân Giải phóng Trung Quốc.
Người Hán
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1962
Người Giang Tô
Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX
Tướng lĩnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từ Giang Tô
|
2652957
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scopula%20subperlaria
|
Scopula subperlaria
|
Scopula subperlaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
S
Côn trùng Cameroon
|
2568200
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pachyteria%20diversipes
|
Pachyteria diversipes
|
Pachyteria diversipes là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Pachyteria
|
2574476
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rhaphuma%20teres
|
Rhaphuma teres
|
Rhaphuma teres là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Rhaphuma
|
14082177
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Norimatsu%20Ruka
|
Norimatsu Ruka
|
Norimatsu Ruka (乗松 瑠華, sinh ngày 30 tháng 1 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá nữ người Nhật Bản.
Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Nhật Bản
Norimatsu Ruka thi đấu cho đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Nhật Bản từ năm 2014.
Thống kê sự nghiệp
Tham khảo
Sinh năm 1996
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nữ Nhật Bản
|
2820662
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phytodietus%20rufiventris
|
Phytodietus rufiventris
|
Phytodietus rufiventris là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phytodietus
|
2921423
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Catocala%20genetrix
|
Catocala genetrix
|
Catocala genetrix là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Catocala
|
14135783
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ninomiya%20Kazuhiro
|
Ninomiya Kazuhiro
|
Kazuhiro Ninomiya (sinh ngày 23 tháng 11 năm 1982) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Kazuhiro Ninomiya đã từng chơi cho Avispa Fukuoka.
Tham khảo
Sinh năm 1982
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Avispa Fukuoka
Cầu thủ bóng đá J1 League
Cầu thủ bóng đá J2 League
Cầu thủ bóng đá Verspah Oita
|
2751876
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carcelia%20atricans
|
Carcelia atricans
|
Carcelia atricans là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Carcelia
|
2707172
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glyphodes%20phormingopa
|
Glyphodes phormingopa
|
Glyphodes phormingopa là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Glyphodes
|
2604239
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eupithecia%20albibisecta
|
Eupithecia albibisecta
|
Eupithecia albibisecta là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
A
|
2718840
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sericoplaga%20externalis
|
Sericoplaga externalis
|
Sericoplaga externalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sericoplaga
Động vật được mô tả năm 1892
|
2911072
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cydosia%20jamaicensis
|
Cydosia jamaicensis
|
Cydosia jamaicensis là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Cydosia
|
2594564
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anisodes%20viator
|
Anisodes viator
|
Anisodes viator là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
V
V
|
13673493
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Iustin%20Popescu
|
Iustin Popescu
|
Iustin Alin Popescu (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1993 ở Craiova) là một cầu thủ bóng đá người România thi đấu cho Chindia Târgoviște theo dạng cho mượn từ Dinamo București ở vị trí thủ môn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1993
Nhân vật còn sống
Nhân vật thể thao từ Craiova
Cầu thủ bóng đá România
Thủ môn bóng đá
Cầu thủ bóng đá Liga I
Cầu thủ bóng đá Liga II
Cầu thủ bóng đá AFC Chindia Târgoviște
Cầu thủ bóng đá FC Dinamo București
Cầu thủ bóng đá FC Petrolul Ploiești
|
3236056
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontolabis%20micros
|
Odontolabis micros
|
Odontolabis micros là một loài bọ cánh cứng trong họ Lucanidae. Loài này được mô tả khoa học năm 1970.
Tham khảo
Odontolabis
Động vật được mô tả năm 1970
|
18093593
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oleksandr%20Zinchenko
|
Oleksandr Zinchenko
|
Oleksandr Volodymyrovych Zinchenko (; sinh ngày 15 tháng 12 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina đang chơi cho câu lạc bộ Arsenal tại Premier League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina.
Anh bắt đầu sự nghiệp tại đội bóng Russian Premier League Ufa trước khi gia nhập Manchester City vào năm 2016 với mức phí trong khoảng 1 triệu bảng. Là một tiền vệ đa năng, anh cũng có thể chơi trong nhiều vị trí, ví dụ như hậu vệ cánh hoặc một hậu vệ.
Là tuyển thủ Ukraina chính thức kể từ năm 2015, Zinchenko đã đại diện cho đất nước mình tại UEFA Euro 2020.
Đầu đời
Zinchenko sinh ra ở Radomyshl, Zhytomyr Oblast, Ukraina.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp ban đầu
Zinchenko là sản phẩm của Trường Thiếu niên Sporitve Karpatiya ở quê hương Radomyshl (với huấn luyện viên đầu tiên Serhiy Boretskyi), FC Monolit Illichivsk và FC Shakhtar Donetsk.
Anh ra mắt giải Ngoại hạng Nga cho Ufa vào ngày 20 tháng 3 năm 2015 trong trận đấu với FC Krasnodar.
Manchester City
Vào ngày 4 tháng 7 năm 2016, Zinchenko đã ký hợp đồng với câu lạc bộ Premier League Manchester City với mức phí không được tiết lộ, nhiều người say đoán cho là khoảng £ 1,7 triệu. Động thái khiến nhiều người ngạc nhiên. Tuy nhiên, anh được một tuyển trạch viên bóng đá Nga mô tả là một "tài năng thực sự", câu lạc bộ Bundesliga Borussia Dortmund cũng theo dõi anh.
Zinchenko đã được cho mượn câu lạc bộ Eredivisie PSV Eindhoven vào ngày 26 tháng 8, cho mùa 2016-17. Anh ra mắt vào ngày 1 tháng 10, như một sự thay thế trong trận hòa 1-1 trước SC Heerenveen.
Zinchenko trở lại Manchester City trong mùa giải 2017-18 và ra mắt vào ngày 24 tháng 10 năm 2017, chơi toàn bộ trận đấu bao gồm cả hiệp phụ trong trận hòa 0-0 với Wanderers Wanderers ở EFL Cup. Anh xuất hiện lần đầu tiên tại Premier League vào ngày 13 tháng 12 năm 2017, bước khi ra khỏi băng ghế dự bị trong chiến thắng 4-0 trên sân khách của Swansea City.
Vào ngày 18 tháng 12 năm 2017, Zinchenko đã ghi bàn thắng đá phạt với Leicester City sau khi bế tắc 1-1 trong thời gian quy định, đưa Manchester City vào bán kết EFL Cup.
Zinchenko đã có chấn thương cho hậu vệ trái Benjamin Mendy và Fabian Delph, đưa vào một số màn trình diễn nhất quán ở vị trí này.
Zinchenko đã xuất hiện lần đầu tiên trong mùa giải 2018-19 trong chiến thắng 3-0 trên sân khách của Oxford United ở EFL Cup. Trong cùng một tuần, anh ấy đã bắt đầu giải đấu đầu tiên của mùa giải trong chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước Brighton & Hove Albion, do chấn thương của Mendy và Delph.
Zinchenko đã ghi bàn thắng đầu tiên cho Manchester City trong trận bán kết EFL Cup với Burton Albion vào ngày 9 tháng 1 năm 2019, một chiến thắng trên sân nhà 9-0.
Vào tháng 6 năm 2019, anh đã ký hợp đồng mới với câu lạc bộ, để giữ anh bên họ đến năm 2024. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2019, Zinchenko đã phẫu thuật đầu gối ở Barcelona. Huấn luyện viên của Manchester City, Pep Guardiola nói rằng quá trình hồi phục chấn thương sẽ mất từ 5 đến 6 tuần: "Anh ấy đã tiếp xúc với đầu gối. Anh cảm thấy có gì đó trong xương và phải dừng lại. Anh có một cái gì đó để làm sạch đầu gối. Đó không phải là một vấn đề lớn. Năm hoặc sáu tuần. " Vào đầu tháng 12 năm 2019, Zinchenko trở lại tập luyện đầy đủ. Vào ngày 11 tháng 12 năm 2019, anh đã chơi trận đầu tiên sau chấn thương trước Dinamo Zagreb. Vào ngày 4 tháng 1 năm 2020, Zinchenko đã đưa Manchester City vượt lên dẫn trước trong trận đấu với Port Vale ở FA Cup, kết thúc với tỷ số 4-1. Đó là mục tiêu sự nghiệp thứ hai của anh ấy.
Năm 2022, trong bối cảnh Putin đã phát động một chiến dịch quân sự chống lại Ukraine, trên tài khoản cá nhân của mình, Zinchenko chúc Putin 'một cái chết đau khổ', tuy nhiên bài đăng đã bị Instagram xóa.
Arsenal
Vào ngày 22 tháng 7 năm 2022,Arsenal xác nhận đã hoàn tất bản hợp đồng chiêu mộ Zinchenko từ Manchester City với mức phí 30 triệu bảng kèm thêm 2 triệu bảng phụ phí.Bản hợp đồng giữa Zinchenko và Arsenal sẽ kéo dài đến năm 2026.Anh có trận ra mắt trong chiến thắng 2-0 của Arsenal trước Crystal Palace
Sự nghiệp quốc tế
Anh ra mắt trận đấu quốc tế ở vòng loại UEFA Euro 2016 với Tây Ban Nha vào ngày 12 tháng 10 năm 2015. Zinchenko đã ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên trong trận giao hữu với các nước láng giềng Rumani ở Torino, mà Ukraina đã thắng 4-3 vào ngày 29 tháng 5 năm 2016. Anh cũng trở thành cầu thủ trẻ nhất của Ukraina để ghi một bàn thắng quốc tế ở tuổi 19 và 165 ngày, phá kỷ lục được làm từ năm 1996 bởi Andriy Shevchenko.
Zinchenko được đưa vào đội tuyển Ukraina tại Euro 2016, xuất hiện như một sự thay thế cho Viktor Kovalenko trong cả hai trận đấu đầu tiên của Ukraina, Đức và Bắc Ireland mạnh đến nỗi Ukraina không thể ghi bàn và là đội đầu tiên bị loại.
Tại Euro 2020, Zinchenko chỉ có được một bàn thắng trong trận thắng 2-1 trước ở vòng 16 đội.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Bàn thắng quốc tế
Tính đến ngày 16 tháng 11 năm 2021.
Danh hiệu
Manchester City
Premier League: 2017–18, 2018–19, 2020–21, 2021–22
FA Cup: 2018–19
EFL Cup: 2017–18, 2018–19, 2019–20, 2020–21
FA Community Shield: 2019
Arsenal
FA Community Shield: 2023
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile at the Manchester City F.C. website
Profile at the Football Federation of Ukraine website
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Ukraina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Ukraina
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá PSV Eindhoven
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ bóng đá Shakhtar Donetsk
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Ukraina
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1996
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hà Lan
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Nga
|
19511790
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20T%C6%B0%20Hi%E1%BB%81n
|
Cầu Tư Hiền
|
Cầu Tư Hiền là một cây cầu bắc qua cửa biển Tư Hiền trên phá Tam Giang - Cầu Hai tại huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam.
Cầu là một phần của tuyến đường Quốc lộ 49B chạy ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế, nối liền hai xã Lộc Bình và Vinh Hiền thuộc huyện Phú Lộc.
Cầu Tư Hiền được thiết kế vĩnh cửu bằng bê tông cốt thép dự ứng lực, có chiều dài 915,45 m, chiều rộng 12 m. Tĩnh không thông thuyền của cầu cao 9 m, rộng 60 m.
Công trình được khởi công xây dựng vào ngày 17 tháng 7 năm 2004 và khánh thành ngày 24 tháng 12 năm 2007.
Chú thích
Xem thêm
Cầu Tam Giang
Cầu Thuận An
Tư Hiền
Phú Lộc
|
2653626
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scotopteryx%20cretata
|
Scotopteryx cretata
|
Scotopteryx cretata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Scotopteryx
|
2604201
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crocallis%20fasciata
|
Crocallis fasciata
|
Crocallis fasciata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Crocallis
|
2596260
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stigmatophora%20albosericea
|
Stigmatophora albosericea
|
Stigmatophora albosericea là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Stigmatophora
|
2935205
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Metalepsis%20cornuta
|
Metalepsis cornuta
|
Metalepsis cornuta là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Metalepsis
|
15278647
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bodianus%20bilunulatus
|
Bodianus bilunulatus
|
Bodianus bilunulatus là một loài cá biển thuộc chi Bodianus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.
Từ nguyên
Tính từ định danh của loài được ghép bởi hai từ trong tiếng Latinh: bi ("hai") và lunulatus ("có hình lưỡi liềm"), hàm ý đề cập đến vây đuôi xẻ thùy của cá trưởng thành.
Phạm vi phân bố và môi trường sống
B. bilunulatus được ghi nhận dọc theo đường bờ biển Đông Phi trải dài đến Nam Phi, bao gồm Madagascar và một số các đảo quốc, quần đảo trên Ấn Độ Dương, và từ bờ biển Tây Úc ngược lên phía bắc đến Lãnh thổ Bắc Úc; từ vùng biển phía nam Nhật Bản và quần đảo Ogasawara, phạm vi của B. bilunulatus trải dài đến khu vực Tam giác San Hô (trừ phần lớn các nhóm đảo phía đông), Palau và Nouvelle-Calédonie.
B. bilunulatus sống gần các rạn san hô viền bờ, đặc biệt là những khu vực có nhiều bọt biển và san hô mềm, độ sâu quan sát khoảng từ 8 đến ít nhất là 160 m; cá con thường sống ở vùng nước nông hơn.
Mô tả
B. bilunulatus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 55 cm. B. bilunulatus có màu hồng ở cá cái, đỏ hơn ở cá đực (trắng hơn ở bụng). Hai bên thân có các đường sọc ngang màu đỏ, các vệt sọc cũng xuất hiện trên đầu. Một vệt đốm đen lớn ở sau lưng nhưng không lan rộng hết gốc đuôi như Bodianus loxozonus hay Bodianus macrourus. Cá đực trưởng thành không còn vệt đen này, vùng lưng sẫm màu hơn toàn bộ cơ thể (không có các vệt lốm đốm như Bodianus albotaeniatus). Cá con có màu vàng tươi ở trên đầu và lưng; một vùng màu đen bao quanh thân sau; cuống đuôi có màu trắng.
Số gai ở vây lưng: 12; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 12–13; Số tia vây ở vây ngực: 16–17.
Sinh thái học
Thức ăn của B. bilunulatus là những loài thủy sinh không xương sống có vỏ cứng như một số loài nhuyễn thể và giáp xác. Loài này thường sống đơn độc. B. bilunulatus được xem là một loài cá cảnh và cũng được đánh bắt để làm thực phẩm.
B. bilunulatus được xác nhận là một loài lưỡng tính tiền nữ, tức cá cái có thể chuyển đổi giới tính thành cá đực.
Tham khảo
Trích dẫn
B
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Somalia
Cá Kenya
Cá Tanzania
Cá Mozambique
Cá Nam Phi
Cá Madagascar
Cá Nhật Bản
Cá Đài Loan
Cá Philippines
Cá Malaysia
Cá Indonesia
Cá Úc
Cá Palau
Cá Nouvelle-Calédonie
Động vật được mô tả năm 1801
|
2838759
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tersilochus%20hungaricus
|
Tersilochus hungaricus
|
Tersilochus hungaricus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tersilochus
|
3165190
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20di%20s%E1%BA%A3n%20v%C4%83n%20h%C3%B3a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20quan%20t%C3%A2m%20%E1%BB%9F%20qu%E1%BA%A7n%20%C4%91%E1%BA%A3o%20Baleares
|
Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở quần đảo Baleares
|
Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở quần đảo Baleares.
Các di sản liên quan đến nhiều thành phố
|}
Di tích theo thành phố
A
Alaró (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Alaró
Alaior (Alaior) (Menorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Alayor
Alcúdia (Alcúdia) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Alcudia
Algaida (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Algaida
Andratx (Andraitx o Andratx) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Andrach
Ariany, Tây Ban Nha (Mallorca)
|}
Artà (Artà) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Artá
B
Banyalbufar (Banyalbufar) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Bañalbufar
Binissalem (Binissalem) (Mallorca)
|}
Búger (Mallorca)
|}
Bunyola (Bunyola) (Mallorca)
|}
C
Calvià (Calvià) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Calviá
Campanet (Mallorca)
|}
Campos, Mallorca (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Campos
Capdepera (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Capdepera
Ciutadella (Ciutadella de Menorca) (Menorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Ciudadela
Consell (Mallorca)
|}
Costitx (Mallorca)
|}
D
Deià (Deià) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Deyá
E
Es Migjorn Gran (Menorca)
|}
Escorca (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Escorca
Esporles (Esporles) (Mallorca)
|}
Estellencs (Estellencs) (Mallorca)
|}
F
Felanitx (Felanitx) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Felanich
Ferreries (Ferreries) (Menorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Ferrerías
Formentera (Formentera)
|}
Fornalutx (Mallorca)
|}
I
Ibiza (Eivissa) (Ibiza)
|}
Inca, Tây Ban Nha (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Inca
L
Sa Pobla (Sa Pobla) (Mallorca)
Ses Salines (Ses Salines) (Mallorca)
|}
Lloret de Vistalegre (Mallorca)
Lloseta (Mallorca)
|}
Llubí (Mallorca)
Llucmajor (Llucmajor) (Mallorca)
M
Mahon (Maó-Mahón) (Menorca)
Manacor (Mallorca)
Mancor de la Vall (Mancor de la Vall) (Mallorca)
|}
Maria de la Salut (Maria de la Salut) (Mallorca)
|}
Marratxí (Marratxí) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Marrachí
Es Mercadal (Es Mercadal) (Menorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Mercadal
Montuïri (Montuïri) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Montuiri
Muro, Baleares (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Muro
P
Palma de Mallorca (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Palma de Mallorca
Petra, Baleares (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Petra
Pollença (Pollença) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Pollensa
Porreres (Porreres) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở Porreras
Puigpunyent (Puigpunyent) (Mallorca)
|}
S
Sant Antoni de Portmany (Sant Antoni de Portmany) (Ibiza)
|}
Sant Josep de sa Talaia (Sant Josep de sa Talaia) (Ibiza)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở San José
Sant Joan (Sant Joan) (Mallorca)
|}
Sant Joan de Labritja (Sant Joan de Labritja) (Ibiza)
|}
Sant Llorenç des Cardassar (Sant Llorenç des Cardassar) (Mallorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở San Lorenzo de Cardessar
Sant Lluís (Sant Lluís) (Menorca)
Xem: Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha được quan tâm ở San Luis
Sencelles (Sencelles) (Mallorca)
|}
Santa Eugènia (Santa Eugènia) (Mallorca)
|}
Santa Eulària des Riu (Santa Eulària des Riu) (Ibiza)
|}
Santa Margalida (Santa Margalida) (Mallorca)
|}
Santa María del Camí (Santa Maria del Camí) (Mallorca)
|}
Santanyí (Santanyí) (Mallorca)
|}
Selva, Mallorca (Mallorca)
|}
Sineu (Mallorca)
|}
Sóller (Mallorca)
|}
Son Servera (Mallorca)
|}
V
Valldemossa (Valldemossa) (Mallorca)
|}
Es Castell (Es Castell) (Menorca)
|}
Vilafranca de Bonany (Vilafranca de Bonany) (Mallorca)
|}
Tham khảo
Datos obtenidos de la página de patrimonio del Ministerio de Cultura. Sección "bienes culturales protegidos"-"consulta de bienes inmuebles".
Liên kết ngoài
Danh sách di sản văn hóa Tây Ban Nha
|
3282142
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Orectolobus%20japonicus
|
Orectolobus japonicus
|
Orectolobus japonicus là một loài cá mập thảm trong họ Orectolobidae, được tìm thấy ở vùng nhiệt đới của tây Thái Bình Dương từ Nhật Bản đến bán đảo Triều Tiên đến Việt Nam và Philippines, giữa vĩ tuyến 43 bắc và 16 bắc. Loài này dài đến 1 m.
Chú thích
Tham khảo
Orectolobus
Động vật được mô tả năm 1906
Cá đẻ thai trứng
|
3236448
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Serrognathus%20thoracicus
|
Serrognathus thoracicus
|
Serrognathus thoracicus là một loài bọ cánh cứng trong họ Lucanidae. Loài này được mô tả khoa học năm 1902.
Tham khảo
Serrognathus
Động vật được mô tả năm 1902
|
2938359
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ochropleura%20unimacula
|
Ochropleura unimacula
|
Ochropleura unimacula là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ochropleura
|
2609315
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Epirrhoe%20continuata
|
Epirrhoe continuata
|
Epirrhoe continuata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Epirrhoe
|
15157777
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dominic%20Raab
|
Dominic Raab
|
Dominic Rennie Raab (sinh ngày 25 tháng 2 năm 1974) là Phó Thủ tướng Vương Quốc Anh, Quốc vụ khanh phụ trách Tư Pháp và Đại Pháp quan của Đại Anh. Trước đó, ông từng giữ chức Đệ nhất Quốc vụ khanh và Quốc vụ khanh phụ trách Các vấn đề đối ngoại và khối thịnh vượng chung (Ngoại trưởng Anh).
Trước đây ông là thành viên của Nội các dưới tư cách Bộ trưởng Ngoại giao Liên minh Châu Âu. Raab là thành viên của Đảng Bảo thủ Anh. Kể từ năm 2010, ông là Hạ Nghị sĩ (MP) cho Esher và Walton.
Raab trở thành Phó Quốc vụ Khanh Nghị viện tại Bộ Tư pháp vào ngày 12 tháng 5 năm 2015, nhưng không còn giữ chức vụ này khi Theresa May bổ nhiệm chính phủ đầu tiên của mình một năm sau. Sau Tổng tuyển cử 2017, ông được bổ nhiệm Phó Quốc vụ khanh Nghị viện cho Tòa án và Tư pháp. Khi chính phủ cải tổ lại vào tháng 1 năm 2018, Raab chuyển đến Bộ Nhà ở, Cộng đồng và Chính quyền Địa phương.
Vào tháng 7 năm 2018, May đã thăng chức Raab lên vai trò Nội các đầu tiên của mình, trở thành Bộ trưởng Ngoại giao Liên minh châu Âu sau khi David Davis từ chức. Raab đã từ chức Thư ký Brexit vào ngày 15 tháng 11 năm 2018 ngoài nguyên tắc, phản đối cách diễn đạt Thỏa thuận rút tiền dự thảo khác với những gì ông đã tham gia vào đàm phán với EU.
Raab đã được bổ nhiệm Bộ trưởng Ngoại giao và Ngoại giao và Ngoại trưởng thứ nhất bởi Thủ tướng Boris Johnson vào ngày 24 tháng 7 năm 2019. Điều này diễn ra sau sự từ chức của Jeremy Hunt rời khỏi Chính phủ HM sau khi thua trong lá phiếu cuối cùng của cuộc bầu cử lãnh đạo Bầu cử lãnh đạo Đảng Bảo thủ cho Johnson.
Thời trẻ và học vấn
Sinh năm Buckinghamshire năm 1974, Raab is the son of Peter and Jean Raab. Cha của ông, người Do Thái, đến Anh từ Tiệp Khắc năm 1938 khi sáu tuổi, theo Thỏa thuận Munich. Raab lớn lên ở Gerrards Cross, Buckinghamshire. Anh được nuôi dưỡng theo đức tin của người mẹ Anh, trong Nhà thờ Anh.
Raab đã học Trường trung học Dr Challon, Amersham trước khi đến Lady Margaret Hall, Oxford để đọc luật và tốt nghiệp cử nhân. Sau đó, anh theo đuổi các nghiên cứu sâu hơn tại Jesus College, Cambridge nơi anh đã giành được giải thưởng Clive Parry cho Luật quốc tế và lấy bằng thạc sĩ (LLM).
Tham khảo
|
2623856
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hypomecis%20costaria
|
Hypomecis costaria
|
Hypomecis costaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hypomecis
|
2789176
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Campodorus%20suspicax
|
Campodorus suspicax
|
Campodorus suspicax là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Campodorus
|
2939656
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thyrestra%20hyalophora
|
Thyrestra hyalophora
|
Thyrestra hyalophora là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Thyrestra
|
2905501
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acontia%20flavipennis
|
Acontia flavipennis
|
Acontia flavipennis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Acontia
|
3214396
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90o%C3%A0n%20Huy%C3%AAn
|
Đoàn Huyên
|
Đoàn Huyên (1925-2002) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Giáo sư, nguyên Cục trưởng Cục Khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng; Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân.
Thân thế
Ông quê ở xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Trước Cách mạng tháng 8, ông theo học ở Trường thanh niên tiền tuyến ở Huế.
Trong Cách mạng tháng 8 năm 1945, ông tham gia giành chính quyền tại Huế, là Trung đội trưởng Giải phóng quân (19 tháng 8 năm 1945). Sau khi thực dân Pháp núp bóng quân Anh trở lại Nam Bộ, ông tham gia Nam Tiến trên cương vị Trung đội trưởng.
Tháng 11 năm 1945, Đại đội phó rồi Đại đội trưởng Giải phóng quân trực thuộc Chi đội 3 Nam Long chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ. Từng bị bắt ở Biên Hòa, 2 lần địch đưa ra dọa hành quyết ông nhất quyết không khai và trốn thoát về với đơn vị.
Từ tháng 1 năm 1946, ông lần lượt là Đại đội trưởng, Tiểu đoàn phó rồi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Cao Thắng, Trung đoàn 80 thuộc khu 6 chiến đấu ở mặt trận Phú Yên rồi tham gia hoạt động trong vùng định hậu ở phía Bắc Khánh Hòa.
Tháng 6 năm 1948, Trung đoàn phó Trung đoàn 80 Khu 6 rồi Liên Trung đoàn phó Liên trung đoàn 80-83 Liên khu 5.
Tháng 6 năm 1949, ông cùng đơn vị sang hoạt động ở Hạ Lào trong Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ, là Khu phó Hạ Lào. Ông là phái viện Quân sự cạnh đại diện Chính phủ Kháng chiến Lào tại Khu Hạ Lào, Ủy viên Thường vụ Ban cán sự Hạ Lào trực thuộc Liên khu ủy Liên khu 5.
Sau Hiệp định Genève, tháng 10 năm 1954 ông tập kết ra Bắc và được cử làm Trưởng phòng Tác chiến Bộ Tư lệnh Pháo binh (tháng 11 năm 1954).
Tháng 3 năm 1955, là Trưởng phòng Huấn luyện Bộ Tư lệnh 350.
Tháng 8 năm 1960, ông được cử đi học tại học viện Quân sự Pháo binh Lê-nin-grát của Liên Xô.
Về nước ông được cử làm Chủ nhiệm Khoa Pháo binh kiêm Phó trưởng Hệ Quân sự Học viện Quân chính (tháng 10 năm 1964).
Bước vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông được cử vào Nam là Trưởng đoàn nghiên cứu đánh Mỹ ở chiến trường khu 5 (tháng 12 năm 1965).
Tháng 1 năm 1967, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 3 năm 1967, Tư lệnh Binh chủng Tên lửa Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 1 năm 1968, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân.
Tháng 12 năm 1968, ông được cử làm chuyên viên cho phái đoàn quân sự Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Pa-ri về Việt Nam.
Tháng 1 năm 1970, ông tham gia chiến dịch phản công Đường 9 Nam Lào trên cương vị Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh 70.
Tháng 2 năm 1971, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 7 năm 1972, tiếp tục tham gia Hội nghị Pa-ri là Tổ trưởng Tổ quân sự.
Tháng 3 năm 1973, ông là Phó Trưởng đoàn Ban liên hiệp Quân sự 4 bên ở miền Nam.
Tháng 2 năm 1975, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 6 năm 1977, chuyển sang làm công tác tổng kết ở Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 7 năm 1978, là Trợ lý Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao.
Tháng 4 năm 1980, là Phân viện trưởng Phân viện Chiến lược Học viện Quân sự cấp cao
Tháng 1 năm 1981, ông là Cục trưởng Cục Khoa học Quân sự trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Bộ Quốc phòng. Ủy viên ban chỉ đạo biên soạn Tư điền Bách khoa Quân sự Bộ Tổng Tham mưu (từ tháng 10 năm 1989)
Ngày 1 tháng 1 năm 1996, ông được Nhà nước cho nghỉ hưu
Ông mất năm 2002 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Thiếu tướng (02.1983).
Khen thưởng
Huân chương Quân công (hạng Nhất, hạng Ba)
Huân chương Chiến công hạng Nhất
Huân chương Chiến thắng (chống Pháp) hạng Nhất
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng Nhất, Nhì, Ba)
Huân chương Tự do hạng Nhất của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Huy chương Quân kỳ quyết thắng
Huy chương ‘’Vì sự nghiệp Khoa học và Công nghệ’’
Huy hiệu 40 và 50 năm tuổi Đảng.
Chú thích
Người Quảng Nam
Giáo sư Việt Nam
Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam người Quảng Nam
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 1980
|
16674239
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudanthias%20conspicuus
|
Pseudanthias conspicuus
|
Pseudanthias conspicuus là một loài cá biển thuộc chi Pseudanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1973.
Phân bố và môi trường sống
P. conspicuus có phạm vi phân bố ở Tây Bắc Ấn Độ Dương. Loài này xuất hiện tại vùng biển phía bắc Somalia, bờ đông - nam Oman, Pakistan và phía tây Ấn Độ. Chúng được tìm thấy xung quanh các rạn san hô ở vùng nước khá sâu, độ sâu khoảng 93 m.
Mô tả
P. conspicuus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 8 cm. Màu sắc tiêu bản của cá đực: Đầu và thân trắng nhạt, với hai dải sẫm màu kéo dài từ đầu đến vây đuôi. Dải trên từ gáy dài đến cuối vây lưng, nối với dải dưới bởi một đường vòng cung trên vây đuôi; dải dưới dài từ mắt đến gốc vây đuôi dưới.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây mềm ở vây lưng: 15 - 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây mềm ở vây hậu môn: 6 - 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây mềm ở vây bụng: 5; Số tia vây mềm ở vây ngực: 17 - 19.
Tham khảo
Phillip C. Heemstra & K. V. Akhilesh (2012), A review of the anthiine fish genus Pseudanthias (Perciformes: Serranidae) of the western Indian Ocean, with description of a new species and a key to the species, aqua, International Journal of Ichthyology 18 (3): 121 - 164.
Chú thích
Pseudanthias
Động vật được mô tả năm 1973
|
15275716
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20T%C3%B9ng%20S%C6%A1n
|
Ga Tùng Sơn
|
Tùng Sơn () là ga đường sắt và tàu điện ngầm ở Đài Bắc, Đài Loan được phục vụ bởi Cục quản lý Đường sắt Đài Loan và Tàu điện ngầm Đài Bắc.
Tham khảo
Ga đường sắt thuộc cục đường sắt Đài Loan
Railway stations in Taipei
Nhà ga mở cửa vào 1891
Ga tuyến Tùng Sơn-Tân Điếm
|
2843417
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onthophagus%20cyaneoniger
|
Onthophagus cyaneoniger
|
Onthophagus cyaneoniger là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
C
|
13711828
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Azmahar%20Ariano
|
Azmahar Ariano
|
Azmahar Aníbal Ariano Navarro (sinh ngày 14 tháng 1 năm 1991 ở Panama City, Panama) là một cầu thủ bóng đá, hiện tại thi đấu ở vị trí hậu vệ cho Marathón từ Honduras.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Also hay Mello, Ariano thi đấu cho câu lạc bộ địa phương Tauro, Sporting San Miguelito và Chepo trước khi gia nhập đội bóng Hungary Honvéd vào tháng 3 năm 2014. Vào tháng 1 năm 2012 anh được cho là mượn đến câu lạc bộ Colombia Deportivo Tulúa, nhưng không bao giờ xảy ra.
Anh trở lại Chepo tại Clausura 2015.
Sự nghiệp quốc tế
Vào tháng 5 năm 2018 anh có tên trong đội hình sơ loại 35 người của Panama tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 ở Nga.
Thống kê câu lạc bộ
Cập nhật đến các trận đấu đã diễn ra tính đến ngày 11 tháng 11 năm 2014.
Đời sống cá nhân
Ariano kết hôn vào tháng 7 năm 2012.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1991
Nhân vật còn sống
Nhân vật thể thao từ Panama City
Cầu thủ bóng đá Panama
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Panama
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Tauro F.C.
Cầu thủ bóng đá Chorrillo F.C.
Cầu thủ bóng đá Sporting San Miguelito
Cầu thủ bóng đá Chepo FC
Cầu thủ bóng đá Budapest Honvéd FC
Cầu thủ bóng đá Nemzeti Bajnokság I
Cầu thủ Cúp bóng đá Trung Mỹ 2017
|
14692329
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20Gi%E1%BA%A3i%20th%C6%B0%E1%BB%9Fng%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20v%E1%BB%81%20Khoa%20h%E1%BB%8Dc%20C%C3%B4ng%20ngh%E1%BB%87
|
Danh sách Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ
|
Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả có một hoặc nhiều công trình nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, có tác dụng và ảnh hưởng lớn trong xã hội. Về mức độ ảnh hưởng, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ xếp sau Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học Công nghệ.
Đến nay, giải thưởng đã có 5 đợt trao thưởng (5 năm 1 lần): 2000, 2005, 2010, 2016 và 2022.
Đợt I (2000)
Khoa học Tự nhiên
Khoa học xã hội và nhân văn
GS.NGND Hà Minh Đức
GS Hoàng Châu Ký
GS.TS Trần Đình Hượu
NGND Nguyễn Lân
GS.TSKH.NGND Phương Lựu
GS.NGND Nguyễn Đăng Mạnh
GS.TS.NGND Trần Đình Sử
GS.NGND Đoàn Trọng Truyến
Khoa học Kỹ thuật
Khoa học Nông nghiệp
Khoa học Y dược
GS.TS.Thầy thuốc Nhân dân.Thiếu tướng Bùi Đại
GS.Thầy thuốc Nhân dân Từ Giấy
GS.TS.Thầy thuốc Nhân dân.Thiếu tướng Phạm Gia Triệu: Bảo đảm quân y Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến tranh cứu nước và giữ nước
Đợt II (2005)
Khoa học Tự nhiên
GS.TSKH.NGND Nguyễn Châu, PGS.TS Bạch Thành Công, PGS.TS Đặng Lê Minh: Một số thành tựu tiêu biểu trong nghiên cứu vật liệu từ tính: ferit, perovskit, vật liệu từ vô định hình và vật liệu từ có cấu trúc nano.
GS.TS Phan Hồng Khôi, GS.TSKH Vũ Xuân Quang, GS.TSKH Nguyễn Xuân Phúc, PGS.TS Đỗ Xuân Thành, PGS.TS Trần Kim Anh, TS Phạm Hồng Dương, PGS.TS Nguyễn Quang Liêm, PGS.TS Lê Thị Trọng Tuyên, PGS.TS Lê Văn Hồng, TS Đào Nguyên Hoài Nam: Nghiên cứu cơ bản tính chất quang - điện - từ của một số vật liệu điện tử tiên tiến (vật liệu bán dẫn Si nano, ZnS, ZnSe; vật liệu từ siêu dẫn cấu trúc kiểu perovskit).
Khoa học xã hội và nhân văn
GS.TS Hoàng Thị Châu với công trình Tiếng Việt trên các miền đất nước (1989).
GS.TS Phan Hữu Dật với công trình Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam (1998).
GS Phan Đại Doãn với công trình Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh tế - văn hoá - xã hội (2001).
GS Phong Lê với Cụm công trình về Văn học hiện đại Việt Nam, gồm: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (2001), Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại (2001).
GS Lê Khả Kế với công trình Từ điển Anh - Việt (1997).
GS.TSKH Phan Đăng Nhật với Cụm công trình về Sử thi Tây Nguyên: Sử thi Ê Đê (1991), Vùng sử thi Tây Nguyên (1999).
PGS Nguyễn Duy Hinh với hai công trình nghiên cứu về Phật giáo và thành hoàng: Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam (1996) và Tư tưởng Phật giáo Việt Nam (1999).
GS Bùi Văn Nguyên với Cụm công trình về Nguyễn Trãi, gồm: Nguyễn Trãi và Bản hùng ca đại cáo (1999), Văn chương Nguyễn Trãi rực ánh sao Khuê (2000).
Nhiều tác giả với Chủ biên GS Hoàng Phê với công trình Từ điển tiếng Việt (2000).
GS Hoàng Phê với Cụm công trình về Những vấn đề ngữ nghĩa và từ điển học tiếng Việt, gồm: Logic - ngôn ngữ học (1989), Từ điển chính tả (1995), Từ điển vần (1996), Chính tả tiếng Việt (1999).
PGS Bùi Duy Tân với công trình Khảo và luận một số thể loại, tác gia, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam: Tập 1 (1999), Tập 2 (2001).
PGS Nguyễn Kim Thản với công trình Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt: Tập 1 (1963), Tập 2 (1964).
PGS.TS Trần Thị Băng Thanh với Cụm công trình về Văn học trung đại Việt Nam, gồm: Những nghĩ suy từ văn học trung đại (1999), Ngô Thì Sĩ - những chặng đường thơ văn (1992).
GS Phùng Văn Tửu với Cụm công trình về Tiểu thuyết Pháp nửa sau thế kỷ XX, gồm: Lui Aragông (1987), Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi đổi mới (1990), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI (2001).
Khoa học Kỹ thuật
GS.TS Ngô Kiều Nhi, KS Nguyễn Dương Thụy, KS Trần Minh Cường, KS Trần Minh Tuấn, KS Nguyễn Phương Nam: Nghiên cứu thiết kế chế tạo một số thiết bị đo lường và điều khiển phục vụ sản xuất.
GS.TS Nguyễn Hữu Niếu, TS Nguyễn Đắc Thành, PGS.TS Phan Minh Tân, KS Đinh Ngọc Thu, TS Tôn Thất Minh Tân: Nghiên cứu tổng hợp và triển khai công nghệ chế tạo, ứng dụng một số vật liệu và tổ hợp vật liệu polymer và composite.
GS.TS Nguyễn Xuân Anh: Nghiên cứu thiết kế, cải tiến một số vũ khí nhẹ phục vụ kịp thời yêu cầu chiến đấu.
GS.TSKH Nguyễn Đức Hùng, KS Lê Quang Tuấn, ThS Ngô Hoàng Giang, TS Nguyễn Văn Quỳnh: Phát triển và đổi mới công nghệ mạ, nhúng kẽm bảo vệ, chống ăn mòn các kết cấu thép trong môi trường khí quyển Việt Nam.
Nhiều tác giả: Các giải pháp khoa học công nghệ bảo đảm môi trường và xây dựng công trình bảo vệ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1969 - 1975.
KS Phạm Gia Nghi, KS Nguyễn Bá Bách, ông Vũ Văn Đôn, KS Trần Văn Hải: Nghiên cứu thiết kế, chế tạo đèn đặc dụng, xe đặc dụng dùng trong thời chiến.
KS Trần Huy Vinh, KS Phan Huy Huân, KS Đặng Hoàng Huy, KS Trần Trọng Diên, KS Nguyễn Văn Thiện, KS Đỗ Thạch Cương: Ứng dụng công nghệ sản xuất cấu kiện bê tông cốt thép dự ứng lực tiền chế bằng phương pháp kéo trước cho các công trình xây dựng ở Việt Nam.
KS Trần Lê Dũng, TSKH Lê Xuân Hải, ThS Trần Thái Thanh, KS Nguyễn Xuân Tín, KTV Trịnh Sĩ Nhất: Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thế hệ lò nung con thoi tiết kiệm năng lượng xây lắp bằng bông gốm chịu lửa.
Nhà máy Z113, Z115, Z121, Z131 thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Viện Thuốc phóng - Thuốc nổ thuộc Trung tâm KHKT và CNQS: Nghiên cứu công nghệ chế tạo vật liệu nổ.
Nhiều tác giả: Nghiên cứu khoa học công nghệ và ứng dụng triển khai sản xuất thuốc tập hợp tuyển quặng Apatit loại III Lào Cai.
PGS-TS Lưu Minh Đại, GS.TSKH Đặng Vũ Minh, TS Nguyễn Hồng Quyền, TS Lê Văn Huân, PGS.TS Đỗ Kim Chung: Công nghệ vật liệu đất hiếm phục vụ sản xuất, đời sống và bảo vệ môi trường.
Nhiều tác giả: Nghiên cứu chế tạo thuốc hoả thuật chịu ẩm cao cho sản xuất vũ khí và công nghệ đánh giá nhanh chất lượng thuốc phóng bằng Metyl tím.
Nhiều tác giả: Nghiên cứu chế tạo các phương tiện phát khói ngụy trang dùng trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và tác chiến A2.
Khoa học Nông nghiệp
Khoa học Y dược
GS.TS.NGND Phạm Gia Khải
Đợt III (2010)
Khoa học Tự nhiên
GS Lê Bá Thảo
Khoa học xã hội và nhân văn
Khoa học Kỹ thuật
Khoa học Nông nghiệp
Khoa học Y dược
Đợt IV (2016)
Khoa học Tự nhiên
Khoa học xã hội và nhân văn
Khoa học Kỹ thuật
Khoa học Nông nghiệp
Khoa học Y dược
Đợt V (2022)
Khoa học Tự nhiên
Khoa học xã hội và nhân văn
GS Đinh Xuân Lâm với công trình Phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam.
GS.TS Trương Hữu Quýnh với cụm công trình Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI-XVIII, Tập I: Thế kỷ XI-XV; Tập II: Thế kỷ XVI-XVIII.
GS Trần Xuân Trường và 16 đồng tác giả với cụm công trình Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, lý luận bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
PGS.TS Phan Trọng Thưởng với cụm công trình Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp với cụm công trình Thơ trữ tình và văn học Việt Nam hiện đại.
GS.TS. Lê Văn Lân với cụm công trình Thơ Việt Nam hiện đại.
GS.TS Trần Đăng Suyền với cụm công trình Chủ nghĩa hiện thực và cá tính sáng tạo nhà văn.
Khoa học Kỹ thuật
GS.TS Nguyễn Đức Chiến và 10 đồng tác giả với cụm công trình Nghiên cứu chế tạo một số cảm biến khí có độ nhạy cao trên cơ sở vật liệu nano oxit kim loại bán dẫn và tổ hợp nano carbon bằng công nghệ vi điện tử.
KS Phan Tử Giang và 7 đồng tác giả với cụm công trình Nghiên cứu thiết kế cơ sở, chi tiết, công nghệ chế tạo, tích hợp giàn khoan tự nâng 400 ft phù hợp với điều kiện Việt Nam và nghiên cứu phát triển, hoán cải giàn khoan dầu khí di động phục vụ phát triển kinh tế biển, an ninh quốc phòng.
KS Nguyễn Văn Hội và 23 đồng tác giả với công trình Các giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ tối ưu hóa quá trình sản xuất của nhà máy lọc dầu Dung Quất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của BSR.
TS Nguyễn Quỳnh Lâm cùng 24 đồng tác giả với công trình Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thu gom, xử lý và sử dụng khí đồng hành ở các mỏ của Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro và các mỏ lân cận (phần ngoài khơi).
GS.TS Vũ Thị Thu Hà và 14 đồng tác giả với công trình Nghiên cứu chế tạo xúc tác dị thể, vật liệu nano trong lĩnh vực tổng hợp và ứng dụng nhiên liệu sinh học, các sản phẩm thân thiện môi trường, tiết kiệm nhiên liệu.
Khoa học Nông nghiệp
PGS.TS Nguyễn Đình Tùng với Cụm công trình khoa học và công nghệ về các kết quả nghiên cứu đối với các hệ thống dây chuyền máy móc, thiết bị đồng bộ ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, sử dụng nguồn năng lượng tái tạo từ phế phụ phẩm nông nghiệp góp phần xử lý môi trường và phát triển nguồn năng lượng xanh, sạch, bền vững.
TS Phạm Công Thiếu và 14 đồng tác giả với cụm công trình Bảo tồn và khai thác nguồn gene vật nuôi bản địa Việt Nam của Viện Chăn nuôi giai đoạn 2000-2020.
TS Nguyễn Đức Tân và 2 đồng tác giả với công trình Nghiên cứu, sản xuất vaccine nhược độc đông khô phòng bệnh tụ huyết trùng và đóng dấu ở lợn.
TS Phùng Đức Tiến và 19 đồng tác giả với cụm công trình Chọn tạo và phát triển các giống gà lông màu hướng thịt và hướng trứng giai đoạn 2006-2020.
Khoa học Y dược
PGS.TS Nguyễn Văn Hiếu cùng 6 đồng tác giả với cụm công trình Nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sàng lọc, chẩn đoán và điều trị ung thư đại trực tràng.
Tham khảo
Giải thưởng Nhà nước
|
19686036
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adelaide%20International%201%202022
|
Adelaide International 1 2022
|
Adelaide International 1 2022 là một giải quần vợt trong ATP Tour 2022 và WTA Tour 2022. Giải đấu là một phần của ATP Tour 250 và WTA 500 thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời ở Adelaide, Nam Úc, Úc. Đây là lần thứ 3 (nữ) và lần thứ 2 (nam) giải đấu được tổ chức. Giải đấu diễn ra tại Memorial Drive Tennis Centre từ ngày 3–9 tháng 1 năm 2022.
Ashleigh Barty là nhà vô địch nội dung đơn nữ, Gaël Monfils là nhà vô địch nội dung đơn nam. Iga Świątek là đương kim vô địch nội dung đơn nữ và Andrey Rublev là đương kim vô địch nội dung đơn nam. Cả hai đều không bảo vệ được danh hiệu sau khi Świątek thua ơ vòng bán kết trước Barty, và Rublev không tham dự. Với chức vô địch nội dung đôi nữ, Barty có lần thứ ba giành được cả danh hiệu đơn và đôi trong cùng một giải.
Điểm và tiền thưởng
Phân phối điểm
*mỗi đội
Tiền thưởng
*mỗi đội
Nội dung đơn ATP
Hạt giống
1 Bảng xếp hạng vào ngày 27 tháng 12 năm 2021.
Vận động viên khác
Đặc cách:
Alex Bolt
Thanasi Kokkinakis
Aleksandar Vukic
Vượt qua vòng loại:
Francisco Cerúndolo
Taro Daniel
Egor Gerasimov
Holger Rune
Rút lui
Trước giải đấu
Ugo Humbert → thay thế bởi Juan Manuel Cerúndolo
Miomir Kecmanović → thay thế bởi Mikael Ymer
Sebastian Korda → thay thế bởi Thiago Monteiro
Arthur Rinderknech → thay thế bởi Corentin Moutet
Nội dung đôi ATP
Hạt giống
1 Bảng xếp hạng vào ngày 27 tháng 12 năm 2021.
Vận động viên khác
Đặc cách:
Alex Bolt / Thanasi Kokkinakis
Aleksandar Vukic / Edward Winter
Rút lui
Trước giải đấu
Boris Arias / Federico Zeballos → thay thế bởi Daniel Altmaier / Juan Pablo Varillas
Andrea Arnaboldi / Alessandro Giannessi → thay thế bởi Gianluca Mager / Lorenzo Musetti
Rohan Bopanna / Édouard Roger-Vasselin → thay thế bởi Rohan Bopanna / Ramkumar Ramanathan
Benjamin Bonzi / Arthur Rinderknech → thay thế bởi Benjamin Bonzi / Hugo Nys
Evan King / Alex Lawson → thay thế bởi Alex Lawson / Jiří Veselý
Frederik Nielsen / Mikael Ymer → thay thế bởi Frederik Nielsen / Treat Huey
Nội dung đơn WTA
Hạt giống
1 Bảng xếp hạng vào ngày 27 tháng 12 năm 2021.
Vận động viên khác
Đặc cách:
Priscilla Hon
Storm Sanders
Vượt qua vòng loại:
Marie Bouzková
Lucia Bronzetti
Ulrikke Eikeri
Maddison Inglis
Despina Papamichail
Daria Saville
Rút lui
Trước giải đấu
Belinda Bencic → thay thế bởi Kaja Juvan
Ons Jabeur → thay thế bởi Shelby Rogers
Barbora Krejčíková → thay thế bởi Ajla Tomljanović
Garbiñe Muguruza → thay thế bởi Kristína Kučová
Jeļena Ostapenko → thay thế bởi Misaki Doi
Karolína Plíšková → thay thế bởi Heather Watson
Nội dung đôi WTA
Hạt giống
1 Bảng xếp hạng vào ngày 27 tháng 12 năm 2021.
Vận động viên khác
Đặc cách:
Priscilla Hon / Charlotte Kempenaers-Pocz
Rút lui
Trước giải đấu
Alexa Guarachi / Nicole Melichar-Martinez → thay thế bởi Sofia Kenin / Nicole Melichar-Martinez
Lyudmyla Kichenok / Jeļena Ostapenko → thay thế bởi Kateryna Bondarenko / Lyudmyla Kichenok
Desirae Krawczyk / Bethanie Mattek-Sands → thay thế bởi Ashleigh Barty / Storm Sanders
Nhà vô địch
Đơn nam
Gaël Monfils đánh bại Karen Khachanov, 6–4, 6–4
Đơn nữ
Ashleigh Barty đánh bại Elena Rybakina 6–3, 6–2
Đôi nam
Rohan Bopanna / Ramkumar Ramanathan đánh bại Ivan Dodig / Marcelo Melo 7–6(8–6), 6–1
Đôi nữ
Ashleigh Barty / Storm Sanders đánh bại Darija Jurak Schreiber / Andreja Klepač 6–1, 6–4
Xem thêm
South Australian Championships
Australian Hard Court Championships
Australian Open Series
Tham khảo
Liên kết ngoài
Danh sách tham dự
Thông tin giải đấu trên WTA
WTA Tour 2022
ATP Tour 2022
Adelaide International
Quần vợt Úc năm 2022
|
2909940
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amphipyra%20yama
|
Amphipyra yama
|
Amphipyra yama là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Amphipyra
|
13675587
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bernd%20Leno
|
Bernd Leno
|
Bernd Leno (sinh ngày 4 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức chơi ở vị trí thủ môn, hiện đang chơi cho câu lạc bộ Fulham tại Premier League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bernd Leno profile at the Arsenal F.C. website
Sinh năm 1992
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Đức
Cầu thủ bóng đá Bayer Leverkusen
Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C.
Thủ môn bóng đá
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đức
Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2017
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá VfB Stuttgart
|
15093907
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C3%A0o%20th%E1%BA%BF%20Coulomb
|
Rào thế Coulomb
|
Rào thế Coulomb, được đặt tên theo định luật Coulomb, theo tên của nhà vật lý Charles-Augustin de Coulomb, là hàng rào năng lượng do tương tác tĩnh điện mà hai hạt nhân cần phải vượt qua nó để chúng có thể đủ gần để bắt đầu quá trình phản ứng hạt nhân.
Năng lượng của rào thế
Hàng rào năng lượng này được cung cấp bởi năng lượng tĩnh điện :
Trong đó:
k là hằng số Coulomb = 8,9876×109 N m² C-2;
ε0 là độ thấm của không gian trống;
q1, q2 là điện tích của các hạt tương tác;
r là bán kính tương tác.
Giá trị dương của U là do lực đẩy, do đó các hạt tương tác ở mức năng lượng cao hơn khi chúng tiến đến gần hơn. Một năng lượng tiềm năng âm chỉ ra một trạng thái ràng buộc (do một lực hấp dẫn).
Rào thế Coulomb tăng theo số nguyên tử (tức là số proton) của hạt nhân va chạm:
Trong đó e là điện tích cơ bản, 1.602 176 53 × 10 −19 C và Zi là các số nguyên tử tương ứng.
Để vượt qua rào thế này, các hạt nhân phải va chạm với vận tốc cao, do đó động năng của chúng đẩy chúng đến đủ gần để một tương tác mạnh diễn ra và liên kết chúng lại với nhau.
Theo thuyết động học của chất khí, nhiệt độ của chất khí chỉ là thước đo động năng trung bình của các hạt trong chất khí đó. Đối với các khí lý tưởng cổ điển, sự phân phối vận tốc của các hạt khí được đưa ra bởi Maxwell-Boltzmann. Từ phân bố này, có thể xác định được một phần của các hạt có vận tốc đủ cao để vượt qua rào thế Coulomb.
Trong thực tế, nhiệt độ cần thiết để vượt qua rào thế Coulomb hóa ra nhỏ hơn dự kiến do đường hầm cơ học lượng tử, như được thiết lập bởi Gamow. Việc xem xét sự xâm nhập của rào thế thông qua đường hầm và phân phối tốc độ dẫn đến một loạt các điều kiện hạn chế nơi sự hợp nhất có thể diễn ra, được gọi là cửa sổ Gamow.
Sự vắng mặt của rào thế Coulomb đã tạo điều kiện phát hiện ra neutron của James Chadwick vào năm 1932.
Tham khảo
Phản ứng tổng hợp hạt nhân
Vật lý hạt nhân
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.