id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
381
title
stringlengths
1
211
text
stringlengths
11
513k
14777145
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1%20ti%E1%BA%BFt%20s%E1%BB%AFa
Sự tiết sữa
Sự tiết sữa mô tả việc tiết sữa từ các tuyến vú và khoảng thời gian người mẹ tiết ra sữa để nuôi dưỡng trẻ nhỏ. Quá trình này có thể xảy ra với tất cả các loài động vật có vú giống cái sau khi mang thai, mặc dù nó có từ trước động vật có vú. Ở người, quá trình nuôi con bằng sữa còn được gọi là cho con bú. Trẻ sơ sinh thường sản xuất một ít sữa từ mô vú của chính mình, được gọi thông tục là sữa của bà phù thủy. Trong hầu hết các loài, sữa sẽ chảy ra từ núm vú của mẹ; tuy nhiên, các loài động vật bộ đơn huyệt, động vật có vú đẻ trứng, thiếu núm vú, chúng sẽ phóng ra sữa qua các ống dẫn trong bụng. Duy chỉ có một loài động vật có vú, dơi ăn trái cây Dayak đến từ Đông Nam Á, sản xuất sữa là một chức năng bình thường của con đực. Galactopoiesis duy trì việc sản xuất sữa. Giai đoạn này đòi hỏi cần có prolactin. Oxytocin rất quan trọng đối với phản xạ xuống sữa để đáp lại việc cho bú. Galactorrhea là sản xuất sữa không có liên quan đến nuôi con bằng sữa. Nó có thể xảy ra ở con đực và con cái của nhiều loài động vật có vú do mất cân bằng nội tiết tố như tăng prolactinaemia. Chức năng Chức năng hàng đầu của việc tiết ra sữa là cung cấp chất dinh dưỡng và bảo vệ miễn dịch cho trẻ sau khi sinh. Ở hầu hết các loài động vật có vú, việc tiết sữa tạo ra một thời kỳ vô sinh (ở người, mất kinh do tiết sữa), nhằm tạo ra một cơ chế khoảng cách sinh tối ưu cho sự sống còn của con cái. Tham khảo Liên kết ngoài How mammals lost their egg yolks—Did mammals develop nutritional milk before or after they abandoned yolky eggs? (New Scientist, ngày 18 tháng 3 năm 2008) Đặc trưng giới tính thứ cấp Sữa Sinh sản động vật có vú Tuyến tiết Sinh lý học động vật
2787065
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agrypon%20operophterae
Agrypon operophterae
Agrypon operophterae là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Agrypon
3514868
https://vi.wikipedia.org/wiki/GNOME%20Shell
GNOME Shell
GNOME Shell là lớp vỏ đồ họa của GNOME bắt đầu từ phiên bản 3, được phát hành vào ngày 6/4/ 2011. Nó cung cấp các tính năng cơ bản như khởi động ứng dụng, chuyển đổi giữa các của sổ và cũng như là một widget engine. GNOME Shell thay thế GNOME Panel và một vài tính năng phụ̣ trợ trong GNOME 2. GNOME Shell được viết bằng C và JavaScript như một plugin cho Mutter. Thiết kế Giống như các lớp vỏ đồ họa (graphical front-end/graphical shell/UX/UI) của môi trường desktop GNOME, nó được thiết kế và hướng dẫn bởi GNOME UX Design Team. Thành phần thiết kế GNOME Shell bao gồm các yếu tố đồ họa và tính năng sau: Top bar System status Activities Overview Dash bộ chọn của sổ Bộ chọn ứng dụng Tìm kiếm Tray thông báo và lịch Bộ chuyển đổi ứng dụng Tray chỉ số Kiến trúc phần mềm GNOME Shell được tích hợp chặt chẽ với Mutter, một tổ hợp quản lý của sổ và trình biên soạn Wayland. Nó dựa trên Clutter để cung cấp hiệu ứng hình ảnh và khả năng tăng tốc phần cứng. Theo bảo trì viên GNOME Shell Owen Taylor, Nó được thiết lập như là một plugin của Mutter phần lớn được viết bằng JavaScript và dùng GUI widgets cung cấp bởi GTK+ 3. Tính năng Những thay đổi về giao diện người dùng (UI) bao gồm, nhưng không giới hạn: Clutter và Mutter được hỗ trợ Cảm ứng đa điểm. Hỗ trợ HiDPI cho màn hình. Một Activities overview mới, bao gồm: Một dock (còn gọi là "Dash") để chuyển đổi nhanh và khởi chạy ứng dụng Một bộ chọn của sổ, tương tự như  Mission Control của Mac OS X, cũng kết hợp quản lý/chuyển đổi workspace Một bộ chọn ứng dụng Tìm kiếm Của sổ "Snapping"  để  kích thước của sổ ứng dụng chiếm một nữa màn hình hoặc toàn bộ màn hình. Một Nút bấm duy nhất theo mặc định, Close, thay vì ba (cấu hình). Minimization bị loại bỏ do thiếu một panel để thu về, có lợi cho việc quản lý các của sổ workspace. Maximization có thể thục hiện thông qua của sổ snapping, hoặc bằng cách double-clicking vào thanh tiêu đề của cửa sổ. Một chế độ dự phòng (fallback mode) được cung cấp trong các phiên bản 3,0-3,6 cho những người không có khả năng tăng tốc phần cứng rong đó hỗ trợ các GNOME Panel. Mô hình này cũng có thể được bật thông qua menu System Settings. GNOME 3.8 đã loại bỏ fallback mode và thay thế nó bằng một tiện ích mở rộng của GNOME Shell Cung cấp một cái nhìn và cảm giác truyền thống hơn. Khả năng mở rộng Các chức năng của GNOME Shell có thể được thay đổi với plugin, có thể được viết bằng JavaScript. Người dùng có thể tìm thấy và cài đặt các tiện ích mở rộng bằng cách sử dụng website GNOME extensions. Một số trong những tiện ích được lưu trữ trong  kho Git của GNOME, mặc dù chúng không phải chính thức. Thư viện Adoption Bản phân phối Fedora dùng GNOME Shell từ phiên bản 15. Trước kia Ubuntu không dùng GNOME Shell làm mặc định, nhưng người dùng có thể cài đặt từ kho ứng dụng của Ubuntu từ phiên bản 11.10. Ngoài ra, một bản phát hành flavor không chính thức của Ubuntu có tên gọi Ubuntu GNOME Remix đồng thời với Ubuntu 12.10. Nó trở thành flavor chính thức của bản phát hành Ubuntu 13.04 và được đổi tên thành Ubuntu GNOME. Phiên bản GNOME của openSUSE 12.1 dùng GNOME Shell làm mặc định. Năm 2011, Arch Linux ngừng hỗ trợ GNOME 2 nhưn một sự thiên vị GNOME 3 trong kho ứng dụng của họ. Mageia 2 và mới hơn bao gồm GNOME Shell. Debian Jessie có sẵn GNOME 3.14. Các phiên bản gần đây của GNOME Shell cũng có sẵn trong Debian Testing và Sid (không ổn định). Sabayon Linux dùng phiên bản mới nhất của GNOME Shell. Tiếp nhận GNOME Shell đã nhận được nhiều phản ứng trái chiều: Nó bị chỉ trích vì nhiều lý do,chủ yếu liên quan đến quyết định thiết kế và sự rút gọn các user control trong môi trường. Ví dụ, người dùng trong cộng đồng  phần mềm tự do dấy lên lo ngại rằng kế hoạch tích hợp sâu với Mutter sẽ có nghĩa rằng người dùng GNOME Shell không thể chuyển đổi sang trình quản lý của sổ khác mà không gây gây ra lỗi. Đặc biệt, người dũng có thể không thể sử dụng được Compiz với GNOME Shell trong khi vẫn giữ quyền truy cập vào cùng loại của các tính năng mà phiên bản cũ của GNOME được phép. Các đánh giá chung đã trở nên tích cực hơn theo thời gian, với các phát hành sắp tới sẽ giải quyết nhiều phiền toái được thông báo bởi người dùng. Lịch sử Concept đầu tiên của GNOME Shell đã được đưa ra tại GNOME’s User Experience Hackfest 2008 ở Boston. Sau những chỉ trích của cộng đồng những người dùng GNOME desktop truyền thống và những cáo buộc về sự trì trệ và thiếu tầm nhìn, kết quả của các cuộc thảo luận dẫn đến việc công bố GNOME 3.0 tháng 4/2009. Từ đó Red Hat động lực chính cho sự phát triển của GNOME Shell. Bản tiền phát hành đầu tiên của GNOME Shell có sẵn vào tháng 8/2009 và trở thành chính thức, nhưng không phải mặc định của GNOME trong phiên bản 2.28 tháng 9/2009. Nó chính thức được phân phối như giao diện người dùng mặc định của GNOME vào ngày 6/4/2011. Xem thêm Unity, Một giao diện đồ họa khác được sử dụng bởi Ubuntu Cinnamon, ban đầu là một giao diện đồ họa của GNOME sau tách ra thành DE độc lập được sử dụng bởi Linux Mint MATE Một môi trường desktop phân nhánh từ Gnome 2 Chú thích Liên kết ngoài Official website GNOME shell extensions website GNOME Giao diện người dùng
19131256
https://vi.wikipedia.org/wiki/Contagion
Contagion
Contagion có thể là: Phim ảnh và truyền hình Contagion (phim 1987) Contagion (phim 2002) Contagion (phim 2011) Contagion" (Star Trek: The Next Generation) Âm nhạc Contagion (album của Arena), 2003 Contagion (album của Oceano), 2010 "Contagion", bài hát của Black Dahlia Murder trong album Unhallowed Khác Contagion (tiểu thuyết), của Robin Cook Batman: Contagion, một câu chuyện trong truyện tranh Coded Arms: Contagion, một trò chơi video năm 2007 Contagion (trò chơi video), một trò chơi video năm 2014
2602792
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cleora%20dacasini
Cleora dacasini
Cleora dacasini là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Tham khảo Cleora
2763709
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phryxe%20maialis
Phryxe maialis
Phryxe maialis là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Phryxe
2906927
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adonisea%20villosa
Adonisea villosa
Adonisea villosa là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Adonisea
15145408
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carolina%20de%20Robertis
Carolina de Robertis
Carolina de Robertis là một tác giả người Mỹ gốc Uruguay và giáo viên dạy viết sáng tạo tại Đại học bang San Francisco. Cô từng là tác giả giành giải thưởng văn học với ba cuốn tiểu thuyết và là biên tập viên của một tuyển tập từng đoạt giải thưởng, Radical Hope (2017), bao gồm các bài tiểu luận của các nhà văn như Junot Diaz và Jane Smiley. Cô cũng nổi tiếng với công việc dịch thuật của mình, thường xuyên dịch các tác phẩm tiếng Tây Ban Nha. Đầu đời và sự nghiệp Carolina de Robertis là con của hai cha mẹ người Uruguay. Cô chuyển suốt thời thơ ấu, được sinh ra ở Anh, sau đó chuyển đến Thụy Sĩ, cho đến khi cuối cùng kết thúc tại Los Angeles, California.   ] Cô nhận bằng Cử nhân Nghệ thuật về văn học Anh từ Đại học California, Los Angeles năm 1996. Cô cũng đã nhận được bằng Thạc sĩ Mỹ thuật về văn bản sáng tạo từ Đại học Mills năm 2007 [ nguồn không đáng tin cậy? de Robertis đã phát hành cuốn sách đầu tiên của mình, The Invisible Mountain, vào năm 2009. Cuốn tiểu thuyết là một cuốn sách bán chạy quốc tế, được dịch ra 17 thứ tiếng, bao gồm tiếng Ý, Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan, Pháp, Do Thái và Trung Quốc. Nó đã giành được cuốn sách hay nhất cho San Francisco Chronicle, O, Tạp chí Oprah và Booklist. Nó cũng là một người vào chung kết cho Giải thưởng Sách California, Giải thưởng Sách Latino quốc tế và Giải thưởng Sách đầu tiên của VCU Cabell. de Robertis làm việc như một cố vấn hiếp dâm và rất tích cực trong cộng đồng LGBTQ + của Vùng Vịnh trong mười năm ở độ tuổi 20. Tham khảo Sinh năm 1975 Nhà văn LGBT Hoa Kỳ Nữ tiểu thuyết gia Mỹ Tiểu thuyết gia Mỹ thế kỷ 21 Nhân vật còn sống
3290558
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C5%8Dri%20no%20ue%20ni%20Tatsu%20y%C5%8D%20ni
Kōri no ue ni Tatsu yō ni
là đĩa đơn thứ sáu của ca sĩ Komatsu Miho được phát hành vào ngày 14 tháng 10 năm 1998. Bài hát được sử dụng làm bài hát kết thúc thứ 6 anime Thám tử lừng danh Conan. Đĩa đơn này đứng vị trí số 5 14 tuần với số đĩa bán ra hơn 160,000 bản Chú thích Liên kết ngoài Nghe "Kōri no ue ni Tatsu yō ni" - YouTube Đĩa đơn năm 1998 Bài hát năm 1998 Bài hát anime Bài hát tiếng Nhật
14939405
https://vi.wikipedia.org/wiki/Robert%20Hepple
Robert Hepple
Robert Hepple (18 tháng 1 năm 1898 – 1970) là một cầu thủ bóng đá người Anh từng thi đấu ở vị trí tiền vệ chạy cánh. Sự nghiệp Sinh ra ở Mickley, Northumberland, Hepple ký hợp đồng với Bradford City vào tháng 5 năm 1920 sau khi chơi bóng ở các nơi nhỏ, và rời câu lạc bộ vào tháng 6 năm 1921 để đầu quân cho Reading. Trong thời gian với Bradford City ông có 3 lần ra sân ở Football League. Nguồn Tham khảo Sinh năm 1898 Mất năm 1970 Ngày mất thiếu Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ bóng đá Bradford City A.F.C. Cầu thủ bóng đá Reading F.C. Cầu thủ bóng đá English Football League
2720614
https://vi.wikipedia.org/wiki/Titanio%20originalis
Titanio originalis
Titanio originalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Động vật được mô tả năm 1860 Titanio
19787443
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kewa
Kewa
Kewa là một chi thực vật có hoa, bao gồm các loài có thân mọng nước, có nguồn gốc từ miền đông và miền nam châu Phi, bao gồm Saint Helena và Madagascar. Chi này bao gồm những cây bụi hoặc thảo mộc nhỏ tạo thành đệm và chiếc lá có vị chua, ăn được. Kewa là chi duy nhất trong họ Kewaceae . Những loài này trước đây được đưa vào chi Hypertelis của họ Molluginaceae, nhưng các nghiên cứu phân tử đã chỉ ra rằng hầu hết không thuộc về chi này mà có họ hàng khá xa với họ Molluginaceae, được xếp vào một nhánh bao gồm Aizoaceae, Gisekiaceae và Barbeuiaceae. Chỉ còn loài điển hình Hypertelis spergulacea trong họ Molluginaceae; tất cả được chuyển đến chi Kewa, được đặt tên theo Kew, nơi có Vườn Bách thảo Hoàng gia Kew. Các loài được chuyển đến chi Kewa từ Hypertelis vào năm 2014 gồm: Kewa acida (Hook.f. ) Christenh. – Thánh Helena Kewa angrae-pequenae (Friedrich) Christenh. – Namibia, Nam Phi Kewa arenicola (Sond. ) Christenh. - Nam Phi Kewa bowkeriana (Sond. ) Christenh. – Ethiopia, Kenya, Tanzania, Mozambique, Zimbabwe, Botswana, Namibia, Nam Phi Kewa caespitosa (Friedrich) Christenh. – Namibia, Nam Phi Kewa saloloides (Burch. ) Christenh. – Mozambique, Angola, Namibia, Nam Phi Kewa suffruticosa (Baker) Christenh. – Madagasca Kewa trachysperma (Adamson) Christenh. - Nam Phi Cây sống lâu năm nhưng tương đối ngắn. Chúng có thể dễ dàng được nhân giống từ hạt và tạo thành những cây bụi giống như chiếc đệm hấp dẫn với những chiếc lá có lông và những bông hoa trắng đầy sao. Tham khảo Thực vật châu Phi Bộ Cẩm chướng Kewaceae
19168220
https://vi.wikipedia.org/wiki/Strzeg%C3%B3w%2C%20Opole%20Voivodeship
Strzegów, Opole Voivodeship
Strzegów () là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Grodków, thuộc huyện Brzeg, Opole Voivodeship, ở phía tây nam Ba Lan. Nó nằm cách khoảng về phía tây nam của Grodków, cách về phía tây nam xửa Brzeg và về phía tây trung tâm của khu vực khu vực Opole. Trước năm 1945, khu vực này là một phần của Đức (xem phần Thay đổi lãnh thổ của Ba Lan sau Thế chiến II). Tham khảo Quan hệ Ba Lan-Đức
15110089
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kafraya%20Elmaarra
Kafraya Elmaarra
Kafraya Elmaarra () là một ngôi làng Syria nằm ở Sinjar Nahiyah ở huyện Maarrat al-Nu'man, Idlib. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria (CBS), Kafraya Elmaarra có dân số 906 trong cuộc điều tra dân số năm 2004. Tham khảo
19433213
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9%20Li%C3%AAn%20%C4%90%E1%BB%A9c
Ngũ Liên Đức
Ngũ Liên Đức (sinh năm 1879- mất năm 1960) là bác sĩ, nhà khoa học y tế cộng đồng người Malaysia gốc Hoa, người tiên phong trong kiểm dịch và phòng chống dịch hạch, xây dựng y tế hiện đại và giáo dục y khoa, y tế công cộng và các bệnh truyền nhiễm, nổi tiếng với những đóng góp về sức khỏe cộng đồng và đặc biệt là trong Đại dịch Mãn Châu năm 1910. Ông là người gốc Hoa đầu tiên theo học sinh viên y khoa tại Đại học Cambridge. Ông cũng là người Malaysia đầu tiên được đề cử Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học vào năm 1935. Tiểu sử Ngũ Liên Đức còn được phiên âm là Goh Lean Tuck (tiếng Mân Nam) và Ng Leen Tuck (tiếng Quảng Đông) hay Wu Lien-teh (phiên âm hiện đại), có tên tên tự là Liên Tinh, nguyên quán Tân Ninh, Thiệu Dương, nay là Thai Sơn. Ông sinh ngày 10 tháng 3 năm 1879 tại Penang, Mã Lai thuộc Anh (nay là Penang, Malaysia), một trong ba thị trấn Straits Settlement (hai thị trấn khác là Malacca và Singapore). Các khu vực Straits Settlement là một phần của các thuộc địa hải ngoại của Vương quốc Anh. Cha ông là Ngũ Kỳ Học (伍祺学), một người thợ kim hoàn, nhập cư từ Đài Sơn (Trung Quốc). Mẹ là Lâm Thái Phồn (林彩繁), thuộc thế hệ thứ hai của người Khách Gia ở Malaya. Ngũ Liên Đức có 10 anh chị em. Thuở nhỏ, Ngũ Liên Đức được cho theo học ở trường miễn phí Penang. Ông được nhận vào Emmanuel College, Cambridge vào năm 1896, sau khi giành được học bổng Queen's Scholarship. Ông có một thành tích học tập rực rỡ, giành được hầu hết các giải thưởng và học bổng. Từ năm 1896 đến 1899, ông học tại Emmanuel College, Đại học Cambridge ở Anh để nghiên cứu các bệnh truyền nhiễm và vi khuẩn học. Từ năm 1899 đến 1902, ông được gửi vào Bệnh viện St. Mary làm thực tập sinh, trở thành thực tập sinh Trung Quốc đầu tiên của bệnh viện, sau đó tiếp tục theo học tại Liverpool School of Tropical Medicine (dưới thời Sir Ronald Ross), Viện Pasteur, Halle University, và Selangor Institute. Sau đó, ông học ở Trường Y học Nhiệt đới Liverpool tại Vương quốc Anh, Trường Y tế thuộc Đại học Halle ở Đức và Viện Pasteur ở Pháp để thực tập và nghiên cứu. Năm 1903, ông lấy bằng tiến sĩ y khoa tại Đại học Cambridge và quay trở lại Malaysia để mở một phòng khám để nghiên cứu các bệnh nhiệt đới tại Viện Y học Kuala Lumpur. Gia đình Ông trở về lại Straits Settlement vào năm 1903. Một thời gian sau đó, ông kết hôn với Hoàng Thục Quỳnh (黄淑琼). Hoàng Thục Quỳnh có chị gái là Hoàng Đoan Quỳnh (黄端琼), vợ của Lâm Văn Khanh (林文庆), chủ tịch đầu tiên của Đại học Hạ Môn, một bác sĩ đã thúc đẩy cải cách xã hội và giáo dục ở Singapore. Hai chị em là con gái của mục sư Hoa kiều Hoàng Nãi Thường (黄乃裳), một nhà lãnh đạo và nhà giáo dục cách mạng người Hoa, người đã chuyển đến khu vực này từ năm 1901 đến 1906. Ngũ Liên Đức và gia đình chuyển đến Trung Quốc vào năm 1907. Trong thời gian ở Trung Quốc, vợ và hai trong số ba người con trai của ông đã chết. Trong cuộc xâm lược Mãn Châu của Nhật Bản, vào tháng 11 năm 1931, Ngũ Liên Đức bị chính quyền Nhật Bản giam giữ và thẩm vấn vì nghi ngờ là gián điệp của Trung Quốc. Năm 1937, trong thời gian Nhật chiếm đóng phần lớn Trung Quốc và lực lượng Tưởng Giới Thạch rút lui, Ngũ Liên Đức buộc phải chạy trốn, trở về Settlement để sống ở Ipoh. Ngôi nhà và bộ sưu tập sách y học cổ Trung Quốc của ông đã bị cháy rụi. Năm 1937, ngay sau khi dự đám cưới của con trai cả Ngũ Trưởng Canh (伍长庚) tổ chức tại bệnh viện liên hiệp Bắc Kinh (北京协和医院), bà Hoàng Thục Quỳnh qua đời vì bạo bệnh. Hai người có ba con trai. Con trai Ngũ Trưởng Canh (1906-1942) sinh ra tại Penang, lớn lên nối nghiệp của cha. Sau khi tốt nghiệp Đại học Thanh Hoa, anh đã đi du học tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Khi trở rở về Trung Quốc, anh giữ chức vụ trưởng phòng nhân khẩu y tế của Khu Y tế số 1 Peiping. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1937, dưới sự bảo trợ của Stuart, Ngũ Trưởng Canh đã tổ chức đám cưới trong khán phòng của bệnh viện liên hiệp Bắc Kinh. Năm 1942, Ngũ Trưởng Canh mắc bệnh khi đang hướng dẫn các hoạt động chủng ngừa bệnh tả ở Bắc Kinh, và ngay sau đó qua đời tại nhà riêng ở số 51 hẻm Đông Đương Tử (东堂子胡同), Đông Thành (东城区), Bắc Kinh. Con trai thứ hai là Ngũ Trưởng Phúc, sinh năm 1909 và chết vì bệnh viêm phổi ở tuổi 16, đã giáng một đòn mạnh vào vợ chồng ông. Con trai thứ ba là Ngũ Trưởng Minh, sinh ra ở Thiên Tân năm 1911, và mất chưa đầy sáu tháng sau khi sinh, đó là khi Ngũ Liên Đức đang chiến đấu với dịch bệnh ở vùng Đông Bắc. Năm 1943, Ngũ Liên Đức bị những người kháng chiến cánh tả của Malaysia bắt giữ và đòi giữ tiền chuộc. Sau đó, ông suýt bị người Nhật truy tố vì ủng hộ phong trào kháng chiến bằng cách trả tiền chuộc, nhưng được một sĩ quan Nhật Bản bảo vệ. Một thời gian sau khi chuyển đến Ipoh, ông tái hôn với bà Lý Thục Trinh (李淑贞) và có thêm bốn người con. Con gái ông là Ngũ Ngọc Linh nhận bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Hawaii và là một nhà ngôn ngữ học. Sự nghiệp Vào tháng 9 năm 1903, Ngũ Liên Đức gia nhập Viện nghiên cứu y học tại Kuala Lumpur với tư cách là sinh viên nghiên cứu đầu tiên. Tuy nhiên, không có chức vụ chuyên môn nào cho ông vì vào thời điểm đó, một hệ thống y tế hai cấp ở các thuộc địa của Anh, điều kiện chỉ có công dân Anh mới có thể giữ các vị trí cao nhất của các sĩ quan hoặc chuyên gia y tế có trình độ đầy đủ. Ông đã dành sự nghiệp y tế đầu tiên của mình để nghiên cứu beryli-beryli và giun tròn (Ascarididae) trước khi bắt đầu hành nghề tư nhân vào cuối năm 1904 tại Chulia Street, Penang. Năm 1907, ông được mời đến Luân Đôn, Anh để tham dự Hội nghị đề xuất cấm hút thuốc phiện do tiến sĩ thần học Văn Anh Lan (文英兰) tổ chức. Cùng năm đó, ông được Viên Thế Khải, Tổng đốc Trực Lệ thời nhà Thanh mời làm hiệu phó của Trường quân y Thiên Tân. Ngũ Liên Đức là một nhà bình luận về các vấn đề xã hội thời đó. Đầu những năm 1900, ông kết bạn với Lim Boon Keng và Song Ong Siang, một luật sư tích cực trong việc phát triển xã hội dân sự Singapore. Ông đã cùng họ biên tập tạp chí The Straits Chinese Magazine. Cùng với những người bạn của mình, ông đã thành lập Hiệp hội chống thuốc phiện ở Penang. Ông đã tổ chức một hội nghị chống thuốc phiện trên toàn quốc vào mùa xuân năm 1906 với sự tham dự của khoảng 3.000 người. Điều này đã thu hút sự chú ý của các thế lực hùng mạnh liên quan đến nguồn lợi buôn bán thuốc phiện béo bở và vào năm 1907, điều này đã dẫn đến một cuộc tra xét và sau đó phát hiện ra một ounce thuốc phiện trong phòng pha chế của Ngũ Liên Đức, và ông bị tòa kết án và bị phạt. Chiến đấu với dịch hạch Vào tháng 12 năm 1910, khi dịch hạch Đông Bắc bùng phát, triều đình nhà Thanh đã chỉ định ông làm chủ tịch phụ trách y tế của ba tỉnh ở miền đông Trung Quốc để phòng chống dịch bệnh và điều tra tại Cáp Nhĩ Tân. Vào ngày 24 tháng 12 năm 1910, ông cùng trợ lý Lâm Gia Thụy, sinh viên năm cuối của Trường Quân y, đến Cáp Nhĩ Tân, trung tâm của khu vực dịch bệnh, để lãnh đạo công tác phòng chống và kiểm soát và kiểm soát dịch trong vòng bốn tháng. Đầu năm 1911, ông thành lập viện nghiên cứu bệnh dịch hạch đầu tiên của Trung Quốc tại Cáp Nhĩ Tân. Năm 1911, ông được trao tặng danh vị tiến sĩ y khoa vì những thành tích xuất sắc của mình. Từ ngày 3 tháng 4 đến ngày 28 tháng 4 năm 1911, "Hội nghiên cứu bệnh dịch hạch" có sự tham gia của các chuyên gia từ 11 quốc gia đã được tổ chức tại Thẩm Dương. Bác sĩ Ngô Liên Đức, giám đốc Y khoa của ba tỉnh miền Đông làm chủ trì cuộc họp. Các chuyên gia Trung Quốc và nước ngoài tại cuộc họp đề nghị chính phủ nhà Thanh thành lập các tổ chức phòng chống dịch bệnh vĩnh viễn ở ba tỉnh miền đông để ngăn chặn sự quay trở lại của bệnh dịch. Trung Quốc đã đòi lại chủ quyền đối với việc kiểm soát dịch tại các cảng biển. Bệnh dịch hạch viêm phổi Vào mùa đông năm 1910, Ngũ Liên Đức đã được hướng dẫn từ cơ quan ngoại vụ của triều đình Bắc Kinh, đi đến Cáp Nhĩ Tân để điều tra một căn bệnh không xác định đã giết chết 99,9% nạn nhân. Đây là khởi đầu của đại dịch hạch viêm phổi ở Mãn Châu và Mông Cổ, cuối cùng đã cướp đi 60.000 nạn nhân. Ngũ Liên Đức được cho là đã có thể tiến hành một cuộc giải phẫu (thường không được chấp nhận tại Trung Quốc vào thời điểm đó) đối với một phụ nữ Nhật Bản đã chết vì bệnh dịch hạch. Khi được xác nhận thông qua khám nghiệm tử thi rằng bệnh dịch hạch lây lan qua không khí, ông đã phát triển mặt nạ phẫu thuật mà ông thấy được sử dụng ở phương Tây thành những mặt nạ an toàn hơn với các lớp gạc và bông để lọc không khí. Gérald Mesny, một bác sĩ người Pháp nổi tiếng đã đến thay thế Ngũ Liên Đức đã từ chối đeo mặt nạ và sau đó đã chết vì bệnh dịch hạch. Mặt nạ được sản xuất rộng rãi, do chính Ngũ Liên Đức giám sát việc sản xuất và phân phối 60.000 mặt nạ trong một đại dịch sau này, và nó xuất hiện trong nhiều hình ảnh báo chí. Nhiều người tin rằng mặt nạ khẩu trang N95 là hậu duệ thiết kế của ông. Ngũ Liên Đức đã khởi xướng kiểm dịch, sắp xếp cho các ngôi nhà được khử trùng và bệnh viện dịch hạch cũ bị đốt cháy và thay thế. Biện pháp mà ông nhớ nhất là yêu cầu sự trừng phạt của triều đình nhằm buộc phải hỏa táng nạn nhân bệnh dịch hạch. Những người chết không thể chôn cất do mặt đất bị đóng băng, và các thi thể chỉ có thể được xử lý bằng cách ngâm chúng trong parafin và đốt trên giàn thiêu. Việc hỏa táng các nạn nhân bị nhiễm bệnh này hóa ra là bước ngoặt của dịch bệnh; vài ngày sau khi việc hỏa táng bắt đầu, bệnh dịch hạch bắt đầu giảm và trong vài tháng, nó đã biến mất. Ngũ Liên Đức đã chủ trì Hội nghị về bệnh dịch hạch quốc tế tại Mukden (Thẩm Dương) vào tháng 4 năm 1911, một sự kiện lịch sử có sự tham gia của các nhà khoa học từ Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Áo-Hung, Hà Lan, Nga, Mexico và Trung Quốc. Hội nghị diễn ra trong ba tuần và có các cuộc tranh luận và thí nghiệm. Ngũ Liên Đức sau đó đã trình bày một bài nghiên cứu về bệnh dịch hạch tại Đại hội Y khoa Quốc tế, London vào tháng 8 năm 1911 được xuất bản trên báo The Lancet cùng tháng. Tại hội nghị về bệnh dịch hạch, các nhà dịch tễ học Danylo Zabolotny và Anna Tchourilina tuyên bố rằng họ đã tìm ra nguyên nhân ban đầu của sự bùng phát đối với những người săn thú Tarbagan đã nhiễm bệnh từ động vật. Một biểu tượng tarabagan trở thành linh vật hội nghị. Tuy nhiên, Ngũ Liên Đức đã đặt ra câu hỏi tại sao những người săn bắn marmot truyền thống không gặp phải dịch bệnh chết người trước đó. Sau đó, ông đã xuất bản một tác phẩm lập luận rằng các thợ săn người Mông Cổ và Buryat truyền thống đã thiết lập các tập quán giữ an toàn cho cộng đồng của họ và ông đổ lỗi cho những người nhập cư Sơn Đông gần đây đến khu vực này bằng cách sử dụng các phương pháp săn bắt nhiều động vật bị bệnh và tăng nguy cơ phơi nhiễm. Phòng chống dịch Năm 1912, ông được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc mời làm nhân viên y tế cho tổng thống. Trong cùng năm đó, Văn phòng phòng chống dịch bệnh Bắc Mãn và bệnh viện trực thuộc được thành lập tại Cáp Nhĩ Tân. Vào ngày 1 tháng 10 năm 1912, Văn phòng Phòng chống Dịch bệnh Beiman được thành lập. Trụ sở (bệnh viện đa khoa) được đặt tại Cáp Nhĩ Tân, ông làm giám đốc y tế. Đây là cơ quan phòng chống dịch bệnh vĩnh viễn đầu tiên ở Trung Quốc hiện đại。 Năm 1915, ông và bác sĩ Nhan Phúc Khánh (颜福庆), và những người khác đồng tài trợ cho việc thành lập Hiệp hội Y khoa Trung Quốc, số đầu tiên của "Tạp chí Y học Trung Quốc", đồng thời ông làm thư ký của Hiệp hội Y khoa Trung Quốc và biên tập viên của "Tạp chí Y học Trung Quốc". Năm 1918, làm giám đốc Văn phòng phòng chống dịch bệnh trung ương của chính quyền thành phố Bắc Kinh và chủ tịch bệnh viện trung ương Bắc Kinh (nay là Bệnh viện nhân dân của Đại học Bắc Kinh). Bệnh viện Trung ương Bắc Kinh được thành lập bởi Ngô Liên Đức. Ngoại trừ nguồn tài trợ từ Bộ Tài chính của Chính phủ Bắc Kinh, hầu hết các quỹ đều được huy động. Địa điểm này trong chợ Phụ Chính (阜成市场), nằm trên đường Phụ Chính Môn (阜成门内大街), hiện là trụ sở của Bệnh viện Nhân dân Đại học Bắc Kinh, khánh thành vào ngày 27 tháng 1 năm 1918, Ngô Liên Đức trở thành hiệu trưởng đầu tiên. Vào tháng 1 năm 1919, ông tới Thượng Hải để giám sát việc đốt thuốc phiện thay mặt Bộ Ngoại giao của Chính phủ Bắc Kinh. Ông đã nhận được bằng tiến sĩ danh dự từ Đại học St. John's Thượng Hải, Đại học Hồng Kông, Đại học Y Tokyo, Nhật Bản, thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và là thành viên nước ngoài của Hiệp hội Vi sinh học Liên Xô. Ngô Liên Đức liên tiếp lãnh đạo công tác phòng chống dịch bệnh, kiểm soát bệnh dịch hạch năm 1917, dịch tả Cáp Nhĩ Tân năm 1919, bệnh dịch hạch Đông Bắc Trung Quốc năm 1920 và dịch tả Thượng Hải năm 1932. Năm 1922, được tướng Trương Tác Lâm ủy quyền thành lập Bệnh viện Quân đội Đông Bắc tại Thẩm Dương. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1926, Trường Cao đẳng Y tế Tân Giang (tiền thân của Đại học Y Cáp Nhĩ Tân) được thành lập và làm hiệu trưởng đầu tiên. Đây là trường đại học y khoa đầu tiên do người Trung Quốc điều hành ở Đông Bắc Trung Quốc. Năm 1927, ông được bổ nhiệm làm thành viên người Trung Quốc trong ban Y tế (卫生处) của Hội Quốc Liên và được trao danh hiệu Chuyên gia về bệnh dịch hạch. Với sự vận động và thúc đẩy ông, vào cuối năm 1929, Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận với ban Y tế của Hội Quốc Liên, đòi lại chủ quyền kiểm dịch của bến cảng và thành lập Văn phòng quản lý kiểm dịch cảng biển quốc gia ở Thượng Hải vào tháng 7 năm 1930, bổ nhiệm ông làm giám đốc đầu tiên. và là giám đốc kiểm dịch Thượng Hải cảng. Sau sự cố ngày 18 tháng 9 năm 1931, ông đã từ chức tại Đông Bắc. Trong thời gian này, ông bị quân đội Nhật buộc tội là gián điệp, bị giam giữ tại Thẩm Dương và sau đó được lãnh sự Anh bảo lãnh và về phía nam đến Thượng Hải để làm giám đốc kiểm dịch quốc gia. Vào tháng 4 năm 1937, ông là chủ tịch của Hiệp hội Y tế Công cộng của Hiệp hội Y khoa Trung Quốc. Sự nghiệp cuối đời Năm 1912, Ngũ Liên Đức trở thành giám đốc đầu tiên của Cơ quan bệnh dịch hạch Mãn Châu. Ông là thành viên sáng lập và chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội Y khoa Trung Quốc (1916-1920). Ông lãnh đạo các nỗ lực chống lại đại dịch tả 1920-1921 ở Đông bắc Trung Quốc. Năm 1929, ông được Cheah Cheang Lim, cùng với Wu Lai Hsi, Robert Lim Kho Seng, và Lim Chong Eang bổ nhiệm làm ủy viên của 'Câu lạc bộ Nanyang' ở Penang. 'Câu lạc bộ Nanyang', một ngôi nhà cổ ở Bắc Bình, đã cung cấp chỗ ở thuận tiện cho những người bạn Hoa kiều. Thập niện 1930, ông trở thành giám đốc đầu tiên của Cơ quan kiểm dịch quốc gia. Khoảng năm 1939, Ngũ Liên Đức quay trở lại Malaya và tiếp tục làm bác sĩ đa khoa ở Ipoh. Ông thu thập quyên góp để thành lập Thư viện Perak (nay là Thư viện Tun Razak) tại Ipoh, một thư viện công cộng miễn phí và tặng sách cho Thư viện thành phố Thượng Hải và Đại học Hồng Kông. Wu là một quan chức bậc 2 và có chân trong các ủy ban cố vấn cho Hội Quốc Liên. Ông đã được trao giải thưởng của Sa hoàng Nga và Tổng thống Pháp, và được trao bằng danh dự của Đại học Johns Hopkins, Đại học Bắc Kinh, Đại học Hồng Kông và Đại học Tōkyō. Đề cử giải thưởng Nobel Năm 1935, ông được đề cử giải thưởng Nobel về sinh lý học hoặc y học cho công trình nghiên cứu về bệnh dịch hạch viêm phổi, đặc biệt là việc phát hiện ra vai trò của loài Marmota trong việc truyền bệnh. Thời gian bảo mật của các ứng cử viên đoạt giải Nobel là 50 năm và tin tức chỉ được tiết lộ trên trang web của Quỹ Nobel năm 2007. Mặc dù ông là một người di cư Anh vào thời điểm đó, trong danh sách ứng cử viên giải thưởng Nobel, cột "Quốc gia" trong đó ghi Trung Quốc. Ngô Liên Đức là ứng cử viên giải thưởng Nobel đầu tiên người Trung Quốc. Qua đời Ngũ Liên Đức hành nghề y cho đến khi qua đời ở tuổi 80. Ông đã mua một ngôi nhà mới ở Penang để nghỉ hưu và vừa hoàn thành cuốn tự truyện dài 667 trang của mình, Bệnh dịch hạch, cuốn tự truyện của một bác sĩ Trung Hoa hiện đại (Plague Fighter, the Autobiography of a Modern Chinese Physician). Ngày 21 tháng 1 năm 1960, ông qua đời vì đột quỵ khi đang ở nhà riêng tại Penang. Một con đường mang tên Ngũ Liên Đức có thể được tìm thấy ở Ipoh Garden South, một khu dân cư trung lưu ở Ipoh. Ở Penang, một con đường riêng có tên Taman Wu Lien Teh nằm gần Trường Tự do Penang. Trong ngôi trường đó, trường cũ của ông, một ngôi nhà đã được đặt theo tên ông. Có một hội bác sĩ Wu Lien-teh, Penang. Bộ sưu tập Wu Lien-teh, bao gồm 20.000 cuốn sách, được Ngũ Liên Đức tặng cho Đại học Nanyang, sau này trở thành một phần của Đại học Quốc gia Singapore. Bảo tàng nghệ thuật của Đại học Malaya có một bộ tranh của ông. Năm 1995, con gái của Wu, Tiến sĩ Yu-lin Wu, đã xuất bản một cuốn sách về cha cô, Memories of Dr. Wu Lien-teh, Plague Fighter. Năm 2015, Viện Ngũ Liên Đức đã khai trương tại Đại học Y Cáp Nhĩ Tân. Năm 2019, The Lancet đã ra mắt Giải thưởng Wakley-Wu Lien Teh hàng năm để vinh danh Ngũ Liên Đức và biên tập viên sáng lập của ấn phẩm, Thomas Wakley. Bác sĩ Ngũ Liên Đức được coi là người đầu tiên hiện đại hóa các dịch vụ y tế và giáo dục y tế của Trung Quốc. Tại Đại học Y Cáp Nhĩ Tân, những bức tượng bằng đồng của ông tưởng niệm những đóng góp của ông cho sức khỏe cộng đồng, y tế dự phòng và giáo dục y tế. Trong đợt bùng phát bệnh coronavirus năm 2019, một số học giả cho rằng công việc của Ngũ Liên Đức có liên quan đương thời với lĩnh vực dịch tễ học. Chú thích Đọc thêm Wu Lien-Teh, 1959. Plague Fighter: The Autobiography of a Modern Chinese Physician. Cambridge. (Reprint: Areca Books. 2014) Yang, S. 1988. Dr. Wu Lien-teh and the national maritime quarantine service of China in 1930s. Zhonghua Yi Shi Za Zhi 18:29-32. Wu Yu-Lin. 1995. Memories of Dr. Wu Lien-Teh: Plague Fighter. World Scientific Pub Co Inc. Flohr, Carsten. 1996. The plague fighter: Wu Lien-teh and the beginning of the Chinese public health system. Annals of Science 53:361-80 Gamsa, Mark. 2006. The Epidemic of Pneumonic Plague in Manchuria 1910–1911. Past & Present 190:147-183 Lewis H. Mates, ‘Lien-Teh, Wu’, in Douglas Davies with Lewis H. Mates (eds), Encyclopedia of Cremation (Ashgate, 2005): 300–301. Lien-Teh, Wu Penang Free School archive PFS Online Người Malaysia gốc Hoa
2933086
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marcipa%20apicalis
Marcipa apicalis
Marcipa apicalis là một loài bướm đêm trong họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Marcipa
14869306
https://vi.wikipedia.org/wiki/Passerina%20%28th%E1%BB%B1c%20v%E1%BA%ADt%29
Passerina (thực vật)
Passerina là một chi thực vật có hoa trong họ Thymelaeaceae. Các loài trong chi này là những cây bụi tương tự như thạch nam mọc chủ yếu tại khu vực fynbos và các môi trường sống cây bụi khác ở Nam Phi. Các loài Chi này chứa khoảng 20 loài. Passerina aragonensis (Rouy) Rouy Passerina burchellii Thoday Passerina comosa (Meisn.) C.H. Wright Passerina corymbosa Eckl. ex C.H. Wright Passerina drakensbergensis Hilliard & B.L. Burtt Passerina ericoides L. Passerina esterhuyseniae Bredenkamp & A.E. van Wyk Passerina falcifolia (Meisn.) C.H. Wright Passerina filiformis L. Passerina galpinii C.H. Wright Passerina montana Thoday Passerina montivaga Bredenkamp & A.E. van Wyk Passerina nivicola Bredenkamp & A.E. van Wyk Passerina obtusifolia Thoday Passerina paleacea Wikstr. Passerina paludosa Thoday Passerina pendula Eckl. & Zeyh. ex Thoday Passerina quadrifaria Bredenkamp & A.E. van Wyk Passerina rigida Wikstr. Passerina rubra C.H. Wright Passerina truncata (Meisn.) Bredenkamp & A.E. van Wyk Tham khảo
15054729
https://vi.wikipedia.org/wiki/Halazepam
Halazepam
Halazepam là một dẫn xuất của benzodiazepine được bán trên thị trường với biệt dược Paxipam ở Hoa Kỳ, Alapryl ở Tây Ban Nha, và Pacinone ở Bồ Đào Nha. Sử dụng trong y tế Halazepam đã được sử dụng để điều trị lo âu. Tác dụng phụ Tác dụng phụ bao gồm buồn ngủ, lú lẫn, chóng mặt và an thần. Tác dụng phụ đường tiêu hóa cũng đã được báo cáo gồm khô miệng và buồn nôn. Dược động học và dược lực học Dược động học và dược lực học được liệt kê trong Thuốc trị liệu tâm lý hiện tại được xuất bản vào ngày 15 tháng 6 năm 1998 như sau: Thông tin về các quy định Halazepam được phân loại là chất được kiểm soát theo lịch 4 với mã tương ứng 2762 bởi Cục Quản lý Thực thi Dược phẩm (DEA). Sản phẩm thương mại Halazepam được phát minh bởi Schlesinger Walter ở Mỹ Nó được bán trên thị trường như một chất chống lo âu vào năm 1981. Tuy nhiên, Halazepam không có sẵn trên thị trường ở Hoa Kỳ vì nó đã bị nhà sản xuất của nó rút tiền vì doanh số kém. Xem thêm Các thuốc giảm đau Nordazepam Diazepam Chlordiazepoxit Quazepam, fletazepam, triflubazam - các thuốc benzodiazepin có nhóm trifluoromethyl kèm theo Tham khảo Liên kết ngoài Inchem - Halazepam Lactam
7528225
https://vi.wikipedia.org/wiki/Magnesi%20acetat
Magnesi acetat
Magnesi acetat khan là một hợp chất có công thức hóa học Mg(C2H3O2)2. Nó thường ngậm 4 phân tử nước và có công thức Mg(CH3COO)2 • 4H2O. Trong hợp chất này magnesi có trạng thái oxy hóa 2+. Đây là muối magnesi của acid acetic. Chất này hay chảy nước và khi bị nung nóng, nó phân hủy thành magnesi oxide. Magnesi acetat thường được sử dụng làm nguồn magnesi trong các phản ứng sinh học. Tính chất vật lý Magnesi acetat tồn tại dưới dạng tinh thể hút ẩm màu trắng. Nó có mùi giống như acid acetic và hòa tan trong nước. Khi hòa tan trong dung dịch nước, độ pH của nó sẽ có tính kiềm. Lưu trữ Do chất này rất hút ẩm, nó phải được lưu trữ cách xa nước. Nó cũng không tương thích với các chất oxy hóa mạnh và không nên trộn lẫn chúng với nhau. Tổng hợp Magnesi acetat được tổng hợp từ phản ứng của magnesi hydroxide với acid acetic. 2 CH3COOH + Mg(OH)2 → (CH3COO)2Mg + 2 H2O Magnesi cacbonat lơ lửng trong nước cất phản ứng với dung dịch 20% acid acetic. 2 CH3COOH + MgCO3 → Mg(CH3COO)2 + CO2 + H2O Phản ứng giữa magnesi kim loại với acid acetic hòa tan trong benzen khô nitơ tạo ra magnesi acetat cùng với việc giải phóng một khí, có thể là hydro. Mg +2 CH3COOH → Mg(CH3COO)2 + H2 Ứng dụng Vào năm 1881, Charles Clamond đã phát minh ra giỏ Clamond, một trong những loại đèn măng-sông hiệu quả đầu tiên. Các chất được sử dụng trong sáng chế này bao gồm magnesi acetat, magnesi hydroxide và nước. Magnesi acetat thường được sử dụng làm nguồn magnesi hoặc nguồn ion acetat trong các thí nghiệm hóa học. Một ví dụ của điều này là khi magnesi acetat và magnesi nitrat được sử dụng để thực hiện mô phỏng động lực học phân tử và đo điện thế bề mặt. Trong thí nghiệm, các tác giả nhận thấy rằng acetat có ái lực mạnh hơn đối với bề mặt so với ion nitrat và Mg2+ bị đẩy ra khỏi nhiễu không khí / chất lỏng. Họ cũng nhận thấy Mg2+ có khuynh hướng gắn kết với ion acetat hơn so với ion nitrat. An toàn Magnesi acetat là một hợp chất tương đối an toàn và đã được đánh giá nguy hiểm sức khoẻ bằng không. Tuy nhiên, nó luôn phải được xử lý bằng găng tay và kính an toàn. Nếu chất này bị dính vào mắt, vào da, hoặc nuốt phải, hoặc hít vào sẽ gây kích ứng ở các vùng tương ứng: mắt, da, hệ tiêu hóa, và phổi. Tham khảo Hợp chất magnesi Acetat
19502758
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8B%20tr%E1%BA%A5n%20Th%E1%BB%83%20thao%20Hwaseong
Thị trấn Thể thao Hwaseong
Thị trấn Thể thao Hwaseong () là một khu liên hợp thể thao ở Hwaseong, Gyeonggi, Hàn Quốc. Khu liên hợp bao gồm Sân vận động Hwaseong và Nhà thi đấu trong nhà Hwaseong. Cơ sở vật chất Sân vận động Hwaseong Sân vận động Hwaseong là sân vận động đa năng, được hoàn thành vào năm 2011. Sân được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động có sức chứa 35.265 khán giả. World Soccer gọi Sân vận động Hwaseong là "mẹ của tất cả những con voi trắng" trong một bài báo năm 2015. Sân vận động có chi phí xây dựng 175 triệu đô la và là sân nhà của Hwaseong FC, một đội bán chuyên nghiệp thi đấu tại K3 League (giải hạng ba). Sân đã tổ chức các trận đấu vòng loại World Cup của Hàn Quốc, bao gồm trận đấu với Lào tại vòng loại World Cup 2018 và trận đấu với Sri Lanka tại vòng loại World Cup 2022. Sân vận động này cũng đã tổ chức các trận đấu bóng đá tại Cúp bóng đá Đông Á 2013 và Đại hội Thể thao châu Á 2014. Nhà thi đấu trong nhà Hwaseong Nhà thi đấu trong nhà Hwaseong là nhà thi đấu của đội bóng chuyền nữ chuyên nghiệp Hwaseong IBK Altos, đang thi đấu tại V-League. Tham khảo Liên kết ngoài Sân vận động đa năng Hàn Quốc Địa điểm bóng đá Hàn Quốc Địa điểm thể thao Gyeonggi (tỉnh) Địa điểm thi đấu Đại hội Thể thao châu Á 2014 Địa điểm thể thao hoàn thành năm 2011 Khởi đầu năm 2011 ở Hàn Quốc
19573564
https://vi.wikipedia.org/wiki/Omadius
Omadius
Omadius là một chi bọ cánh cứng trong phân họ Clerinae, thuộc họ Cleridae. Các loài Omadius abscissus Omadius mediofasciatus Omadius olivaceus Omadius prasinus Omadius vespiformis Omadius zebratus Chú thích Tham khảo Cleridae
19493968
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giuseppe%20Piazzi
Giuseppe Piazzi
Giuseppe Piazzi ( , ; 16 tháng 7 năm 1746 - 22 tháng 7 năm 1826) là một linh mục Công giáo người Ý thuộc dòng Theatine, nhà toán học và nhà thiên văn học. Ông đã thành lập một đài thiên văn tại Palermo, nay là Đài quan sát Astronomico di Palermo - Giuseppe S. Vaiana. Khám phá nổi tiếng nhất của ông là về hành tinh lùn đầu tiên được phát hiện, Ceres. Sinh thời Không có bất kì tài liệu nào về việc giáo dục khoa học của Piazzi có trong bất kỳ tiểu sử nào về nhà thiên văn học này, ngay cả trong những cuốn tiểu sử lâu đời nhất. Chỉ biết là Piazzi chắc chắn có làm nghiên cứu ở Torino, và rất có khả năng đã tham dự các buổi diễn giảng của Giovan Battista Beccaria. Vào những năm 1768–1770, ông sống ở tu viện dòng Theatine ở S. Andrea della Valle, Roma, trong khi đang học đại học chuyên ngành Toán học dưới thời François Jacquier. Vào tháng 12 năm 1773, ông chuyển đến Ravenna với tư cách là "prefetto degli studenti" và là giảng viên Triết học và Toán học tại Collegio dei Nobili, rồi sống ở đó đến đầu năm 1779. Sau một thời gian ngắn ở Cremona và Roma, vào tháng 3 năm 1781 Piazzi chuyển đến Palermo với tư cách là giáo sư Toán học cao cấp tại Đại học Palermo (lúc bấy giờ được gọi là "Học viện de 'Regj Studi"). Ông giữ chức vụ này đến ngày 19 tháng 1 năm 1787 rồi trở thành Giáo sư Thiên văn học. Đồng thời, ông dành hai năm ở Paris và London để trải qua một số khóa đào tạo nghiệp vụ về thiên văn học cũng như để có được một số dụng cụ được chế tạo đặc biệt dành riêng cho Đài thiên văn Palermo, nơi ông phụ trách. Trong khoảng thời gian ở nước ngoài, từ ngày 13 tháng 3 năm 1787 cho đến cuối năm 1789, Piazzi đã làm quen với các nhà thiên văn học lớn của Pháp và Anh lúc bấy giờ. Cũng trong khoảng thời gian này, ông đã có được ống ngắm altazimuthal nổi tiếng do Jesse Ramsden, một trong những thợ chế tạo dụng cụ lành nghề nhất thế kỷ 18. Đây là công cụ quan trọng nhất của Đài thiên văn Palermo, được thành lập chính thức vào ngày 1 tháng 7 năm 1790. Năm 1817, Vua Ferdinand giao Piazzi phụ trách việc hoàn thành Đài quan sát Capodimonte (Napoli), giao cho ông chức vụ Tổng Giám đốc Đài quan sát Naples và Sicily. Sự nghiệp thiên văn học Danh mục sao Ông là người giám sát việc biên soạn các Catalogue Palermo viết về các sao, bao gồm danh mục sao với 7.646 sao có độ chính xác cao chưa từng thấy, trong đó bao gồm sao "Mu Cephei" do Herschel quan sát, và Rotanev và Sualocin. Việc quan sát đã được thực hiện một cách bài bản. Danh mục này vẫn chưa được hoàn thiện cho đến năm 1803, khi danh mục này được xuất bản lần đầu. Danh mục này được xuất bản lần thứ hai vào năm 1814. Với sự thành công trong việc khám phá Ceres (xem bên dưới), và hoàn thiện danh mục sao, Piazzi đã nghiên cứu quỹ đạo của các sao để tìm ra các sao thích hợp để đo thị sai. Trong số đó, 61 Cygni, là hệ sao đặc biệt thích hợp để đo thị sai, công việc sau này được Friedrich Wilhelm Bessel thực hiện. Hệ sao 61 Cygni đôi khi vẫn được gọi với cái tên khác nhau là Sao bay Piazzi và Sao Bessel. Hành tinh lùn Ceres Piazzi đã phát hiện ra tiểu hành tinh đầu tiên, Ceres. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1801, Piazzi đã phát hiện ra một "vật thể sao" di chuyển trên nền của các ngôi sao. Ban đầu, ông nghĩ đó là một ngôi sao cố định, nhưng khi nhận thấy nó chuyển động, ông tin rằng đó là một hành tinh, hay như cách gọi của ông, "một ngôi sao mới". Ông viết trong nhật ký rằng: Bất chấp giả định rằng đó là một hành tinh, ông đã bảo thủ và tuyên bố nó là một sao chổi. Trong một bức thư gửi cho nhà thiên văn học Barnaba Oriani ở Milan, ông đã khẳng định những nghi ngờ của mình bằng một văn bản:Ông không thể quan sát nó đủ lâu vì nó sớm biến mất trong ánh sáng Mặt trời. Không thể tính quỹ đạo của nó bằng các phương pháp hiện có, nhà toán học Carl Friedrich Gauss đã phát triển một phương pháp xác định quỹ đạo mới cho phép các nhà thiên văn tìm ra nó. Sau khi quỹ đạo của nó được xác định, rõ ràng giả thiết của Piazzi là đúng và vật thể này không phải là một sao chổi mà giống một hành tinh nhỏ hơn. Ceres cũng nằm ở vị trí gần như chính xác với vị trí mà định luật Titius-Bode dự đoán. Piazzi đặt tên cho hành tinh mới phát hiện được là "Ceres Ferdinandea" theo tên nữ thần Hy Lạp Ceres – nữ thần của cây cỏ, mùa màng và tình mẫu tử của người La Mã và Sicilia, cũng như tên Vua Ferdinand IV của Napoli và Sicilia. Phần tên "Ferdinandea" sau đó đã bị loại bỏ vì lý do chính trị. Ceres hóa ra là tiểu hành tinh đầu tiên và lớn nhất trong số các tiểu hành tinh tồn tại trong vành đai tiểu hành tinh. Ceres ngày nay được gọi là hành tinh lùn. Vinh dự sau khi ông mất Tên của nhà thiên văn học Ý Charles Piazzi Smyth - con trai của nhà thiên văn học William Henry Smyth, đã được đặt tên theo tên ông để vinh danh. Năm 1871, một bức tượng tưởng niệm Piazzi do Costantino Corti điêu khắc đã được dành riêng tại quảng trường chính của Ponte, cũng chính nơi sinh của ông. Năm 1923, tiểu hành tinh thứ 1000 được đánh số được đặt tên là 1000 Piazzia để vinh danh ông. Hố va chạm Piazzi được đặt theo tên ông vào năm 1935. Gần đây hơn, một đặc điểm suất phản chiếu lớn, có thể là một hố va chạm, được chụp bởi Kính viễn vọng Không gian Hubble trên Ceres, đã được đặt tên chính thức là Piazzi. Xem thêm Niccolò Cacciatore, trợ lý và người kế nhiệm của ông trên cương vị giám đốc Danh sách các nhà khoa học-giáo sĩ Công giáo La Mã Tham khảo Nguồn Clifford Cunningham, Brian Marsden, Wayne Orchiston. (2011) "Giuseppe Piazzi: phát hiện và mất mát gây tranh cãi của Ceres vào năm 1801." Tạp chí Lịch sử Thiên văn học, Tập 42. Liên kết ngoài Catholic Encyclopedia entry for Giuseppe Piazzi Works by or about Giuseppe Piazzi in libraries (WorldCat catalog) Giuseppe Piazzi and the Discovery of Ceres Portrait of Giuseppe Piazzi from the Lick Observatory Records Digital Archive, UC Santa Cruz Library's Digital Collections Ceres (hành tinh lùn) Giảng viên Đại học Palermo Hội viên Hội Hoàng gia Người Lombardia Người nhận giải thưởng Lalande Nhà thiên văn học Ý thế kỷ 18 Nhà thiên văn học Ý thế kỷ 19 Tu sĩ Công giáo Rôma
2941020
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oxaenanus%20sumatrensis
Oxaenanus sumatrensis
Oxaenanus sumatrensis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Oxaenanus
2638111
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oxydia%20intensa
Oxydia intensa
Oxydia intensa là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Oxydia
3644337
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BA%ADn%20%C4%90%C3%A0o
Dận Đào
Doãn Đào (, chữ Hán: 允祹; 18 tháng 1 năm 1686 - 2 tháng 9 năm 1763), là Hoàng tử thứ 12 tính trong số những người con sống tới tuổi trưởng thành của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Thân thế Doãn Đào nguyên danh là Dận Đào (, chữ Hán: 胤祹) sinh vào giờ Dần ngày 24 tháng 12 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 24 (1685), là con trai duy nhất của Định phi Vạn Lưu Ha thị. Dận Đào từ nhỏ đã được Tô Ma Lạt Cô nuôi dưỡng, cũng không kết bè kết đảng với bất kỳ Hoàng tử nào, không tham dự vào "Cửu tử đoạt đích". Vào những năm cuối thời Khang Hi Đế trị vì, ông được sắc phong là Đô thống Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, được vua cha vô cùng trọng dụng. Cuộc đời Thời Khang Hy Năm Khang Hi thứ 48 (1709), Dận Đào cùng Dận Đường đồng thời được phong Bối tử (贝子). Ngày 21 tháng 10 chính thức ban sách văn. Từ sau năm Khang Hi thứ 50 (1711), ông thường xuyên được tùy giá tuần du. Năm thứ 51 (1712), được thưởng 4000 lượng bạc. Năm thứ 56 (1717), Nhân Hiến Hoàng Thái hậu qua đời, Dận Đào được nhậm mệnh thay quyền quản lý sự vụ Nội vụ phủ. Năm sau (1718), tháng 3, 100 ngày mất của Thái hậu, tang sự mọi việc hoàn thành, Khang Hi Đế dụ: "Hôm nay đại sự hoàn tất, Thập nhị A Ca trước đình chỉ thay quyền Nội vụ phủ Tổng quản sự". Trong khoảng thời gian đó, Dận Đào vì "Làm việc ổn thỏa", Khang Hi Đế hết sức hài lòng, từng "Thâm gia chi". Tháng 12 cùng năm, được lệnh xử lý sự vụ của Mãn Châu, Mông Cổ, Hán Quân Chính Bạch kỳ, dụ: "Kỳ Mãn Châu Mông Cổ Hán Quân tam kỳ chi sự trứ Thập nhị a ca bạn lý." Năm thứ 59 (1720), thân mẫu của Hòa Thạc Dụ Thân vương Bảo Thái (Trắc Phúc tấn của Dụ Hiến Thân vương Phúc Toàn) qua đời. Dận Đào được đặc phái suất Thị vệ Nội đại thần công Ngạc Luân Đại phụ trách xử lý tang sự. 1 năm sau (1721), tháng 1, Bối tử Dận Đào cùng Ung Thân vương Dận Chân và Thành Thân vương Thế tử Hoằng Thịnh đến Thịnh Kinh tế tam lăng. Hạ chí tháng 5, thu phân tháng 8, đều do Dận Đào thay mặt Phụ hoàng hành lễ. Năm thứ 61 (1722), tế Thái miếu vào tháng 1, hạ chí tháng 5, thu phân tháng 8 cũng đều là Dận Đào thay mặt Khang Hi Đế. Tháng 10, nhậm chức Đô thống Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Tháng 11, quản lý sự vụ Nội vụ phủ, Lễ bộ, Công bộ. Tháng 12, tấn phong Gia Quận vương (嘉郡王, Mãn văn: dorolon, ý nghĩa: lễ nghi, điển lễ) Thời Ung Chính Sau khi Ung Chính Đế lên ngôi, cải tên thành Doãn Đào để tránh kỵ huý. Năm Ung Chính nguyên niên (1723), tháng 2, ngưng quản lý sự vụ Công bộ. Tháng 3, ngưng quản lý sự vụ Nội vụ phủ. Tháng 5 cách chức Đô thống. Tháng 12, ông bị Tông Nhân phủ vạch tội, bị giáng xuống làm Bối tử mặc dù vẫn hưởng bổng lộc, nhưng không hề có thực quyền. Năm thứ 2 (1724), tháng 6, Dận Đào lại vì "Bỏ sót lỗi trong phối hưởng nghi chú của Thánh Tổ Nhân Hoàng đế và kim sách phong phi" mà tiếp tục bị giáng xuống Phụng ân Trấn quốc công. Ung Chính Đế dụ: "Ngày 5, Tông Nhân phủ tấu rằng, quản lý Lễ bộ sự vụ Bối tử Doãn Đào ghi sai họ của phi tần, cách đi Bối tử của Doãn Đào, hàng xuống Hộ quốc công, chiếu lệ lưu lại ba Tá lĩnh, còn lại đều quy công." Đồng thời cũng ngưng quản lý sự vụ Lễ bộ. Năm thứ 8 (1730), ông được phục vị Lý Quận vương. Điểm đặc biệt là mặc dù phong hào bị thay đổi, nhưng Mãn văn lại không thay đổi. Đây là một lệ tương đối đặc thù của nhà Thanh. Năm thứ 13 (1735), tháng 8, Dận Đào phụng mệnh hồi cung, phụ trách xử lý tang nghi của Đại hành Ung Chính Đế, tạm quản lý sự vụ Lễ bộ. Tháng 9, quản lý sự vụ Tông Nhân phủ. Thời Càn Long Ngày 5 tháng 10 thì Dận Đào chính thức quản lý Lễ bộ. Ngày 17, Càn Long Đế dụ: "Hết thảy sự vụ Tông Nhân phủ đã có Lý Quận vương xử lý, Quả Quận vương cũng ngừng việc giám thị". Dận Đào cùng lúc quản lý sự vụ Lễ bộ cùng Tông Nhân phủ. Ngày 19, Càn Long Đế lại dụ: "Trong các vị hoàng thúc của Trẫm, Lý Quận vương Dận Đào là lớn tuổi nhất, lại thành thực làm việc, Trẫm ý muốn tấn phong Thân vương". Không lâu sau, Dận Đào được tấn phong thành Lý Thân vương. Năm Càn Long thứ 2 (1737), tháng 3, phụng Ung Chính Đế tử cung nhập Thanh Tây lăng, Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu Na Lạp thị tùy táng, công việc đều do Dận Đào xử lý. Tháng 9, Dận Đào được phái đến Thái lăng tế lễ. Tháng 1 năm sau, Càn Long Đế dụ chỉ cho nội các: "Từ lúc Lý Thân vương quản lý sự vụ Lễ bộ đến nay, cẩn trọng chu đáo, thành thực làm việc. Trong vòng 3 năm, vô cùng cần cù, nay đại lễ đã thành, sự vụ Lễ bộ nên do đường quan tự tuần chiếu xử lý, Lý Thân vương không cần giám thị". Từ đó, Dận Đào chuyên môn quản lý Tông Nhân phủ. Tháng 10, Dận Đào phụng mệnh xử lý tang nghi của Đoan Tuệ Hoàng thái tử Vĩnh Liễn. Từ năm thứ 4 (1739) về sau, mỗi năm Tế thiên, hưởng Thái miếu, triêu nhật, tự nguyệt, tế xã tắc, tế Tiên nông, đều do Dận Đào thay mặt Càn Long đến hành lễ. Từ năm thứ 6 (1741), mỗi lần Càn Long Đế xuất tuần xuất kinh đều do Dận Đào lưu lại kinh sư tổng lý sự vụ. Năm thứ 11 (1746), tháng 2, trở thành Ngọc điệp quán Tổng tài (玉牒馆总裁). Năm thứ 13 (1748), Dận Đào phụng mệnh phụ trách toàn bộ tang nghi của Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu. 1 năm sau, ông nhậm chức Hội điển quán Tổng tài, phụ trách tổng biên soạn "Thanh Hội điển" lần thứ 3. 2 năm sau (1750), tháng 1, Càn Long Đế dụ: Dận Đào được Càn Long Đế xếp vào vị trí đứng đầu trong những người có thể ngồi kiệu thượng triều. Tháng 3 cùng năm, con trai duy nhất của Dận Đào là Hoằng Côn mất lúc mới 12 tuổi, Càn Long Đế an ủi: "Dĩ lễ tiết ai, thừa thị Thái phi, miễn phó trẫm ý", đem Hoàng tứ tử Vĩnh Thành quá kế Dận Đào. Năm thứ 18 (1753), Dận Đào, Dận Lộc, Hoằng Trú đều nhậm Quân cơ xứ Nghị chính đại thần. 1 năm sau, thân mẫu Dận Đào là Định Thái phi bị bệnh, Càn Long Đế đích thân đến vương phủ thăm hỏi. Năm thứ 20 (1755), tháng 2, quản lý Chính Hoàng kỳ Giác La học (觉罗学). Năm thứ 21 (1756), tháng 6, 72 tuổi Dận Đào mới chính thức được miễn quản lý sự vụ Tông nhân phủ. Tháng 11, Càn Long Đế lại một lần nữa đến vương phủ thăm Định Thái phi. Tháng 4 năm sau thì Định Thái phi mất, thọ 97 tuổi. Năm Càn Long thứ 28 (1763), Dận Đào qua đời, được truy thuỵ là Lý Ý Thân vương (履懿親王). Càn Long Đế mệnh Vĩnh Thành lấy hiếu tống chung, trì phục 100 ngày, lại mệnh Hòa Thân vương Hoằng Trú cùng Hoàng ngũ tử Vĩnh Kỳ mặc tang phục, tang táng lễ nghi đều do Hoằng Trú, Hoằng Chí tận tâm xử lý. Gia quyến Thê thiếp Đích Phúc tấn: Phú Sát thị (富察氏), em họ của Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, con gái của Đại học sĩ Mã Tề (馬齊), sinh con trai thứ 2 và thứ 3. Trắc Phúc tấn: Phương Giai thị (方佳氏), con gái của Tứ phẩm Điển vệ Phương Văn Bân (方文彬), sinh con trai thứ 4 và thứ 6, con gái thứ 4 và thứ 6. Quản Giai thị (管佳氏), con gái của Quản Hữu Xương (管有倉). Thứ Phúc tấn: Vương Giai thị (王佳氏), con gái của Vương Đức Chính (王德政). Lý Giai thị (李佳氏), con gái của Khinh xa Đô uý Xa Nhĩ Đặc (車爾特), sinh trưởng nữ. Mai thị (邁氏), con gái của Viên ngoại lang Cửu Cách (九格). Trần thị (陳氏), con gái của Trần Đại Ma (陳大麻). Lý thị (李氏), con gái của Lý Đại (李大), sinh con gái thứ 2. Diêu thị (姚氏), con gái của Quản lĩnh Mã Sắc (瑪色), sinh trưởng tử. Hậu duệ Con trai Dận Đào có 6 con trai, trong đó 4 người con trai đầu chết non, người con út vừa sinh đã mất. Trưởng tử (1703), mẹ là Thứ Phúc tấn Diêu thị. Chết yểu. Theo Ái Tân Giác La Tông phổ, Vĩnh Thành quá kế thừa tự Dận Đào được ghi dưới danh nghĩa vị này. Thứ tử (1706 - 1707), mẹ là Đích Phúc tấn Phú Sát thị. Chết yểu. Hoằng Thị (弘是, 1707 - 1710), mẹ là Đích Phúc tấn Phú Sát thị. Chết yểu. Tứ tử (1728 - 1731), mẹ là Trắc Phúc tấn Phương Giai thị. Chết yểu. Hoằng Côn (弘昆; 1739 - 1750), mẹ là Trắc Phúc tấn Quản Giai thị. Chết yểu khi mới 11 tuổi, chiếu theo lệ của Thế tử mà hạ táng. Lục tử (1742), mẹ là Trắc Phúc tấn Phương Giai thị. Chết yểu. Con gái Trưởng nữ (1703 - 1767), mẹ là Thứ Phúc tấn Lý Giai thị, được phong Quận chúa. Năm 1721 hạ giá lấy Thai cát Đạt Nhĩ Mã Đạt Đô (達爾瑪達都) của Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị. Thứ nữ (1723), mẹ là Thứ Phúc tấn Lý thị. Chết yểu. Tam nữ (1728), mẹ là Trắc Phúc tấn Quản Giai thị. Chết yểu. Tứ nữ (1736 - 1825), mẹ là Trắc Phúc tấn Phương Giai thị, được phong Quận chúa. Năm 1753 hạ giá lấy Tương Dũng hầu Minh Lượng (明亮) của Phú Sát thị, cháu nội của Lý Vinh Bảo. Ngũ nữ (1740 - 1797), mẹ là Thứ Phúc tấn Vương Giai thị, được phong Hương quân. Năm 1756 hạ giá lấy Cổn Tế Lạp Hi (袞齊拉喜) của Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị. Lục nữ (1741 - 1743), mẹ là Trắc Phúc tấn Phương Giai thị. Chết yểu. Thừa tự Lý Đoan Thân vương Vĩnh Thành (永珹; 21 tháng 2, 1739 - 5 tháng 4, 1777), con trai thứ 4 của Càn Long Đế. Trong văn hoá đại chúng Chú thích Tham khảo Thanh sử cảo, Quyển 220, Liệt truyện thất Ái Tân Giác La Tông phổ Hoàng tử nhà Thanh Sinh năm 1686 Mất năm 1763 Thân vương tông thất nhà Thanh Người Mãn Châu Tương Bạch kỳ Lý Thân vương
19485397
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yevgeny%20Savvich%20Ptukhin
Yevgeny Savvich Ptukhin
Yevgeny Savvich Ptukhin (; 3 tháng 3 năm 1902 - 23 tháng 2 năm 1942) là một sĩ quan chỉ huy Không quân Liên Xô, tham gia trong Nội chiến Nga, Nội chiến Tây Ban Nha, Chiến tranh Mùa đông và giai đoạn đầu của Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Bị bắt cùng với nhiều cựu binh khác trong Nội chiến Tây Ban Nha với cáo buộc bịa đặt là nằm trong một âm mưu chống Liên Xô, cuối cùng ông bị tuyên bố phạm tội phản quốc và bị xử bắn không cần xét xử theo lệnh của Lavrenty Beria vào tháng 2 năm 1942. Ông được phục hồi danh dự năm 1954. Thiếu thời Ptukhin sinh ngày 3 tháng 3 năm 1902 trong một gia đình người Nga ở Yalta. Vào thời điểm đó, cha ông là một nhân viên bưu điện, nhưng gia đình chuyển đến Moskva vào năm 1905 sau khi cha ông nhận được công việc quản lý một chuồng ngựa. Lớn lên ở Moskva, Yevgeny đã học hết bậc tiểu học trước khi đăng ký vào một trường kỹ thuật ở Rozhdestvenka. Tuy nhiên, ông phải từ bỏ việc học vào năm 1914 sau khi sức khỏe của cha ông suy giảm và anh trai ông phải nhập ngũ, buộc ông phải bắt đầu làm việc để chăm sóc gia đình. Ông đã làm nhiều công việc khác nhau, bao gồm làm khuân vác cho các nhà ga xe lửa, nhân viên giao báo và điện thoại viên, trước khi gia nhập Hồng quân để theo đuổi sự nghiệp hàng không quân sự. Ban đầu bị Hồng quân từ chối vì còn quá trẻ, ông đã khai man về tuổi của mình, khẳng định mình lớn hơn hai tuổi để được chấp nhận khi tái nộp đơn. Sự nghiệp quân sự Ban đầu Ptukhin làm thợ máy trong Cụm hàng không số 3 Moskva, nơi ông gặp và kết thân với một vị tướng không quân tương lai khác, Pyotr Pumpur. Không lâu sau khi gia nhập Đảng Cộng sản vào năm 1918, ông được điều động đến các vùng chiến sự trong Nội chiến Nga, nơi ông làm công việc sửa chữa các máy bay thuộc Phi đội Pháo binh Hàng không số 1. Sau khi chiến đấu ở mặt trận Ba Lan, ông tiếp tục theo đuổi nỗ lực để được nhận vào trường phi công, nhưng ông đã trượt môn toán trong kỳ thi tuyển sinh do trình độ học vấn thấp. Không từ bỏ ước mơ trở thành phi công, ông bắt đầu học tập chăm chỉ để có thể đến trường bay. Sau khi không ngừng theo đuổi sự nghiệp hàng không bằng cách học và làm thợ máy, cuối cùng ông đã có thể theo học trường dạy bay Lipetsk bắt đầu từ tháng 12 năm 1923. Một thời gian ngắn trước khi trường bị giải tán và tất cả các học viên được chuyển đến Borisoglebsk, ông đã thực hiện chuyến bay đầu tiên của mình vào ngày 4 tháng 4 năm 1924, lái chiếc N-14. Chẳng bao lâu Ptukhin tốt nghiệp trường bay Borisoglebsk trong nhóm 20 sinh viên giỏi nhất và được gửi đến Serpukhov để đào tạo thêm trước khi được bổ nhiệm vào phi đội của mình vào cuối năm 1924; người bạn cũ của anh, Pyotr Pumpur, được chỉ định vào cùng một phi đội và cả hai rất vui khi được hội ngộ. Tháng 7 năm 1925, phi đội được lệnh tham gia vào cuộc tấn công của một cuộc nổi dậy Menshevik; được giao nhiệm vụ bay do thám và bắn, một phi công từ phi đội (Senko) đã bị bắn hạ bởi những người Menshevik nổi dậy vào ngày 11 tháng 7, nhưng đã chạy thoát khỏi máy bay của mình trước khi những kẻ bạo loạn đến. Chỉ vài ngày trước đó vào ngày 3 tháng 7, phi đội đã được đặt tên để vinh danh Feliks Derzhinsky, nhưng vào tháng 12 năm 1926, nó được đổi tên thành Phi đội Hàng không độ lập số 7 và đặt dưới quyền chỉ huy của Aleksey Shirinkin. Ptukhin nhanh chóng thăng tiến qua các cấp bậc, được thăng cấp chỉ huy phi đội năm 1926 và sau đó là chỉ huy phi đoàn năm 1927. Bộ chỉ huy của ông sau đó quyết định gửi ông đến Học viện Không quân để đào tạo thêm, và năm 1929 ông tốt nghiệp khóa đào tạo nâng cao về chỉ huy - tham mưu trước khi được giao nhiệm vụ chỉ huy Trung đoàn Hàng không Tiêm kích độc lập số 15. Sau khi được bổ nhiệm làm tư lệnh kiêm chính ủy Lữ đoàn Hàng không hỗn hợp 450 vào tháng 5 năm 1934, ông học lái máy bay R-5 để bay cùng các máy bay ném bom trong đơn vị của mình, nhưng ông quan tâm nhiều hơn đến máy bay chiến đấu. Sau khi lữ đoàn nhận được I-5, ông đã tăng cường nỗ lực huấn luyện bay, kết quả là lữ đoàn được ghi nhận là có tỷ lệ giờ bay cao và số vụ tai nạn thấp hơn so với năm ngoái. Tháng 7 năm 1935, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy Lữ đoàn Hàng không 142, và vào tháng 11 năm đó, ông được phong cấp bậc Lữ đoàn trưởng (kombrig). Các hoạt động của lữ đoàn của ông tăng cường từ năm 1935 đến năm 1936 khi Quân khu Belarussia được Voroshilov lên kế hoạch kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu. Ptukhin đã đưa lữ đoàn của mình trải qua quá trình huấn luyện căng thẳng, cho máy bay ném bom R-5 bay với các mục tiêu thực hành cho máy bay chiến đấu I-16 để thực hành bắn độ chính xác. Sau khi thể hiện khả năng sẵn sàng chiến đấu, ông đã tham dự một cuộc họp với một số chỉ huy đơn vị khác, nơi ông tranh luận với chỉ huy sư đoàn 4 kỵ binh về cách thức và thời điểm sử dụng hàng không trong chiến đấu. Ngày 15 tháng 5 năm 1937, Ptukhin được chỉ định tham gia nhóm cố vấn quân sự Liên Xô cho lực lượng Cộng hòa trong Nội chiến Tây Ban Nha. Với bí danh Tướng José, các máy bay chiến đấu Ptukhin bay cho Lực lượng Không quân Cộng hòa Tây Ban Nha. Sau một vụ đánh bom đêm vào tháng 7 khiến ông bị thương bởi một mảnh đạn ở chân, ông đã từ chối đến bệnh viện và nhất quyết tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. Mặc dù các máy bay chiến đấu I-15 và I-16 của Liên Xô được trang bị gặp bất lợi trước các máy bay chiến đấu mới hơn do Đức sản xuất mà phe phát xít sử dụng, cụm hàng không dưới sự chỉ huy của Ptukhin vẫn giành được một số chiến thắng trên không ở Tây Ban Nha, kết quả là ông được trao tặng Huân chương của Lenin vào ngày 22 tháng 12. Không lâu sau khi trở về Liên Xô, ông được thăng vượt cấp lên Quân đoàn trưởng (komkor) vào ngày 22 tháng 2 năm 1938. Sau khi được thăng cấp, Ptukhin được bổ nhiệm làm chỉ huy lực lượng không quân của Quân khu Leningrad. Ông đã dành nhiều thời gian bên chiếc máy bay chiến đấu I-16, hướng dẫn phi công cách lái nó bên cạnh việc lái chiếc máy bay trong cuộc duyệt binh Ngày Tháng Năm. Tuy nhiên, ông đã sớm được triệu tập để tham gia khóa đào tạo chỉ huy tại Học viện Bộ Tổng tham mưu ở Moskva. Sau khi tốt nghiệp vào tháng 2 năm 1939, ông trở lại vị trí cũ của mình. Trước khi bắt đầu Chiến tranh Mùa đông, ông đã nói chuyện với Stalin về việc sử dụng các sân bay ở Estonia trong trường hợp xung đột với Phần Lan. Ngay sau khi bắt đầu cuộc chiến với Phần Lan, Stalin đã ban hành lệnh cho xây dựng một căn cứ không quân trên đảo Dago, nơi hoàn toàn là rừng. Tháng 1 năm 1940, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy của lực lượng không quân Mặt trận Tây Bắc mới thành lập, bao gồm nhiều đơn vị máy bay ném bom, máy bay chiến đấu và máy bay trinh sát. Hơn 500 máy bay dưới sự chỉ huy của ông đã tham gia rất nhiều vào cuộc tấn công vào Tuyến Mannerheim của eo đất Karelia, thường liên quan đến việc các phi công thực hiện nhiều lần xuất kích mỗi ngày. Ngay sau khi kết thúc xung đột, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô vào ngày 21 tháng 3 năm 1940, và vào ngày 4 tháng 6 năm 1940, ông được thăng cấp Trung tướng. Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Ptukhin được thăng chức làm Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng không, nhưng do những căng thẳng của công việc, ông chuyển sang làm Tư lệnh Không quân Quân khu Kiev vào mùa xuân. Ở vị trí đó, ông trở nên lo ngại về tần suất máy bay Đức xâm nhập không phận Liên Xô trong các chuyến bay do thám và bày tỏ mong muốn bắn hạ chúng. Đặc biệt lo ngại về mối đe dọa quân sự gây ra bởi một cuộc xâm lược tiềm tàng của Đức, ông đã ra lệnh sử dụng ngụy trang trên mặt đất trên các sân bay và hầm trú ẩn để bảo vệ máy bay trong trường hợp đối phương bắn phá, nhưng không phải tất cả các hầm trú ẩn đều được hoàn thành kịp thời để ngăn chặn việc lực lượng không quân quân khu bị quân Đức phá hủy khi Chiến dịch Barbarossa nổ ra. Bị đàn áp Ptukhin bị cách chức và bị bắt vào cuối tháng 6 năm 1941 sau khi các sân bay dưới quyền chỉ huy của ông bị tổn thất nặng nề sau Chiến dịch Barbarossa. Ông bị đưa đến nhà tù Butyrskaya vài ngày sau đó và bị buộc tội tham gia vào một âm mưu chống Liên Xô dựa trên lời khai ép cung của các chỉ huy cấp cao khác bị bắt theo lệnh của Beria trong cuộc thanh trừng của Hồng quân và Không quân, bao gồm cả Yakov Smushkevich, Sergey Chernobrovkin và Pavel Yusupov. Những lời khai ép cung này cáo buộc rằng Ptukhin đã hoạt động trong một âm mưu chống Liên Xô từ năm 1935 và được Ieronim Uborevich tuyển mộ. Sau khi ông bị bắn theo lệnh của Beria vào ngày 23 tháng 2 năm 1942 và được chôn cất tại một địa điểm không xác định, ông chính thức bị tước các phần thưởng quân sự theo sắc lệnh của đoàn chủ tịch Xô Viết Tối cao vào ngày 15 tháng 5 năm 1943. Hơn một thập kỷ sau, ông được phục hồi danh dự vào ngày 6 tháng 10 năm 1954 do thiếu các bằng chứng và đến ngày 22 tháng 5 năm 1965, các giải thưởng quân sự của ông đã được phục hồi. Giải thưởng Chú thích Thư mục Anh hùng Liên Xô Đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô Trung tướng Liên Xô Huân chương Lenin Huân chương Cờ đỏ Huân chương Sao đỏ Người Nga Nạn nhân Cuộc Thanh trừng Hồng quân 1941
14982337
https://vi.wikipedia.org/wiki/P%C4%99kanino%2C%20H%E1%BA%A1t%20Bia%C5%82ogard
Pękanino, Hạt Białogard
Pękanino (tiếng Đức: Groß Panknin) là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Białogard, thuộc quận Białogard, West Pomeranian Voivodeship, ở phía tây bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng phía bắc Białogard và về phía đông bắc của thủ đô khu vực Szczecin. Trước năm 1945, khu vực này là một phần của Đức. Đối với lịch sử của khu vực, xem Lịch sử của Pomerania. Làng có dân số 40 người. Tham khảo
2622811
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hydriomena%20fulvoundata
Hydriomena fulvoundata
Hydriomena fulvoundata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Hydriomena
2671418
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zamarada%20torrida
Zamarada torrida
Zamarada torrida là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Zamarada
2932653
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maliattha%20angustitaenia
Maliattha angustitaenia
Maliattha angustitaenia là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Maliattha
2910968
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anomis%20edentata
Anomis edentata
Anomis edentata là một loài bướm đêm trong họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Anomis
2936639
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mythimna%20osseogrisea
Mythimna osseogrisea
Mythimna osseogrisea là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Mythimna
13591144
https://vi.wikipedia.org/wiki/Citrulline
Citrulline
Hợp chất hữu cơ citrulline là một axit α-amin. Tên của nó có nguồn gốc từ citrullus, một từ Latin chỉ dưa hấu, vì nó được phân lập từ loại quả này lần đầu tiên vào năm 1914 bởi Koga và Odake. Citrulline cuối cùng được xác định bởi Wada vào năm 1930. amino acid này có công thức H2NC(O)NH(CH2)3CH(NH2)CO2H. Đây là một chất trung gian quan trọng trong chu trình urê, con đường mà các động vật có vú chuyển đổi amonia thành urê để bài tiết. Citrulline cũng được tạo ra như một sản phẩm phụ của quá trình sinh nitơ oxit từ amino acid arginine, xúc tác bởi enzyme nitric oxide synthase. Sinh tổng hợp Citrulline được tạo thành từ ornithine và carbamoyl phosphate ở một trong những phản ứng trung tâm trong chu kỳ urê. Chất này cũng được tạo ra từ arginine như một sản phẩm phụ của phản ứng xúc tác bởi họ NOS (nitric oxide synthase) (NOS; EC 1.14.13.39). Citrulline cũng có thể được tạo ra từ arginine bởi enzyme trichohyalin ở bao rễ mầm và ở tủy nang lông. Arginine đầu tiên sẽ được oxy hóa thành N-hydroxyl-arginine, sau đó nó sẽ được tiếp tục oxy hóa thành citrulline đồng thời giải phóng nitơ oxit. Chức năng Một số protein có chứa citrulline như là kết quả của quá trình sửa đổi sau dịch mã. Những chuỗi bên citrulline này được tạo ra bởi một họ enzyme gọi là peptidylarginine deiminases (PADs), chuyển đổi arginine thành citrulline trong một quá trình gọi là citrulline hóa hoặc deimination. Protein có chứa chuỗi bên citrulline có thể kể đến protein myelin cơ bản (MBP), filaggrin và một số protein histone, trong khi các protein khác, chẳng hạn như fibrin và vimentin dễ bị citrulline hóa trong quá trình chết của tế bào và viêm mô. Nồng độ citrulline trong tuần hoàn máu là một chỉ tiêu sinh học cho chức năng đường ruột. Chú thích
14324678
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A5t%20c%E1%BA%A3m%20gi%C3%A1c%20%C4%91au%20b%E1%BA%A9m%20sinh
Mất cảm giác đau bẩm sinh
Mất cảm giác đau bẩm sinh (tiếng Anh: congenital insensitivity to pain - CIP hay congenital analgesia) là một dạng rối loạn bẩm sinh khiến cho người mắc không cảm nhân được cơn đau. Hội chứng này có thể gây nguy hiểm cho người bệnh, bởi họ sẽ làm cơ thể tổn thương, chảy máu, nhiễm trùng mà không nhận thức được. Hiện giới khoa học đang nghiên cứu để cứu chữa, các chuyên gia cho rằng hiện tượng này do đột biến gen di truyền gây ra. Tham khảo Liên kết ngoài The Hazards of Growing Up Painlessly By JUSTIN HECKERT, New York Times, ngày 15 tháng 11 năm 2012. Profile of Ashlyn Blocker, 13, who has congenital insensitivity to pain. Đau Bệnh hiếm gặp Hội chứng
19533691
https://vi.wikipedia.org/wiki/2021%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
2021 tại Việt Nam
Dưới đây là sự kiện trong năm tại Việt Nam 2021. Đương nhiệm Sự kiện Diễn ra trong năm Đợt sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính tại Việt Nam 2019–2021 Đại dịch COVID-19 tại Việt Nam (dòng thời gian năm 2021) Năm Du lịch quốc gia 2021 Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2021 Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia 2021 Tháng 1 11 tháng 1: Việt Nam công bố Hoàn thành đề án Số hóa Truyền dẫn, phát sóng Truyền hình Mặt đất đến năm 2020 25 tháng 1–1 tháng 2: Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII 31 tháng 1: Nguyễn Phú Trọng được tái đề cử làm Tổng bí thư cho nhiệm kì thứ ba. Tháng 5 23 tháng 5: Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XV Tháng 7 23 tháng 7–2 tháng 8: Việt Nam tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020 Tháng 8 24 tháng 8–5 tháng 9: Việt Nam tham gia Thế vận hội Người khuyết tật Mùa hè 2020. Tháng 11 11 tháng 11: Số ca mắc COVID-19 tại Việt Nam vượt mốc 1 triệu kể từ đầu dịch. 14 tháng 11: Chung kết Đường lên đỉnh Olympia năm thứ 21. Tháng 12 22 tháng 12: Vụ án hành hạ bé gái 8 tuổi. Mất Tháng 1 3 tháng 1: Trần Quốc Lịch, 85, tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa 4 tháng 1: Đinh Văn Bồng, 74, sĩ quan 5 tháng 1: Nguyễn Quang Riệu, 88, nhà vật lý thiên văn 7 tháng 1: Nguyễn Vĩnh Bảo, 102, nhạc sĩ người Việt Nam 15 tháng 1: Lệ Thu, 77, ca sĩ. 16 tháng 1: Nguyễn Phúc Phương Mai, 83, con gái của Bảo Đại và Nam Phương hoàng hậu 19 tháng 1: Lâm Quang Thi, 88, tướng lĩnh gốc Pháo binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa 27 tháng 1: Lịch Du, 80, diễn viên điện ảnh, nhà biên kịch Trung Kiên, 81, nghệ sĩ Phạm Hồng Cư, 94, Trung tướng 31 tháng 1: Kim Giác, 84, nghệ sĩ cải lương Tháng 2 3 tháng 2: Phùng Bá Thường, 97, Thiếu tướng 8 tháng 2: Hồ Bắc, 90, nhạc sĩ 10 tháng 2: Quốc Anh, 72, ca – nhạc sĩ 11 tháng 2: Trần Quang Bình, 74–75, Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam 14 tháng 2: Hoàng Dũng, 64, nghệ sĩ Nguyễn Tài Thu, 89, giáo sư, bác sĩ 19 tháng 2: Trương Vĩnh Trọng, 78, chính trị gia 27 tháng 2: Nguyễn Chân, 91, chính trị gia 28 tháng 2: Lê An, 84, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam Trần Tiến Cung, 92–93, sĩ quan Tháng 3 4 tháng 3: Trần Hạnh, 91, nghệ sĩ sân khấu và truyền hình 18 tháng 3: Lê Hằng, 85, ca sĩ 20 tháng 3: Nguyễn Huy Thiệp, 70, nhà văn Tháng 4 8 tháng 4: Phạm Vũ Hồng, 59–60, chính trị gia 16 tháng 4: Phượng Vũ, 73, ca sĩ, nhạc sĩ 18 tháng 4: Chung Tấn Phát, 88, tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa 20 tháng 4: Hoàng Nhuận Cầm, 69, nhà thơ 21 tháng 4: Lê Hoài Thanh, 70–71, sĩ quan Tháng 5 7 tháng 5: Lê Hồng Phương, 67, chính trị gia Lê Thụy Hải, 75, cầu thủ, huấn luận viên bóng đá 14 tháng 5: Khánh Ngọc, 84, ca sĩ, diễn viên 19 tháng 5: Nhật Dũng, 40, nhà thiết kế áo dài Tháng 6 2 tháng 6: Phạm Duy Tân, 87–88, sĩ quan 3 tháng 6: Nguyễn Minh Hà, 63, bác sĩ, sĩ quan 5 tháng 6: Nguyễn Thu Thủy, 44, hoa hậu 13 tháng 6: Lê Cung Bắc, 75, diễn viên, đạo diễn 24 tháng 6: Trần Thiện Khiêm, 95, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa 25 tháng 6: Nguyễn Văn Lập, 93–94, quân nhân Tháng 7 22 tháng 7: Sơn Tùng, 92, nhà văn 26 tháng 7: Vũ Trọng Kính, 91–92, bác sĩ, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam Nguyễn Hồng Sinh, 67–68, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam 30 tháng 7: Đỗ Vinh Quang, 64–65, tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam 31 tháng 7: Nhất Tuấn, 85–86, nhà thơ Tháng 8 1 tháng 8: Mai Đại Từ, 72–73, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam 3 tháng 8: Đỗ Quang Em, 78, họa sĩ 4 tháng 8: Giang Còi, 58, nghệ sĩ hài 12 tháng 8: Lê Văn Tĩnh, 85, nhà giáo, đạo diễn Việt Quang, 44, ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên 14 tháng 8: Quốc Trụ, 80, nhà giáo, nghệ sĩ opera 15 tháng 8: Vũ Hạnh, 95, nhà văn Châu Hà, 86, ca sĩ 25 tháng 8: Bạch Mai, 72, soạn giả và nghệ sĩ cải lương Triệu Thị Chơi, 75, nhà giáo, nghệ nhân Phùng Văn Khầu, 90–91, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân 26 tháng 8: Nguyễn Thanh Dũng, 71–72, sĩ quan Tháng 9 5 tháng 9: Thế Bình, 66, Trung tá, diễn viên 11 tháng 9: Phùng Quang Thanh, 72, Đại tướng Hoàng Vĩnh Giang, 75, nhà hoạt động thể thao Mai Phước Liệu, 70–71, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam 15 tháng 9: Ngô Mạnh Lân, 86, họa sĩ, đạo diễn 21 tháng 9: Trương Hán Minh, 69, họa sĩ, nghệ nhân 23 tháng 9: Nguyễn Văn Trung, 74–75, quân nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam 25 tháng 9: Đặng Văn Việt, 101, trung tá 28 tháng 9: Phi Nhung, 51, ca sĩ 30 tháng 9: Vũ Khiêu, 105, học giả nghiên cứu về văn hóa Việt Nam Tháng 10 10 tháng 10: Phạm Phi Hùng, 87, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam 15 tháng 10: Nguyễn Thị Mai Anh, 91, phu nhân của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu 21 tháng 10: Thích Phổ Tuệ, 104, tu sĩ Phật giáo Trần Cảnh Đôn, 62, đạo diễn 24 tháng 10: Bùi Diễm, 98, chính trị gia 26 tháng 10: Vũ Hướng, 86–87, Phó giáo sư âm nhạc Tháng 11 2 tháng 11: Vũ Hải, sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam 22 tháng 11: Vũ Quốc Thúc, 101, giáo sư, nhà kinh tế học và chính trị gia 25 tháng 11: Nguyễn Hồng Nhị, 84, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam 27 tháng 11: Nguyễn Tiến, 68, nhạc sĩ 28 tháng 11: Trần Doãn Kỷ, 93–94, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam Tháng 12 8 tháng 12: Phú Quang, 72, nhạc sĩ 22 tháng 12 Nguyễn Hiền, 91, sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam Nguyễn Thái Vân An, 8, học sinh 23 tháng 12: Thanh Kim Huệ, 67, nghệ sĩ cải lương 26 tháng 12: Trúc Thông, 81, nhà thơ 30 tháng 12: Trần Quang Hải, 77, nhạc sư, mất tại Pháp Tham khảo 2021 2021 Châu Á năm 2021 Năm 2021 theo quốc gia
2801228
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gelis%20delumbis
Gelis delumbis
Gelis delumbis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Gelis
2581045
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ceryx%20sumatrensis
Ceryx sumatrensis
Ceryx sumatrensis là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Ceryx
2925572
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paradrina%20nigrolimbata
Paradrina nigrolimbata
Paradrina nigrolimbata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Paradrina
2585932
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zotalemimon%20borneotica
Zotalemimon borneotica
Zotalemimon borneotica là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Zotalemimon
19491707
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lars%20H%C3%B6rmander
Lars Hörmander
Lars Valter Hörmander (sinh ngày 24 tháng 1 năm 1931 - mất ngày 25 tháng 11 năm 2012) là một nhà toán học người Thuỵ Điển, được đánh giá là nhà toán học có công nhất trong việc phát triển lý thuyết phương trình đạo hàm riêng tuyến tính hiện đại. Ông nhận huy chương Fields năm 1962, giải Wolf về Toán học năm 1988 và giải Leroy P. Steele năm 2006. Tuyển tập "Analysis of Linear Partial Differential Operators I-IV" của ông được xem như một tài liệu chuẩn mực trong việc nghiên cứu về lý thuyết phương trình đạo hàm riêng tuyến tính. Hörmander nhận bằng tiến sĩ (Ph.D) năm 1955 tại đại học Lund. Sau đó, ông làm việc tại đại học Stockholm, đại học Stanford và viện Nghiên cứu Cao cấp Princeton. Ông sau đó quay lại đại học Lund và giữ chức giáo sư từ năm 1968 cho đến năm 1996, năm ông nghỉ hưu và nhận danh hiệu giáo sư danh dự. Tiểu sử Giáo dục Hörmander sinh ở Mjällby, một vùng thuộc Blekinge ở miền nam Thuỵ Điển, ông có cha là một giáo viên. Như anh chị của mình, ông học trường cấp hai tại một thị trấn gần nhà nơi mà ông có thể đi lại hằng ngày bằng tàu hoả. Ông học trường phổ thông ở Lund và tốt nghiệp năm 1948. Vào thời điểm ông bắt đầu học phổ thông, nhà trường đã có một thí nghiệm trong việc giảm thời gian học tập, từ ba năm xuống hai năm, và thời lượng học hàng ngày giảm xuống còn ba tiếng. Sự tự do trong việc học tập đã có tác động rất lớn tới ông. Hörmander nhận được sự ảnh hưởng tích cực từ thầy giáo dạy toán hăng hái của mình, một giảng viên tại đại học Lund, người đã khuyến khích ông học toán ở trình độ đại học. Sau khi nhận bằng thạc sĩ (Master's degree) tại đại học Lund vào năm 1950. Ông bắt đầu làm nghiên cứu sinh dưới sự hướng dẫn của Marcel Riesz (Người đồng thời cũng là thầy hướng dẫn của thầy giáo dạy Hörmander hồi phổ thông). Ông có nghiên cứu đầu tiên về lý thuyết hàm và giải tích điều hoà cổ điển. Ông sau đó chuyển hướng sáng phương trình đạo hàm riêng khi Riesz nghỉ hưu và Lars Gårding (người làm việc trong lĩnh vực phương trình đạo hàm riêng) được bổ nhiệm làm giáo sư. Ông phải dừng việc nghiên cứu một năm để tham gia nghĩa vụ quân sự mặc dù dựa trên vị trí học thuật của mình ông có thể tiếp tiepieejc nghiên cứu mà bỏ qua nghĩa vụ quân sự. Luận án tiến sĩ của ông: "On the theory of general partial differential operators" được hoàn thành vào năm 1955. Huy chương Fields và những năm tháng ở Hoa Kỳ Ông nộp đơn cho chức vụ giáo sư tại đại học Stockholm, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn ông chuyển đến Hoa Kỳ. Ông làm việc tại nhiều đại học khác nhau, Đại học Chicago, Đại học Kansas, Đại học Minnesota, và cuối cùng là viện toán Courant ở thành phố New York. Trong thời gian làm việc ở các trường đại học này, ông đã học được nhiều thứ về phương trình đạo hàm riêng, chỉ trừ đại học Chicago (tuy nhiên ông nhấn mạnh rằng những seminar tổ chức bởi Elias M. Stein và Guido Weiss đã giúp ông hiểu thêm về giải tích điều hoà). Trong lý thuyết về các toán tử vi phân tuyến tính, "nhiều người đã có những đóng góp nhưng hầu hết những kết quả sâu và quan trọng nhất đều thuộc về Hörmander", trích lời của thầy ông (Lars Gårding). Hörmander nhận huy chương Fields năm 1962. Ông nhận vị trí giáo sư bán thời gian tại Stanford vào năm 1963, nhưng sau đó nhanh chóng nhận được một vị trí giáo sư tại Viện nghiên cứu cao cấp Princeton. Ông ban đầu không muốn rời Thuỵ Điển, nhưng thất bại trong việc tìm kiếm một vị trí giáo sư nghiên cứu và "cơ hội để nghiên cứu toàn thời gian trong một môi trường hoạt động tích cực rất khó để chống lại" vì thế ông nhận lời mời từ cả Stanford và Stockholm và bắt đầu làm việc từ mùa thu năm 1964. Sau hai năm làm việc "vất vả", ông cảm thấy môi trường làm việc quá khắt khe và khắc nghiệt. Năm 1967, ông quyết định quay về Lund. Những năm sau đó Hầu hết thời gian còn lại của Hörmander là ở Lund, nơi ông giữ chức giáo sư từ năm 1968. Ông cũng có thăm Hoa Kỳ vài lần trong hai thập kỷ tiếp theo. Ông thăm viện toán Courant năm 1970, viện nghiên cứu cao cấp năm 1971 và trong cả một năm học 1977-1978 khi mà một năm đặc biệt về microlocal analysis được tổ chức. Ông cũng đến Stanford năm 1971, 1977 và 1982, đại học California, San Diego vào mùa đông 1990. Từ năm 1984 đến năm 1986, ông có làm hiệu trưởng của học viện Mittag-Leffler ở Stockholm. Ông cũng giữ cương vị chủ tịch của IMU từ năm 1987 đến năm 1990. Hörmander nghỉ hưu ở Lund vào tháng 1 năm 1996. Vào năm 2006, ông nhận giải Leroy P. Steele từ Hội Toán học Hoa Kỳ. Ông là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển vào năm 1968. Năm 1970, ông được mời báo cáo toàn thể tại ICM (tổ chức ở Nice). Ông nhận giải Wolf về Toán học năm 1988 cho " những đóng góp nền tảng trong giải tích hiện đại, đặc biệt là việc áp dụng toán tử giả vi phân và toán tử tích phân Fourier vào phương trình đạo hàm riêng tuyến tính ". Năm 2012, ông trở thành thành viên của Hội Toán học Hoa Kỳ nhưng mất vào ngày 25 tháng 11 cùng năm, trước khi danh sách những thành viên được công bố. Xuất bản quan trọng Xem thêm Hörmander's condition Thư mục Hörmander, Lars. Autobiography. Fields Medallists' Lectures. M. Sir Michael Atiyah & D. Iagolnitzer (editors). World Scientific. J. J. O'Connor & E. F. Robertson. Lars Hörmander . MacTutor archive biography. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2005 Tham khảo Ghi chú Wolf Foundation. The 1988 Wolf Foundation Prize In Mathematics. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2005. L. Gårding. Hörmander's work on linear differential operators. Proceedings of the International Congress of Mathematicians. Stockholm, 1962 (Stockholm, 1963). As quoted by O'Connor & Robertson. Wolf Foundation. Unknown. "About the Author". Amazon.com entry for The Analysis of Linear Partial Differential Operators I. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2005 Wolf Foundation. Liên kết ngoài
19572190
https://vi.wikipedia.org/wiki/CFD
CFD
Trong lĩnh vực tài chính, CFD là viết tắt của contract for difference (hợp đồng chênh lệch) là hợp đồng giữa hai bên, thường được mô tả là "người mua" và "người bán". Hợp đồng này chính là thỏa thuận giữa người mua và người bán để trao đổi chênh lệch giữa giá mở cửa và giá đóng cửa của tài sản đang được giao dịch như cố phiếu, forex, hàng hóa hay kim loại giao ngay. CFD do các nhà môi giới cung cấp. Tuy nhiên, không giống như những loại tài sản nêu trên, CFDs là một dạng giao dịch phái sinh. Chú thích Đọc thêm Andy Richardson, Contracts for Difference FAQs What is CFD Trading Cách quản lý rủi ro trong giao dịch CFD Thị trường chứng khoán Thị trường tài chính
3233249
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fulengia
Fulengia
Fulengia là một chi khủng long, được Carroll & Galton mô tả khoa học năm 1977. Xem thêm Danh sách khủng long Chú thích Khủng long Fulengia Động vật tuyệt chủng Động vật được mô tả năm 1977 Dự án Khủng long/Theo dõi
14937071
https://vi.wikipedia.org/wiki/Atletico%20Roma%20F.C.
Atletico Roma F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Atletico Roma là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Rome, Ý. Câu lạc bộ được thành lập với tên Nuova Tor Sapienza Calcio, được đổi tên thành Cisco Tor Sapienza vào năm 1998. Sau nhiều lần sáp nhập, câu lạc bộ là sau này được biết đến như AS Cisco Collatino, AS Roma Cisco Calcio (2003-04, 2005-2010) và AS Cisco Lodigiani (2004-05). Câu lạc bộ cũng chơi ở Serie C (Lega Pro Prima Divisione) từ năm 2005 đến 2011. Mùa giải 2010-11, câu lạc bộ được biết đến với cái tên Atletico Roma FC. Một số câu lạc bộ đã được thành lập như là tên để gợi nhắc Atletico Roma hoặc Cisco Collatino sau năm 2010 và 2011, năm thành lập của Cisco Roma và Atletico Roma ban đầu. Lịch sử A.S. Cisco Collatino AS Cisco Collatino là một câu lạc bộ bóng đá Ý, trước đây gọi là Cisco Tor Sapienza. Câu lạc bộ là tên của quận của Rome cũng như khu vực của Rome. Cisco Tor Sapienza được mua lại bởi tập đoàn Cisco Italia vào năm 1998. Trước khi mua lại, câu lạc bộ được biết đến với cái tên Nuova Tor Sapienza Calcio. Cisco Collatino đã thắng 2001-02 Eccellenza Lazio vào giữa năm 2002 và được thăng hạng 2002 . Năm 2003, Cisco Collatino sáp nhập với một câu lạc bộ nhỏ hơn và đổi tên thành Cisco Calcio Roma. Sau khi sáp nhập năm 2003, đã có những cái tên GS Cisco Collatino ASD, một học viện trẻ, cũng như một câu lạc bộ bóng đá mini Cisco Collatino Futsal. A.S. Cisco Calcio Roma (2003-04) A.S. Cisco Calcio Roma là một câu lạc bộ bóng đá Ý. Nó được thành lập vào năm 2003 bởi sự hợp nhất của AS Cisco Collatino và A.Pol. Bufalotta. Sau này là tên của khu vực của Rome. Câu lạc bộ kết thúc ở vị trí thứ 10 năm Nhóm F. Năm 2004, Cisco Calcio Roma sáp nhập với AS Lodigiani. Mặc dù AS Lodigiani là pháp nhân còn sống sót, Cisco Calcio Roma là thương hiệu còn tồn tại. A.S. Cisco Lodigiani (2004-05) AS Cisco Lodigiani được thành lập vào năm 2004 bởi sự hợp nhất của hai câu lạc bộ thuộc sở hữu của gia đình Tulli của tập đoàn Cisco Italia. Cisco Calcio Roma và AS Lodigiani tương ứng. Lodigiani được mua bởi tập đoàn Cisco Italia vào năm 2003. Nói một cách chính xác, giấy phép của AS Lodigiani đã được đổi tên thành AS Cisco Lodigiani vào năm 2004, được đổi lại thành Cisco Calcio Roma vào năm 2005. Trong khi giấy phép của AS Cisco Calcio Roma đã được bán vào năm 2004, để trở thành ASD Frascati Calcio, đã trở thành Lupa Frascati vào năm 2006. Sự xáo trộn đã làm cho sự biến mất của Lodigiani, trong khi Cisco đạt được "sự thăng tiến" lên giải đấu chuyên nghiệp, trong khi Lupa Frascati tránh sự xuống hạng từ Serie D, cũng như việc tạo ra USD Tor di Quinto bằng cách sử dụng giấy phép của Lupa Frascati cũ. A.S. Cisco Calcio Roma (2005-2010) Vào năm 2005, Cisco Lodigiani đã được hoàn nguyên về tên trước đó của một trong những đội tiền nhiệm, Cisco Calcio Roma. Tên viết tắt là Cisco Roma. Cisco Roma đã chơi từ 2005-06 đến 2009-10 trong Lega Pro Seconda Divisione (ex Serie C2), mặc dù nó đã bắt đầu mùa giải Serie C2 2006-2007 với tham vọng thăng hạng lớn, sau khi ký hợp đồng với cựu ngôi sao của West Ham và Lazio, Paolo Di Canio: đội đứng thứ 2 tại Serie C2 bảng C, nhưng thua Reggiana trong trận bán kết thăng hạng. Vào ngày 11 tháng 6 năm 2009, Mario và Davide Ciaccia đã mua nó ngay lập tức khởi động lại đội mà thực tế vào cuối mùa giải 2009-10 Lega Pro Seconda Divisione, đã được thăng hạng lên Prima Divisione với tư cách là chiến thắng trong trận play-off. Atletico Roma FC (2010-11) Vào ngày 7 tháng 7 năm 2010, câu lạc bộ đã đổi tên thành Atletico Roma FC và màu sắc của nó thành màu xanh và trắng, để tạo khoảng cách từ lịch sử của Lodigiani và từ bỏ một tên công ty, vì cả Lodigiani và Cisco đều là các công ty có trụ sở tại Rome. Vào ngày 18 tháng 7 năm 2011 Atletico Roma FC đã bị loại khỏi Lega Pro Prima Divisione theo quyết định của Hội đồng Liên đoàn bóng đá Ý. Màu sắc và huy hiệu Màu sắc của đội là đỏ và trắng trong kỷ nguyên AS Cisco Calcio Roma. Nó đã được đổi thành màu xanh và trắng trong mùa 2010-11 trong kỷ nguyên Atletico Roma FC. Trong kỷ nguyên AS Cisco Calcio Roma, câu lạc bộ đã sử dụng logo giống với AS Lodigiani. Trong phiên bản thứ hai của logo, nó có hình một con hổ và năm 1972, năm thành lập của AS Lodigiani. Trong kỷ nguyên Atletico Roma FC, câu lạc bộ vẫn giữ lại năm 1972 trong logo. Cisco Collatino Futsal, một tên gọi của Cisco Collatino tiền nhiệm của Cisco Roma, đã sử dụng cùng một biểu tượng con hổ, nhưng với tên câu lạc bộ của riêng mình và năm 1968 trên đó. Tên ASD Cisco Collatino Futsal, tỏ lòng tôn kính với AS Cisco Collatino ban đầu, kể từ mùa giải 2018*19 vẫn hoạt động như một học viện trẻ, câu lạc bộ bóng đá nữ và mini, Câu lạc bộ bóng đá 8 người. Câu lạc bộ đó có số đăng ký FIGC 934.859. Trong một cuộc phỏng vấn, Mario Ricca, Giám đốc thể thao của câu lạc bộ, đã tiết lộ rằng Cisco Collatino Futsal đã liên kết với Torino từ năm 2015. Cisco Collatino Futsal đã hoàn thành vào ngày 6 tháng 12 năm 2011-12 Serie D Rome Group D. Cisco Collatino Futsal được thành lập vào khoảng năm 2011. Có một cái tên khác, Gruppo Sportivo Cisco Collatino ASD, với số đăng ký FIGC là 916.287. Câu lạc bộ đã được hủy đăng ký thành viên của Liên đoàn bóng đá Ý (FIGC) vào năm 2006. Pháp nhân của GS Cisco Collatino ASD được thành lập vào tháng 9 năm 1994. Câu lạc bộ thể thao cũng liên kết với Ủy ban Olympic quốc gia Ý (CONI) vào năm 2013 với tư cách là thành viên của Unione Sportiva ACLI. Một tên gọi khác, ASD Real Cisco Collatino, là một sự khởi đầu của ASD Res Roma vào năm 2010 Cisco Collatino thực sự đã tham gia vào năm 20101111 Prima Cargetoria. Câu lạc bộ xuống hạng ở vị trí cuối cùng của nhóm D. Số đăng ký của câu lạc bộ đó là 932.247. Câu lạc bộ đó đã trở thành Real 100Celle trong mùa 2011-12. Năm 2017, một câu lạc bộ nhỏ từ Rome đã được đổi tên từ SSD Atletico Calcio Roma thành ASD Atletico Roma. Số đăng ký của câu lạc bộ đó là 934.725. Các câu lạc bộ đã hoàn thành như ngày 6 2017-18 Prima Thể loại Lazio Nhóm C. câu lạc bộ đó được đổi tên thành ASD Tor Lupara 1968 tại vào năm 2018. Atletico Calcio Roma được biết đến với cái tên ASD Atletico Torrenova trước năm 2013. Tham khảo Liên kết ngoài   Tra ng web chính thức của Cisco Collatino Futsal Số liên kết bản mẫu Interlanguage link Câu lạc bộ bóng đá Ý đã giải thể
2796827
https://vi.wikipedia.org/wiki/Enicospilus%20guatemalensis
Enicospilus guatemalensis
Enicospilus guatemalensis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Enicospilus
14638273
https://vi.wikipedia.org/wiki/BBB%20Korea
BBB Korea
BBB Korea là một tổ chức phi lợi nhuận tại Hàn Quốc cung cấp dịch vụ phiên dịch miễn phí từ các phiên dịch viên tình nguyện. Tổ chức được thành lập năm 2003 với mục tiêu tạo ra một xã hội không có rào cản về ngôn ngữ hay văn hóa. Đây hiện là một hiệp hội kết hợp của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc. BBB Korea có trụ sở tại Seoul, Hàn Quốc. BBB là viết tắt của 'before babel brigade.' Điều này cho thấy thế giới trước khi xây dựng Tháp Babel, khi tất cả mọi người chia sẻ một ngôn ngữ duy nhất mà không gặp bất kỳ khó khăn nào trong giao tiếp. Lịch sử BBB Korea lần đầu tiên bắt đầu như một chiến dịch vào năm 2002 cho FIFA World Cup và Đại hội Thể thao châu Á 2002. Chiến dịch BBB nhằm mục đích giúp du khách liên lạc tại Hàn Quốc bằng cách cung cấp dịch vụ phiên dịch miễn phí. Dịch vụ này được thực hiện bằng cách sử dụng các cuộc gọi điện thoại. Năm 2003, BBB Korea được thành lập như một tổ chức phi lợi nhuận. Nó liên tục hỗ trợ các sự kiện quốc tế được tổ chức tại Hàn Quốc, như Thế vận hội mùa đông Pyeongchang 2018. Hiện tại, đây là một tổ chức với hơn 4.500 tình nguyện viên cho 20 ngôn ngữ. Chương trình Dịch vụ phiên dịch Những người gặp khó khăn về ngôn ngữ có thể quay số BBB Korea để sử dụng dịch vụ phiên dịch mà không mất phí. Dịch vụ thông dịch BBB có thể được sử dụng bằng cách quay số và chọn ngôn ngữ thông qua hệ thống phản hồi tự động (ARS). Sau đó, người nói sẽ tự động được kết nối với một thông dịch viên tình nguyện. Một cách khác là tải xuống ứng dụng BBB trên điện thoại thông minh. Trên ứng dụng, người dùng có thể chọn ngôn ngữ họ cần và được kết nối với trình thông dịch tương ứng. Những ai muốn tình nguyện trở thành một thông dịch viên tình nguyện của BBB Korea có thể đăng ký thông qua trang web BBB Korea. Ứng viên được đưa ra các tình huống đòi hỏi sự hiểu biết cao về ngôn ngữ cũng như các yếu tố tình huống. Sau khi vượt qua bài kiểm tra ngôn ngữ này và hoàn thành giáo dục phiên dịch, người nộp đơn có thể trở thành một thông dịch viên tình nguyện BBB. Ngôn ngữ Tiếng Anh Tiếng Việt Tiếng Trung Tiếng Nhật Tiếng Pháp Tiếng Tây Ban Nha Tiếng Ý Tiếng Nga Tiếng Đức Tiếng Bồ Đào Nha Tiếng Ả Rập Tiếng Ba Lan Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Tiếng Thụy Điển Tiếng Thái Tiếng Indonesia Tiếng Mông Cổ Tiếng Hindi Tiếng Malaysia Tiếng Swahili Dự án toàn cầu BBB Korea theo đuổi các dự án toàn cầu là tốt. Năm 2014, nó đã triển khai dịch vụ BBB ở Brazil cho World Cup Brazil. Dự án được đặt tên là "Rio Amigo". Đó là một dự án cung cấp dịch vụ phiên dịch miễn phí cho người Brazil và du khách Brazil. Dự án này cho phép giao tiếp giữa các ngôn ngữ khác. Ngoài ra BBB đang lên kế hoạch "BBB dự án Indonesia" với mục tiêu cung cấp dịch vụ phiên dịch tại Indonesia. Chương trình văn hoá Trung tâm văn hóa Hàn Quốc BBB Korea vận hành lớp học dạy tiếng Hàn và văn hóa Hàn Quốc. Những trung tâm này cung cấp giờ học văn hóa và tiếng Hàn như lớp học nhảy K-P. Trung tâm nằm ở Myanmar và Việt Nam. Chương trình giao lưu văn hóa BBB Korea hàng năm mở "Ngày của bạn bè quốc tế BBB". Trong "Ngày của bạn bè quốc tế BBB", thành viên của BBB và cả những người nước ngoài cũng tận hưởng các hoạt động văn hóa. "Ngày của bạn bè quốc tế BBB" đã được mở ra trong rừng Seoul năm 2018. Chiến dịch trò chuyện BBB Korea tổ chức các chiến dịch để quảng bá "Hàn Quốc không có rào cản ngôn ngữ" với dịch vụ phiên dịch. Các chiến dịch đã được thực hiện ở nhiều nơi như sân bay Incheon, nhà ga Seoul, v.v. BBB Probono (Nhóm tình nguyện sinh viên) BBB Probono là một nhóm tình nguyện sinh viên của BBB Korea. Probono định nghĩa là "vì lợi ích chung." Nhóm sinh viên giới thiệu văn hóa khác nhau trên khắp thế giới với mục tiêu giảm thiểu các rào cản văn hóa. Nó tổ chức các chương trình văn hóa khác nhau như thiết kế nội dung trực tuyến và tổ chức các chiến dịch. BBB Tạp chí Heart&Communication Mỗi mùa, BBB Korea xuất bản một tạp chí có tựa đề "Heart&Communication". Tạp chí chia sẻ các bài báo và các cuộc phỏng vấn liên quan đến ngôn ngữ và văn hóa. Tham khảo Tổ chức xã hội
2906016
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acronicta%20melanocephala
Acronicta melanocephala
Acronicta melanocephala là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Acronicta
14936540
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mark%20Harris%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20Anh%29
Mark Harris (cầu thủ bóng đá Anh)
Mark Andrew Harris (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1963 ở Reading) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh. Ông bắt đầu sự nghiệp cùng với Wokingham Town trước khi ký hợp đồng với Crystal Palace vào tháng 6 năm 1988. Ông có khoảng thời gian thi đấu cho mượn tại Burnley và chỉ có 2 lần ra sân cho Palace đều ở vị trí dự bị trong mùa giải 1988–89. Năm 1989, ông chuyển đến Swansea City, nơi ông có 228 lần ra sân, ghi 14 bàn từ sau đó đến năm 1995. Sau đó ông thi đấu cho Gillingham và Cardiff City và có hơn 300 lần ra sân ở English Football League. Ông kết thúc sự nghiệp tại Kingstonian, nơi ông giành FA Trophy năm 1999 và 2000. Tham khảo Liên kết ngoài Mark Harris, Post War English & Scottish Football League A - Z Player's Transfer Database Sinh năm 1963 Nhân vật còn sống Vận động viên Reading, Berkshire Cầu thủ bóng đá Anh Hậu vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá Wokingham Town F.C. Cầu thủ bóng đá Crystal Palace F.C. Cầu thủ bóng đá Burnley F.C. Cầu thủ bóng đá Swansea City A.F.C. Cầu thủ bóng đá Gillingham F.C. Cầu thủ bóng đá Cardiff City F.C. Cầu thủ bóng đá Kingstonian F.C. Cầu thủ bóng đá English Football League
2798558
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erigorgus%20tuolumnensis
Erigorgus tuolumnensis
Erigorgus tuolumnensis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Erigorgus
9387254
https://vi.wikipedia.org/wiki/Taniguchi%20Hiroyuki
Taniguchi Hiroyuki
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Anh thi đấu cho đội bóng J1 League Sagan Tosu. Anh là thành viên của đội tuyển Nhật Bản tham gia Thế vận hội Mùa hè 2008. Thống kê sự nghiệp Cập nhật đến ngày 23 tháng 2 năm 2018. Thống kê sự nghiệp đội tuyển quốc gia Số lần ra sân trong các giải đấu lớn Danh hiệu Kashiwa Reysol J. League Cup (1): 2013 Cá nhân J. League Best XI (1): 2006 J. League Cup New Hero Award (1): 2006 Tham khảo Liên kết ngoài Profile at Sagan Tosu Profile at Kawasaki Frontale Sinh năm 1985 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản Cầu thủ bóng đá J1 League Cầu thủ bóng đá J2 League Cầu thủ bóng đá Kawasaki Frontale Cầu thủ bóng đá Yokohama F. Marinos Cầu thủ bóng đá Kashiwa Reysol Cầu thủ bóng đá Sagan Tosu Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Nhật Bản Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2008 Cầu thủ bóng đá Đại hội thể thao châu Á 2006 Tiền vệ bóng đá
2845274
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paragymnopleurus%20martinezi
Paragymnopleurus martinezi
Paragymnopleurus martinezi là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae). Chú thích Liên kết ngoài Paragymnopleurus
3175872
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20Nguy%E1%BB%85n
Bảo Nguyễn
Bảo Nguyễn (sinh năm 1980), (tên đầy đủ tiếng Việt Nguyễn Quốc Bảo, nhưng thường được gọi là Bao Nguyen trong tiếng Anh) là một chính khách người Mỹ gốc Việt thuộc Đảng Dân chủ Hoa Kỳ. Anh là người trẻ tuổi nhất và là người gốc Việt đầu tiên thắng cử thị trưởng thành phố Garden Grove, California, Hoa Kỳ. Anh cũng là Thị trưởng gốc Việt thứ tư ở Mỹ, đồng thời là thị trưởng da màu đầu tiên trong lịch sử của Garden Grove. Sự nghiệp Bảo Nguyễn sinh tại trại tị nạn tại Thái Lan, khi cha mẹ anh vượt biển tới Thái Lan sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Anh cùng gia đình đến Hoa Kỳ khi chỉ mới 3 tháng tuổi. Anh tốt nghiệp Đại học California tại Irvine và làm giáo viên, sau đó anh là nhà tổ chức của một hội bảo vệ người lao động. Bảo Nguyễn có bằng cử nhân khoa học chính trị ở Đại học California tại Irvine (UC Irvine). Anh cũng đã tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành nghiên cứu về Phật giáo Indo – Tây Tạng của trường Đại học Naropa (trường Đại học tư của Phật giáo Tây Tạng tại Boulder, Colorado). Năm 2000, khi thượng nghị sĩ John McCain đang thực hiện chiến dịch tranh cử tổng thống tại Little Saigon, sinh viên trẻ Bảo Nguyễn để lại dấu ấn khi anh đã phản đối việc ông John McCain sử dụng từ "gooks" để nhắc tới người đã bắt ông McCain trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bảo Nguyễn có thể nói thạo cả 3 ngôn ngữ tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Anh cho biết sẽ tận dụng ưu thế này để hàn gắn những chia rẽ trong thành phố đa sắc tộc của mình trong thời gian làm thị trưởng. Gia đình Bảo không có ai theo nghiệp chính trị và theo anh, mọi người trong gia đình đều tự hào về thành quả bước đầu của anh. Vị thị trưởng nói, "Tôi luôn ghi nhớ những hy sinh của cha mẹ tôi để tôi có được ngày hôm nay". Tranh cử thị trưởng thành phố Garden Grove Bảo Nguyễn nguyên là ủy viên hội đồng giáo dục của Học khu Thống nhất Garden Grove phục vụ nhiều thành phố trong quận Cam bao gồm cả thành phố Garden Grove. Năm 2014, anh ra tranh cử chức vụ thị trưởng thành phố Garden Grove. Anh vận động dưới cương lĩnh đưa lại sức sống cho các khu phố trong thành phố, và tập trung vào khu vực thương mại để thu hút các công ty công nghệ cao đem lại việc làm lương cao. Trong cuộc vận động bầu cử này, đối thủ chính của anh là đương kim thị trưởng Bruce Broadwater đã chỉ trích anh là "thân cộng" do các phát biểu của anh trước kia. Ảnh đã nhận được sự ủng hộ của tờ báo Orange County Register. Ngày 17 tháng 11, sau khi Quận Cam kiểm xong phiếu bầu, Bảo Nguyễn đã bất ngờ giành 11.785 phiếu, hơn chính trị gia kỳ cựu Bruce Broadwater 15 phiếu trong cuộc bầu cử giữa kỳ (Bruce Broadwater có 11.770 phiếu). Ứng cử viên Bruce Broadwater đã khiếu nại kiểm phiếu lại. Kết quả kiểm lại vào cuối tháng 11, phần thắng vẫn nghiêng về Bảo. Thị trưởng đang đương nhiệm Bruce Broadwater đã tuyên bố từ bỏ cuộc kiểm phiếu lại. Anh đã trở thành thị trưởng người Mỹ gốc Việt đầu tiên của thành phố Garden Grove vốn có gần 200.000 dân tại quận Cam, California và có khoảng 28% người gốc Việt. Thắng lợi đắc cử của Bảo là một bất ngờ vì tuổi đời, tuổi nghề và số tiền vận động cho cuộc tranh cử của anh tất cả chỉ bằng khoảng phân nửa so với thị trưởng đương nhiệm của thành phố Garden Grove. Bảo đã tuyên thệ nhậm chức vào ngày 9 tháng 12 năm 2014. Nhiều người Mỹ gốc Việt hi vọng rằng, với chức thị trưởng của anh cùng với ông Tạ Đức Trí, người Mỹ gốc Việt đầu tiên được bầu làm thị trưởng của thành phố Westminster, California và ông Michael Võ, vừa tái đắc cử thị trưởng ở thành phố Fountain Valley, sẽ tạo nên những tiếng nói mạnh mẽ cho cộng đồng người gốc Việt lớn nhất Hoa Kỳ tại Little Saigon. Đây cũng là lần đầu tiên cả ba thành phố nằm cận kề nhau, nơi có đông người Việt sinh sống, đều có thị trưởng là người gốc Việt Nam. Tranh cử đại biểu quốc hội Bảo Nguyễn hiện đang tranh cử đại biểu quốc hội 2016 thay thế chỗ trống của nữ đại biểu Loretta Sanchez đại diện cho khu vực 46 của California. Về cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2016, anh là một người ủng hộ Bernie Sanders. Theo anh, ông ấy là ứng viên tổng thống duy nhất đủ can đảm để đối đầu với những nhóm lợi ích đang lan tràn tại thủ đô Washington. Liên quan đến Việt Nam Bảo Nguyễn đã gặp mặt (tháng 5 năm 2016) Vũ Minh Khanh, vợ của luật sư nhân quyền và nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Văn Đài, mà sang Hoa Kỳ nói chuyện về những vi phạm nhân quyền, nơi các công dân bị giam riêng biệt mà không buộc tội như chồng bà. Anh đã viết thư cho tổng thống Obama và ngoại trưởng John Kerry để nhờ can thiệp thả ông Đài. Câu nói "... Khó khăn lớn nhất thực ra là về tài chính, Tôi đấu tranh cho quyền lợi của người lao động và người nghèo. Tuy được mọi người ủng hộ, vấn đề lớn nhất của chúng tôi là về chi phí rất tốn kém để trang trải cho cuộc vận động.". "... Tôi muốn chống lại những bất công, và lắng nghe mọi tiếng nói từ người dân. Tôi cảm thấy đó như là trách nhiệm từ sâu thẳm trong tôi"" "..Tôi rất vui mừng được bắt đầu triển khai những bước cải cách hợp lý và thay đổi văn hóa tại Hội đồng Thành phố sao cho minh bạch, hiệu quả và có nhiều tiếng nói đóng góp hơn nữa" "...Khi ông ấy (John McCain) nói từ đó, nó sẽ dẫn đến sự hận thù, bất kể ông ta nghĩ gì. Điều đó rất nhạy cảm với mọi người châu Á, đối với người Mỹ, từ "gook" (con khỉ) ông ấy nói chính là tôi và chúng ta đều giống nhau" Đời tư Tháng 7, 2015, anh công khai là người đồng tính. Xem thêm John Trần, trị trưởng gốc Việt đầu tiên tại Mỹ, nhưng không do dân bầu cử trực tiếp Tạ Đức Trí, thị trưởng gốc Việt đầu tiên do dân bầu cử trực tiếp Michael Võ (Võ Đức Minh), thị trưởng không do dân bầu cử trực tiếp Tham khảo Liên kết ngoài Trang web vận động chính Facebook của Bảo Nguyễn Video Thị trưởng đắc cử Bảo Nguyễn gặp cử tri, nói về kế hoạch tương lai, youtube. Video Bắt đầu tái kiểm phiếu giữa Bảo Nguyễn & Broadwater, nguoiviettv. Video Thị trưởng đắc cử Bảo Nguyễn tiếp xúc truyền thông, gotivi. Hồ Văn Xuân Nhi, Chúc Mừng Bảo Nguyễn - Ngôi sao chính trị tương lai người Mỹ gốc Việt của Đảng Dân Chủ , Sống Magazine, 19/11/2014 Gustavo Arellano, Bao Nguyen Is Garden Grove's History-Making Mayor in More Ways Than His Ethnicity , OC Weekly, Nov. 25 2014 Người Mỹ gốc Việt Thị trưởng Hoa Kỳ Sinh năm 1980 Người Sài Gòn Chính khách gốc Việt Đảng viên Đảng Dân chủ Hoa Kỳ Người tị nạn Việt Nam Nhà hoạt động quyền LGBT Mỹ Chính khách đồng tính nam Chính khách Mỹ thế kỷ 21
3218985
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calculating%20Infinity
Calculating Infinity
Calculating Infinity là album phòng thu đầu tay của ban nhạc mathcore người Mỹ The Dillinger Escape Plan, phát hành vào tháng 11 năm 1999 bởi Relapse Records. Calculating Infinity cho thấy ban nhạc thực hiện các nhạc phẩm nặng và kỹ thuật hơn. Đây là album dài duy nhất của The Dillinger Escape Plan với hát chính là Dimitri Minakakis. Album này được xem là một cột mốc của mathcore. Danh sách bài hát Thành phần tham gia The Dillinger Escape Plan Dimitri Minakakis – hát chính Ben Weinman – lead guitar, bass, bộ tổng hợp Brian Benoit – rhythm guitar Chris Pennie – trống Sản xuất Ben Weinman – sản xuất Chris Pennie – sản xuất Adam Doll – liner notes Alan Douches – master Steve Evetts – sản xuất, kỹ thuật Aaron Harris – phụ tá Jason Hellmann – phụ tá Matthew F. Jacobson – sản xuất phụ Adam Peterson – đồ họa bìa đĩa Tham khảo Album của The Dillinger Escape Plan Album năm 1999 Album đầu tay năm 1999
19493522
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bixente%20Lizarazu
Bixente Lizarazu
Bixente Jean-Michel Lizarazu () (sinh 9 tháng 12 năm 1969) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp, từng chơi cho Bordeaux và Bayern Munich, và một số đội khác, ở vị trí hậu vệ trái. Ông đã có 97 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Pháp. Trong 12 năm thi đấu quốc tế từ 1992 đến 2004, Lizarazu đã tham dự ba giải vô địch châu Âu và hai giải vô địch thế giới cùng đội tuyển Pháp, vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 và Giải vô địch bóng đá châu Âu 2000. Sự nghiệp câu lạc bộ Bordeaux Có đam mê với một số môn thể thao khi còn trẻ, Lizarazu bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp với Girondins de Bordeaux, gia nhập đội trẻ của câu lạc bộ vào năm 1984 khi 15 tuổi và ban đầu chơi ở vị trí tiền vệ cánh. Sau khi được cho biết sẽ không có được một sự nghiệp bóng đá thành công vì thể chất không đáp ứng ở tuổi thiếu niên, ông đã gây ấn tượng với ban huấn luyện bằng sự quyết tâm của mình và trở thành thành viên của đội chính vào năm 1988 cùng với tiền đạo Christophe Dugarry. Ông được đào tạo lại để chơi ở vị trí hậu vệ cánh trái chuyên phản công, theo gợi ý của huấn luyện viên Didier Couécou và sớm thay thế cựu binh Gernot Rohr (sau trở thành huấn luyện viên của câu lạc bộ) ở vị trí này. Năm 1990 Bordeaux giành ngôi á quân ở Giải vô địch Pháp, nhưng đến năm tiếp theo, họ phải xuống hạng vì những vấn đề tài chính. Lizarazu ở lại câu lạc bộ và giúp đội bóng nhanh chóng trở lại hạng cao nhất sau một mùa giải hạng hai năm 1992. Câu lạc bộ ký hợp đồng với Zinedine Zidane, người trở thành một nhân tố quan trọng khác của đội bóng,. Bordeaux hai lần hạng tư và một lần hạng bảy trong ba mùa tiếp theo, trong đó Lizarazu chơi 101 trận và ghi 15 bàn thắng. Mùa hè năm 1995, Bordeaux vô địch Cúp Intertoto và giành được vé tham dự Cúp UEFA 1995–96. Họ vào đến tận chung kết dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Rohr, thắng Real Betis, A.C. Milan và Slavia Prague trước khi thua Bayern München 1–5 sau hai lượt trận chung kết. Tuy nhiên phong độ ở giải quốc nội của họ đi xuống. Bordeaux chỉ đứng hạng 16. Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 1996 mùa hè năm đó, Dugarry, Zidane và Lizarazu được triệu tập vào đội tuyển Pháp và lọt vào đến bán kết. Sau đó, cả ba ra nước ngoài tìm kiếm những thử thách mới: Zidane gia nhập Juventus, Dugarry đến Milan còn Lizarazu vẫn ở lại địa phương nhưng chuyển sang thi đấu nước ngoài tại Athletic Bilbao, nơi có khoảng cách đến nhà ông ở xứ Basque tại Pháp tương đương với Bordeaux. Ông chơi 299 trận cho đội bóng Bordeaux đã đào tạo mình, ghi 28 bàn thắng. Athletic Bilbao Do chính sách chuyển nhượng của Athletic chỉ tuyển cầu thủ sinh tại Basque hoặc có gốc gác xứ Basque, Lizarazu là cầu thủ người Pháp đầu tiên khoác áo câu lạc bộ này. Ông chỉ chơi có một mùa tại La Liga, Vì chấn thương háng dai dẳng, Lizarazu đã không thể thế chỗ Aitor Larrazábal nhiều kinh nghiệm ở cánh trái, nhận tới hai thẻ đỏ sau 16 trận ở giải quốc gia và bất đồng với huấn luyện viên trưởng Luis Fernández. Khi mùa bóng 1997 kết thúc, ông chuyển sang Bayern München. Bayern München Trước khi chơi trận đầu tiên tại Bundesliga, Lizarazu đã có được danh hiệu với câu lạc bộ mới khi vô địch Cúp Liên đoàn bóng đá Đức năm đầu tiên. Đây là khởi đầu cho một chuỗi thành công của Lizarazu tại Bavaria, mặc dù có một số chấn thương nghiêm trọng làm gián đoạn. Ông có được sáu chức vô địch Bundesliga (trong đó ba lần liên tiếp từ 1999 đến 2001), năm chức vô địch Cúp bóng đá Đức, Champions League năm 2001 (ghi bàn trong loạt sút luân lưu), và Cúp bóng đá liên lục địa. Với việc vô địch Cúp liên lục địa năm 2001, ông trở thành cầu thủ đầu tiên là đương kim vô địch châu Âu và thế giới ở cả cấp độ câu lạc bộ và đội tuyển. Lizarazu tuyên bố rời Bayern vào mùa hè năm 2004 và ký hợp đồng với Olympique de Marseille. Tuy nhiên, chỉ sau sáu tháng trở về Pháp, ông quay lại Bayern München vào tháng 1 năm 2005. Trong giai đoạn thứ hai ở Bayern, kết thúc vào năm 2006 (cũng là kết thúc sự nghiệp) khi ông nhường vị trí cho cầu thủ mới nổi Philipp Lahm, Lizarazu mặc áo số 69. Ông nói rằng số áo này không liên quan đến tình dục, mà lý do là ông sinh năm 1969, chiều cao 1m69 và cân nặng 69 kg. Ông chơi 268 trận tổng cộng cho Bayern từ 1997 đến 2006 và ghi 8 bàn., trong đó có 183 trận thi đấu ở Bundesliga. Sự nghiệp đội tuyển Lizarazu lần đầu khoác áo đội tuyển Pháp vào tháng 11 năm 1992, dưới quyền của huấn luyện viên Gérard Houllier. Ông chơi trận đấu gặp Phần Lan (Pháp thắng 2-1). Sinh ra ở xứ Basque nên Lizarazu đủ điều kiện chơi cho đội tuyển xứ Basque. Vì đội tuyển này không phải đội tuyển quốc gia chính thức nên có thể tập hợp được tất cả các cầu thủ có gốc gác xứ Basque (người Tây Ban Nha và Pháp). Ngày 22 tháng 12 năm 1993, Lizarazu được triệu tập vào đội tuyển xứ Basque trong trận đấu gặp Bolivia, với 23 000 khán giả ở San Sebastián và giành chiến thắng 3-1. Đây là trận duy nhất của Lizarazu đá cho xứ Basque. Lizarazu mất gần 4 năm mới có được vị trí ổn định trong tuyển Pháp. Trong thời gian đó, ông đôi khi được sử dụng như một cầu thủ thay thế ở vị trí tiền vệ trái và bị Éric Di Meco chiếm mất vị trí hậu vệ trái sở trường. Phải đến Euro 1996, Lizarazu mới trở thành cầu thủ chính thức, thi đấu ở hàng hậu vệ với Laurent Blanc, Marcel Desailly và Lilian Thuram. Trong giải đấu quốc tế lớn đầu tiên, ông đã cùng Pháp lọt vào bán kết, thua trên chấm phạt đền trước Cộng hòa Séc. Lizarazu khoác áo đội tuyển Pháp 97 lần, ghi 2 bàn và cùng đội tuyển vô địch World Cup 1998 và Euro 2000, có tên trong đội hình xuất phát ở chung kết cả hai giải đấu. Ông giã từ đội tuyển sau khi Pháp bất ngờ bị Hy Lạp loại khỏi Euro 2004. Thống kê sự nghiệp Chú thích Cầu thủ bóng đá nam Pháp Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2001 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2003 Hậu vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá Bundesliga Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha Cầu thủ bóng đá Bayern München Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp Cầu thủ bóng đá Olympique de Marseille
3247039
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20Oscar%20l%E1%BA%A7n%20th%E1%BB%A9%2069
Giải Oscar lần thứ 69
Lễ trao giải Oscar lần thứ 69 là buổi lễ trao giải của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ tổ chức, vinh danh những thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực điện ảnh được ra mắt trong khoảng thời gian năm 1996. Lễ trao giải được tổ chức tại Shrine Auditorium, thành phố Los Angeles vào ngày 24 tháng 3, 1997. Trong suốt hơn 3 giờ đồng hồ diễn ra buổi lễ, các giải thưởng đã được trao ở 24 hạng mục. Như thường lệ, đài ABC tường thuật trực tiếp lễ trao giải qua vô tuyến; Gilbert Cates và Louis J. Horvitz vẫn giữ vai trò nhà sản xuất và đạo diễn. Nam diễn viên Billy Crytal trở lại dẫn dắt chương trình lần đầu tiên kể từ Oscar 62. Vào 1 tháng 3, buổi lễ trao giải Oscar cho thành tựu kỹ thuật được diễn ra tại Beverly Hills, California. Bệnh nhân người Anh là phim giành được nhiều giải thưởng nhất, bao gồm Phim hay nhất. Những phim khác cũng giành giải thưởng gồm có Fargo với hai giải, các phim còn lại: Breathing Lessons: The Life and Work of Mark O'Brien, Dear Diary, Emma, Evita, The Ghost and the Darkness, Independence Day, Jerry Maguire, Quest, The Nutty Professor, Kolja, Sling Blade, Shine, When We Were Kings mỗi phim giành một giải. Giải thưởng và Đề cử Các đề cử của giải được công bố vào 11 tháng 2 năm 1997 tại nhà hát Samuel Goldwyn, Beverly Hills, California bởi Robert Rehme - giám đốc viện hàn lâm và nữ diễn viên Mira Sovino. Bệnh nhân người Anh nhận được 12 đề cử, qua đó trở thành phim giành nhiều đề cử nhất; Fargo và Shine giành 7 đề cử mỗi phim. Tại lễ trao giải, với chiến thắng của Bệnh nhân người Anh, Saul Zaentz là nhà sản xuất đầu tiên có 3 phim giành giải phim hay nhất, hai phim trước gồm có Bay trên tổ chim cúc cu và ''Amadeus. Giải thưởng Tên người và phim nhận giải được in đậm Giải Oscar danh dự Michael Kidd Giải thưởng Irving G. Thalberg Saul Zaentz Phim có nhiều để cử và giải thưởng Danh sách phim nhận nhiều đề cử: Danh sách hai phim nhận nhiều giải thưởng: Xem thêm Giải Oscar Giải Grammy Giải Quả Cầu Vàng Giải Emmy Giải Tony Chú thích Liên kết ngoài Trang web chính thức 069 Oscar Hoa Kỳ năm 1997
2593749
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rhipha%20albiplaga
Rhipha albiplaga
Rhipha albiplaga là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Rhipha
2709888
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lyndia%20cannarum
Lyndia cannarum
Lyndia cannarum là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Lyndia Động vật được mô tả năm 1816
2755527
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euexorista%20rebaptizata
Euexorista rebaptizata
Euexorista rebaptizata là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Euexorista
13630033
https://vi.wikipedia.org/wiki/Triiodothyronine
Triiodothyronine
Triiodothyronine, hay còn được gọi là T3, là một hormone tuyến giáp. Nó ảnh hưởng đến hầu như mọi quá trình sinh lý trong cơ thể, bao gồm sinh trưởng và phát triển, sự trao đổi chất, nhiệt độ cơ thể và nhịp tim. Việc sản xuất T3 và tiền hormone thyroxine (T4) được kích hoạt bởi hormone kích thích tuyến giáp (TSH), được giải phóng từ thùy trước tuyến yên. Con đường này là một phần của quá trình vòng phản hồi khép kín: Nồng độ cao của T3, và T4 trong huyết tương sẽ ức chế sự sản xuất TSH ở thùy trước tuyến yên. Khi nồng độ của các T3 và T4 giảm, thùy trước tuyến yên sẽ tăng sản xuất TSH, và bởi các quá trình này, hệ thống kiểm soát phản hồi giúp ổn định lượng hormone tuyến giáp trong máu. T3 là hormone thực sự. Ảnh hưởng của nó lên các mô đích mạnh gấp bốn lần so với T4. Trong số các hormone tuyến giáp được tạo ra, chỉ khoảng 20% ​​là T3, trong khi 80% được tạo ra là T4. Khoảng 85% T3 tuần hoàn sau đó được hình thành ở gan và thùy trước tuyến yên bằng cách loại bỏ nguyên tử iod từ nguyên tử cacbon số năm của vòng ngoài của T4. Trong mọi trường hợp, nồng độ T3 trong huyết tương người là bằng khoảng một phần mười so với T4. Thời gian bán rã của T3 khoảng 2,5 ngày. Thời gian bán rã của T4 dài hơn khoảng 2,5 lần, 6,5 ngày. Tác dụng T3 làm tăng tỷ lệ trao đổi chất cơ bản và do đó làm tăng mức tiêu thụ oxy và năng lượng của cơ thể. Tỷ lệ trao đổi chất cơ bản là lượng calo yêu cầu tối thiểu mà cần thiết để duy trì sự sống ở một cá thể đang nghỉ ngơi. T3 hoạt động trên phần lớn các mô trong cơ thể, với một vài ngoại lệ bao gồm lá lách và tinh hoàn. Nó cũng làm tăng sản xuất Na+/K+-ATPase (thường chiếm một phần đáng kể tổng chi ATP của tế bào) mà không làm gián đoạn sự cân bằng ion của màng tế bào, và nói chung, làm tăng sự quay vòng của các đại phân tử nội sinh khác nhau bằng cách tăng tổng hợp và phân giải của chúng. Chú thích Tuyến giáp
2569385
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phaea%20johni
Phaea johni
Phaea johni là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Phaea
14985610
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bukowo%2C%20H%E1%BA%A1t%20Ko%C5%82obrzeg
Bukowo, Hạt Kołobrzeg
Bukowo () là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Rymań, thuộc hạt Kołobrzeg, West Pomeranian Voivodeship, ở phía tây bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng phía nam Rymań, về phía nam của Kołobrzeg và về phía đông bắc của thủ đô khu vực Szczecin. Trước năm 1945, khu vực này là một phần của Đức. Đối với lịch sử của khu vực, xem Lịch sử của Pomerania. Tham khảo
19788839
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20%C3%A1n%20sai%20ph%E1%BA%A1m%20t%E1%BA%A1i%20c%C3%A1c%20trung%20t%C3%A2m%20%C4%91%C4%83ng%20ki%E1%BB%83m%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202022
Vụ án sai phạm tại các trung tâm đăng kiểm Việt Nam 2022
Vào nửa cuối năm 2022, hàng loạt những sai phạm tại các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới, các trung tâm đăng kiểm đường thủy và Cục Đăng kiểm Việt Nam đã bị phơi bày thông qua các hành vi nhận hối lộ khi các chủ phương tiện đi đăng kiểm. Khởi phát của vụ án đã được diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh sau khi lực lượng cảnh sát giao thông phát hiện bất thường ở một số phương tiện. Đến đầu năm 2023, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tiêu cực đã đưa vụ án vào diện theo dõi và điều tra. Tính đến ngày 23 tháng 2 năm 2023, đã có 66 đăng kiểm viên bị khởi tố với 54 người bị bắt giữ và 12 người tại ngoại. Nguyên nhân Vào ngày 26 tháng 10, lực lượng Cảnh sát giao thông đã một chiếc xe tải có biển số 50H-100.20 để kiểm tra thành thùng và giấy kiểm định. Sau khi kiểm tra, đơn vị cảnh sát đã phát hiện việc thùng xe đã được hợp pháp hóa cơi nới lên tới 71 cm với mục đích chở thêm hàng hóa. Từ lời khai của tài xế, cảnh sát đã phát hiện thêm nhiều chiếc xe tương tự đã bị cơi nới và có dấu hiệu sai phạm. Ngoài ra, theo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, trong quá trình tuần tra và kiểm soát giao thông đã phát hiện nhiều phương tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật nhưng vẫn được cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới. Đây được xem là khởi phát của vụ án. Điều tra và khởi tố Cục Đăng kiểm Việt Nam và các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới Vào lúc 15 giờ ngày 14 tháng 10 năm 2022, Công an huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp đã bắt giữ Nguyễn Thành Nguyễn (32 tuổi; Bạc Liêu) cùng 3 nhân viên là Trần Thị Ngọc Dung (53 tuổi; Sóc Trăng), Lê Minh Nhí (27 tuổi; Sóc Trăng) và Trần Thanh Nhã (49 tuổi; Tiền Giang) đang thực hiện hành vi nhận hối lộ 900 nghìn đồng từ nhiều tài xế để bỏ qua các lỗi đăng kiểm. Theo chính quyền địa phương, chỉ trong ngày bắt quả tang, đơn vị này đã hối lộ được hơn 20 triệu đồng từ 44 phương tiện đến đăng kiểm. Đến ngày 26 tháng 10, Công an huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp đã tiếp tục khởi tố, bắt tạm giam Trần Lập Nghĩa (47 tuổi; Sóc Trăng) và Kim Thị Huỳnh Duy (23 tuổi; Trà Vinh) do liên quan vụ án "Nhận hối lộ" tại Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 66-02D. Đến ngày 28 tháng 12 năm 2022, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã phối hợp Công an Thành phố Hà Nội cùng đơn vị nghiệp vụ trực thuộc Bộ Công an lệnh khám xét khẩn cấp phòng kiểm định xe cơ giới thuộc Cục Đăng kiểm Việt Nam tại số 18 Phạm Hùng, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Thậm chí tại Trung tâm Đăng kiểm 50 – 17D, bị can Hồ Hữu Tài (52 tuổi) giữ chức Giám đốc Trung tâm Đăng kiểm này không biết chữ, không viết được và không đọc được và chỉ mới học lớp 3 cách đây 50 năm nhưng lại được giữ chức vụ này. Ngay sau đó, ông đã bị khởi tố về tội danh "nhận hối lộ". Tính đến ngày 11 tháng 1 năm 2023, 33 trung tâm đăng kiểm đã phải tạm dừng hoạt động tại 13 tỉnh, thành phố. Trong số đó đã có 30 trung tâm đăng kiểm phải đóng cửa để phục vụ công tác điều tra, 1 trung tâm đăng kiểm do vấn đề nhân sự, 1 trung tâm đăng kiểm do không đủ điều kiện phòng cháy chữa cháy, 1 trung tâm đăng kiểm do nhân viên đăng kiểm bị đình chỉ công tác và 1 trung tâm đăng kiểm bị thu hồi đất. Theo VTC News, miền Bắc có 15 trung tâm đăng kiểm bị tạm dừng với Hà Nội 11 trung tâm. Hòa Bình, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, mỗi địa phương có 1 trung tâm đăng kiểm bị dừng hoạt động. Trong khi đó ở miền Nam thì có 18 trung tâm đăng kiểm với Thành phố Hồ Chí Minh là 10 trung tâm, Đồng Nai có 2 trung tâm. Các tỉnh còn lại gồm Sóc Trăng, Bến Tre, Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An, Bình Dương đều có 1 trung tâm đăng kiểm bị tạm dừng hoạt động. Chiều tối cùng ngày, Trung tướng Tô Ân Xô đã xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định khởi tố bị can, bắt giam ông Đặng Việt Hà, Cục trưởng Cục Đăng kiểm Việt Nam về tội "Nhận hối lộ". Theo thiếu tá Nguyễn Thành Hưng, Phó trưởng Phòng Cảnh sát Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thông tin, "Hằng tháng, hằng quý, các trạm, các trung tâm đều phải chung chi tiền cho cán bộ Cục Đăng kiểm và lãnh đạo các phòng, ban thuộc cục cũng như Cục trưởng Hà". Sáng ngày 12 tháng 1, trong phiên họp thứ 23, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tiêu cực đã bổ sung vụ án "Đưa hối lộ; Nhận hối lộ; Môi giới hối lộ; Giả mạo trong công tác" xảy ra tại Cục Đăng kiểm Việt Nam và một số Trung tâm Đăng kiểm vào diện theo dõi và chỉ đạo. Đến giữa tháng 1, công an tỉnh Đắk Lắk đã bắt giữ Mai Huỳnh Lệ Thu, Phó Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn An Phát; Lại Phú Hợp, Giám đốc Trung tâm đăng kiểm 47 – 06D; Nguyễn Phước Quang, đăng kiểm viên; Đinh Công Kiên, nhân viên nghiệp vụ; Đỗ Trọng Quân, kế toán; Nguyễn Quang Thành và Nguyễn Trung Cang, nhân viên trung tâm và bảo vệ. Tính đến ngày 17 tháng 2, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Hồ Chí Minh đã khởi tố 128 bị can. Theo điều tra của lực lượng cảnh sát, các bị can là giám đốc trung tâm đăng kiểm chỉ đạo nhân vật kiểm định chất lượng và đo tiêu chuẩn khí thải bảo vệ môi trường bỏ qua những lỗi như: Lỗi vi phạm trong công đoạn kiểm tra thủ công, cho thuê phụ tùng thay thế, sử dụng phần mềm can thiệp vào hệ thống đăng kiểm... của 70 nghìn phương thiện giao thông cơ giới đường bộ. Ngày 25 tháng 2, Công an thành phố Hà Nội đã thông tin về việc Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh đã ra lệnh bắt giữ khẩn cấp Lê Thành Chung (sinh năm 1982), Giám đốc Trung tâm đăng kiểm 29 – 07D; Hoàng Tuấn Anh (sinh năm 1983), Phó Giám đốc Trung tâm đăng kiểm 29 – 07D và các đăng kiểm viên gồm Lê Văn Ngọc (sinh năm 1989); Đỗ Văn Huân (sinh năm 1992); Đào Huy Chung (sinh năm 1977). Các trung tâm đăng kiểm đường thủy Ngày 9 tháng 2, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Hồ Chí Minh đã mở rộng vụ án khám xét Chi cục Đăng kiểm số 9 ở Bà Rịa – Vũng Tàu và Chi cục Đăng kiểm số 6 ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là hai chi cục đăng kiểm thuộc Cục Đăng kiểm Việt Nam phụ trách đăng kiểm giao thông đường thủy. Đến ngày 16 tháng 2, 14 đối tượng có liên quan bao gồm: Hoàng Văn Duy (Giám đốc Chi cục Đăng kiểm số 9), Lê Hải Hòa, Vũ Phương Huy, Nguyễn Văn Hiển (đăng kiểm viên Chi cục Đăng kiểm số 9); Phạm Việt Dũng, Phạm Tiến Bình, Phạm Văn Dương, Nguyễn Văn Duẩn, Mai Ngọc Cường, Nguyễn Văn Đồng (đăng kiểm viên Chi cục Đăng kiểm số 6) bị khởi tố về tội "nhận hối lộ" cùng Thái Việt Anh, Bùi Long Khương, Phạm Mạnh Hùng, Dương Xuân Chế về tội "đưa hối lộ". Theo Thượng tá Trần Thị Kim Lý, sau khi nhận được tiền các đăng kiểm viên tại các Chi cục Đăng kiểm số 6 và 9 đã cắt bớt quy trình đăng kiểm, không cho tàu lên đà và bỏ qua các lỗi vi phạm như về phòng cháy, chữa cháy,... Ngày 22 tháng 2, Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ra lệnh khởi tố và tạm giam Đào Hồng Đức (57 tuổi), Giám đốc Trung tâm Đăng kiểm tàu Cá thuộc Tổng cục Thủy sản có Trụ sở tại Thành phố Hà Nội cùng hai cán bộ thuộc Trung tâm này là Nguyễn Vũ Hà (45 tuổi, trưởng phòng) và Nguyễn Quốc Công (35 tuổi, đăng kiểm viên). Liên quan vụ án, vào ngày 13 tháng 2 trước đó, ông Nguyễn Đức Hoàng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thông tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cùng Đinh Cao Thượng, Phó trưởng phòng Chi cục Thủy sản đã bị bắt giữ. Danh sách các cá nhân bị bắt giữ Hệ quả Nhận xét Tại Hội nghị tổng kết năm 2022 trước Quốc hội Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng đã cho rằng "Không còn con đường nào khác, Cục Đăng kiểm Việt Nam phải nhìn thẳng vào sự thật, tự soi tự sửa, vấp ngã phải đứng dậy". Đồng thời, ông cũng yêu cầu Cục đăng kiểm Việt Nam rà soát lại 4 vấn đề: Xây dựng thể chế; Ban hành các quy định liên quan đến đăng kiểm; Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; Thực hiện phân cấp phân quyền. Tham khảo
14999202
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wyszeb%C3%B3rz
Wyszebórz
Wyszebórz () là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Manowo, thuộc quận Koszalin, West Pomeranian Voivodeship, ở phía tây bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng phía đông bắc Manowo, phía đông Koszalin và về phía đông bắc của thủ đô khu vực Szczecin. Trước năm 1945, khu vực này là một phần của Đức. Đối với lịch sử của khu vực, xem Lịch sử của Pomerania. Trong những năm 1975-1998, thị trấn thuộc về hành chính của tỉnh Koszalin. Tham khảo
14306926
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pulau%20Tikus
Pulau Tikus
Pulau Tikus là một vùng ngoại ô phía tây bắc của George Town ở Penang, Malaysia. Nằm giữa trung tâm thành phố và Tanjung Tokong, khu ngoại ô cao cấp này được đặt tên theo một tảng đá bên ngoài bờ biển Penang. Pulau Tikus là một trong những địa điểm nổi tiếng với ẩm thực Penang và những ngôi nhà của người dân tộc thiểu số nhỏ người Âu Á, người Thái và người Miến Điện. Được thành lập sau khi thành lập Thuyền trưởng Francis Light khám phá ra đảo Penang vào năm 1786, Pulau Tikus trở thành nơi hội tụ các nền văn hóa từ những ngày đầu khi nước Anh cai trị. Các cộng đồng nói trên đã xây dựng những nhà thờ ấn tượng ở Pulau Tikus, chẳng hạn như các nhà thờ Công giáo và các ngôi chùa Phật giáo với lối thiết kế, kiến trúc mang đậm dấu ấn quê hương. Ngoài ra, một số lãnh sự quán đã được thành lập ở đây. Từ nguyên học Pulau Tikus được đặt theo tên của Đảo Tikus (tiếng Mã Lai: Pulau Tikus)- một hòn đảo đá nhỏ cách vùng ngoại ô Tanjung Bungah 770 m (0,48 dặm). Pulau Tikus, có nghĩa là 'Đảo chuột' trong tiếng Mã Lai, được cho là có nguồn gốc từ những hòn đá và cồn cát của hòn đảo, trông giống như những con chuột khi thủy triều thấp. Địa lý Pulau Tikus bắt đầu từ ngã ba đường Burmah và đường Edgecumbe, và kết thúc ngay trước ngã ba Bagan Jermal. Đường Burmah tạo thành con đường chính thông qua Pulau Tikus với trung tâm của vùng ngoại ô tại giao lộ của Đường Burmah với Đường Cantonment. Giáo dục Có ba trường tiểu học, bốn trường trung học và hai trường cao đẳng tư thục ở Pulau Tikus. Ngoài ra, ở Pulau Tikus có một trường tiểu học quốc tế phục vụ cho cộng đồng người nước ngoài. Nơi đây có trường Trung học Nữ sinh Penang, một trong những trường Trung học hàng đầu ở Penang. Được thành lập vào năm 1919 tại đường Gottlieb, ngôi trường này góp phần tạo nên những thành tích học tập đáng ngưỡng mộ. Ngoài ra, trường trung học tư thục Phor Tay, trường Phật giáo đầu tiên ở Malaysia, cũng nằm ở Jalan Bagan Jermal, dọc theo phía tây Pulau Tikus. Dưới đây là danh sách các trường học và trường cao đẳng tại Pulau Tikus: Trường tiểu học Trường tiểu học nữ sinh Trung Quốc ở Penang St. Xavier's Primary Branch School Trường tiểu học nữ tu viện Pulau Tikus Trường trung học Trường trung học nữ tu viện Pulau Tikus Trường trung học nữ sinh Trung Quốc Penang Penang Chinese (Private) Girls' High School Trường trung học tư nhân Phor Tay Trường quốc tế Trường tiểu học quốc tế St. Christopher Trường cao đẳng tư thục Trường cao đẳng DISTED Trường cao đẳng PTPL Trường Cao đẳng điều dưỡng và khoa học sức khỏe là trường cao đẳng điều dưỡng được điều hành bởi Bệnh viện Cơ Đốc Phục Lâm Penang, được xây ở gần bệnh viện này ở đường Burmah. Vùng lân cận Ayer Rajah Kampong Serani Kampung Siam Tham khảo Penang
13469478
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gundahar
Gundahar
Gundahar (Latinh: Gundaharius, Gundicharius, or Guntharius, Anh cổ Gūðhere, Bắc Âu cổ Gunnarr, Anh hóa thành Gunnar) (? – 437) là một vị Vua Bourgogne có thực trong lịch sử vào đầu thế kỷ 5. Lịch sử Những câu chuyện huyền thoại về ông xuất hiện trong các thư tịch viết bằng tiếng Latinh, tiếng Đức thời Hậu kỳ Trung Cổ, tiếng Bắc Âu cổ, và Anh cổ, đặc biệt liên quan đến mối quan hệ giữa ông với Siegfried (Sigurd trong tiếng Bắc Âu cổ) và cái chết của vị anh hùng này tại triều đình của Attila người Hun. Năm 406, đám người rợ Alan, Vandal, Suevi, và có khả năng là người Bourgogne vượt sông Rhine và xâm chiếm xứ Gaul. Năm 411, vua người Bourgogne là Gundahar hay Gundicar đã lập một hoàng đế bù nhìn, Jovinus, cộng tác với Goar, vua người Alan. Với quyền lực của hoàng đế Gaul mà ông kiểm soát, Gundahar đưa dân định cư ở bờ trái hoặc phía tây (tức là đất La Mã) của sông Rhine, nằm giữa sông Lauter và Nahe, đánh chiếm Worms, Speyer, và Strasbourg. Rõ ràng là một phần của một thỏa thuận đình chiến, Hoàng đế Honorius sau đó chính thức "ban" vùng đất này cho họ. Olympiodorus thành Thebes cũng nhắc đến một Guntiarios nào đó được gọi là "chỉ huy của người Bourgogne" trong bối cảnh vụ dấy loạn ở vùng Germania Secunda năm 411 của Jovinus. Bất chấp địa vị mới của họ trong vai trò là foederati, người Bourgogne đột kích vào vùng thượng Gallia Belgica của La Mã đến mức trở nên không thể chịu nổi và phải nếm cái kết cuộc tàn nhẫn vào năm 436, khi tướng quân La Mã Flavius Aetius kêu gọi lính đánh thuê Hun tràn ngập vương quốc Rhineland (với kinh đô nằm ở khu định cư La Mã của người Celt cổ tên Borbetomagus, bây giờ được gọi là Worms) vào năm 437. Gundahar theo như sử liệu cho biết đã bị giết trong cuộc chiến, cùng với phần lớn bộ tộc Bourgogne. Ảnh hưởng Sự tàn phá thành Worms và vương quốc Bourgogne của người Hun đã trở thành chủ đề của những truyền thuyết anh hùng sau đó được kết hợp thành nhiều tác phẩm văn học thời Trung Cổ như sử thi viết bằng tiếng Đức thời Hậu kỳ Trung Cổ, Nibelungenlied, kể về Vua Gundahar và Vương hậu Brünhild giữ vững triều đình của họ ở Worms, và Siegfried tới cầu hôn Kriemhild, em gái của Gundahar. Trong các nguồn sử liệu tiếng Bắc Âu cổ, những cái tên Gunnar, Brynhild, Sigurd và Gudrun thường được dịch sang tiếng Anh. Những câu chuyện này sau đó đã được Richard Wagner chuyển thể thành vở opera Der Ring Des Nibelungen. Gundahar xuất hiện trong phần cuối cùng của Gotterdammerung. Từ đó các sự kiện xảy ra theo cách tương tự như Völsunga saga là kể về khoảng thời gian sau khi Hagen giết Siegfried thì hắn và Gundahar bàn cãi liên miên về chiếc Nhẫn, dẫn đến việc Hagen ra tay sát hại Gundahar. Tham khảo Năm sinh không rõ Mất năm 437 Vua Bourgogne
18116372
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ACnh%20y%C3%AAu%20v%C3%A0%20tham%20v%E1%BB%8Dng
Tình yêu và tham vọng
Tình yêu và tham vọng (tên cũ: Thế lực cạnh tranh) là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Bùi Tiến Huy làm đạo diễn. Phim được mua kịch bản chuyển thể từ bộ phim truyền hình Thế lực cạnh tranh của Trung Quốc năm 2017. Phim phát sóng vào lúc 21h30 thứ 2, 3 (2, 3, 4 kể từ ngày 29 tháng 7 năm 2020) hàng tuần bắt đầu từ ngày 23 tháng 3 năm 2020 và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 năm 2020 trên kênh VTV3. Nội dung Tình yêu và tham vọng xoay quanh câu chuyện tranh đấu giữa Minh (Nhan Phúc Vinh), Tổng giám đốc tập đoàn Hoàng Thổ và Phong (Mạnh Trường), Tổng giám đốc địa ốc Bách Hợp. Trong bối cảnh thị trường bất động sản cạnh tranh khốc liệt, Minh và Phong, đứng ở 2 đầu chiến tuyến, đã dùng mọi biện pháp, thậm chí cả thủ đoạn để vượt qua đối thủ. Chiến thắng bước đầu thuộc về Minh khi anh đã lôi kéo được hai nhân sự nòng cốt của Bách Hợp là Linh (Diễm My 9x) và Phương (Phan Minh Huyền) về Hoàng Thổ. Tuy nhiên, Minh phải đối mặt với lục đục nội bộ bởi Tuệ Lâm (Lã Thanh Huyền), Phó tổng giám đốc Hoàng Thổ lại chẳng hề ưa Linh. Đây cũng trở thành điểm yếu để Phong lợi dụng lật đổ Hoàng Thổ. Trong thời gian làm việc ở Hoàng Thổ, dù được Giám đốc pháp chế Sơn dành tình cảm cho mình nhưng Linh lại chỉ xem anh là một người anh trai kết nghĩa. Cô dành tình cảm cho tổng Giám đốc Minh sau khi biết được anh là người cứu cô khỏi chết đuối năm xưa. Mặc dù Minh chuẩn bị kết hôn với Tuệ Lâm nhưng anh vẫn hết lòng bảo vệ, che chở cho Linh trong công việc cũng như bảo vệ cô trước những mưu đồ xấu của Phong. Cuối phim, sau nhiều nỗ lực níu kéo tình cảm với Minh bất thành, Tuệ Lâm rời khỏi Hoàng Thổ, nhường Minh lại cho Linh. Hai nhân vật chính sau khi khiến Phong thất bại trong nỗ lực cuối cùng để lật đổ Hoàng Thổ, cũng đã được hưởng hạnh phúc trọn vẹn bằng một đám cưới tập thể cùng với Sơn và Phương. Diễn viên Diễn viên chính Nhan Phúc Vinh trong vai Minh Diễm My 9x trong vai Linh Mạnh Trường trong vai Kiều Phong Lã Thanh Huyền trong vai Tuệ Lâm Thanh Sơn trong vai Sơn Phan Minh Huyền trong vai Phương NSND Minh Hòa trong vai Bà Khuê NSND Trọng Trinh trong vai Ông Quân NSƯT Trần Đức trong vai Ông Thạch NSƯT Minh Phương trong vai Bà Phương Thanh Tú trong vai Dì Đào Thùy Anh trong vai Ánh Diễm Hương trong vai Hường Đào Văn Bích trong vai Đại Cán Phan Thắng trong vai Đông Mạnh Cường trong vai Kỳ Lân Diễn viên phụ NSƯT Phú Thăng trong vai Ông Thái NSƯT Đỗ Kỷ trong vai Ông Thọ NSND Thu Quế trong vai Bà Thương Trọng Lân trong vai Thiên Vũ Thu Hoài trong vai Kathy Bích Ngọc trong vai Thuỳ Chi (Hoài) NSƯT Phú Kiên trong vai Ông Dân Xuân Hồng trong vai Hưng Vũ Ngọc Châm trong vai Diễm Phí Thùy Linh trong vai Âu Nguyễn Xuân Thắng trong vai Gã mặt sẹo Raj Taneja trong vai Ông David Khách mời Lan Phương trong vai Khách dự đám cưới Cùng một số diễn viên khác.... Ca khúc trong phim NắmSáng tác: ViAMThể hiện: Minh Vương M4U & Hương Ly Giá như ta chẳng biết nhauSáng tác & thể hiện: Vicky Nhung Tình yêu tự tìm được lốiSáng tác & thể hiện: Vicky Nhung Thanh xuânSáng tác: DaLAB Từng cho nhauSáng tác: RotyThể hiện: Hà Nhi Giải thưởng Tham khảo Liên kết ngoài Tình yêu và tham vọng trên VTV Giải trí Chương trình truyền hình nhiều tập của VFC Phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2020 Phim truyền hình Việt Nam phát sóng trên kênh VTV3 Phim truyền hình giành giải Cánh diều bạc
15155341
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Kundelungu
Vườn quốc gia Kundelungu
Vườn quốc gia Kundelungu là một vườn quốc gia nằm tại Katanga, Cộng hòa Dân chủ Congo. Được thành lập vào ngày 30 tháng 11 năm 1970, vườn quốc gia có diện tích khoảng 7.600 km². Đây là nơi có Thác Lofoi cao , với dòng chảy liên tục là khiến nó là một trong số những thác nước cao nhất châu Phi và trên thế giới. Địa hình tại đây là đồi núi cao nguyên thấp và đồi thảo nguyên dao động từ 1.200-1.700 mét so với mực nước biển. Vườn quốc gia là nơi trú ẩn của nhiều loài động vật hoang dã đáng chú ý như Ngựa vằn, Linh dương lang, Linh dương đen Đông Phi, Linh dương Kudu lớn, Linh dương Eland, Linh dương lau sậy phía nam, Linh dương nước, Linh dương Bubale, Linh dương Klipspringer, Trâu rừng, Sư tử, Báo hoa mai, Báo săn, Chó hoang châu Phi, Linh cẩu, Chó rừng, Khỉ đầu chó, Khỉ lam, Culi Galago. Tham khảo Liên kết ngoài http://likasi.free.fr/Maurice/Lofoi.htm (tiếng Pháp) http://lubumbashi.free.fr/jour/georgiades/Chutes_du_Lofoi_18.htm (tiếng Pháp) Fiche du parc sur le site UNEP-WCMC (tiếng Anh) Kundelungu
8699115
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bokken
Bokken
Một (hoặc , như được gọi thay thế ở Nhật Bản) là một loại kiếm bằng gỗ của Nhật Bản sử dụng trong luyện tập. Nó thường có kích cỡ và hình dáng của một thanh katana, nhưng đôi khi có hình dạng như những thanh kiếm khác, chẳng hạn như wakizashi và tantō. Một số bokken có hoa văn được khảm xà cừ và chạm khắc tinh xảo. Đôi khi nó được đọc là "boken" trong tiếng Anh. Bokken không nên bị nhầm lẫn với shinai, loại kiếm dùng để luyện tập làm từ loại tre dễ uốn dẻo. Lịch sử Bokken được thiết kế để giảm thiểu thiệt hại bởi việc chiến đấu bằng loại kiếm thực sự và được sử dụng để đào tạo các chiến binh samurai trong thời phong kiến Nhật Bản. Bokken cuối cùng đã trở thành vũ khí có thể gây chết người khi nằm trong tay của các chuyên gia được đào tạo. Miyamoto Musashi, một bậc thầy kenjutsu, trở nên nổi tiếng vì đã chiến đấu với những kẻ thù có đầy đủ vũ trang với chỉ một hoặc hai bokken. Trong một huyền thoại nổi tiếng, ông đã đánh bại Sasaki Kojiro với một bokken mà ông đã đẽo từ một cái mái chèo trong khi ngồi trên một chiếc thuyền đi đến hòn đảo định trước cho trận quyết đấu. Sử dụng Bokken được sử dụng như là một vật thay thế không tốn kém và tương đối an toàn cho một thanh kiếm thực trong một số môn võ thuật như aikido, kendo, iaido, kenjutsu và judo. Cấu trúc bằng gỗ đơn giản của nó đòi hỏi ít công chăm sóc và bảo trì hơn một thanh katana. Ngoài ra, đào tạo với một bokken không mang cùng nguy cơ gây chết người liên quan đến một thanh kiếm kim loại sắc bén, cả cho người sử dụng và các học viên khác gần đó. Mặc dù việc sử dụng nó có nhiều ưu điểm so với việc sử dụng vũ khí linh hoạt, nhưng nó vẫn có thể gây tử vong, và bất kỳ sự huấn luyện nào với bokken phải được thực hiện một cách cẩn thận. Thương tích xảy ra từ bokken rất giống với thương tích từ côn và các loại vũ khí để đối kháng tương tự, và bao gồm đa chấn thương, rách nội tạng và các thương tích khác. Bằng một vài cách, một thanh bokken có thể còn nguy hiểm hơn, vì các thương tích gây ra thường là những người hành nghề không thấy trước hậu quả và thiếu kinh nghiệm có thể đánh giá thấp nguy cơ gây hại. Nó không phải là một vũ khí để đối kháng thực sự, nhưng được sử dụng trong kata và để giúp học viên thích nghi với cảm giác của một thanh kiếm thực sự. Với đối kháng, một thanh kiếm tre shinai thường được sử dụng thay thế vì lý do an toàn rõ ràng hơn. Năm 2003, Liên đoàn Kendo toàn Nhật Bản (AJKF) giới thiệu một loạt các bài tập cơ bản sử dụng một bokuto mang tên Bokuto Ni Yoru Kendo Kihon-waza Keiko-ho. Hình thức tập luyện này chủ yếu dành cho các học viên kendo có thứ hạng cho tới Nidan, nhưng có thể có lợi cho tất cả các học viên kendo. Suburito là các thanh bokken được thiết kế để sử dụng trong suburi. Suburi, nghĩa đen là "động tác vung một cách trần trụi," là những bài tập chém đơn. Suburito dày hơn và nặng hơn bokken bình thường và người sử dụng suburito phải phát triển cả sức mạnh và kỹ thuật. Trọng lượng của chúng làm cho chúng không phù hợp với các hình thức thực hành theo cặp và hình thức đấu đơn. Một người nổi tiếng với việc sử dụng bokken có kích cỡ suburi là Miyamoto Musashi, người đã sử dụng một thanh trong cuộc đấu với Sasaki Kojiro. Đến năm 2017, những thanh bokken vẫn được cấp cho Đơn vị Kỵ cảnh (cảnh sát cưỡi ngựa) Los Angeles để sử dụng như là một loại dùi cui. Các loại bokken Bokken có thể được làm để đại diện cho bất kỳ loại vũ khí yêu cầu nào như nagamaki, no-dachi, yari, naginata, kama, vv. Các phong cách sử dụng rộng rãi nhất là: daitō hoặc tachi (kích cỡ katana), kiếm dài shoto hoặc kodachi hoặc wakizashi bo, kiếm ngắn, (kích cỡ wakizashi) tantō bo (kích cỡ tantō) suburito có thể được làm với kích cỡ daitō và shoto Ngoài ra, các biến thể koryu (võ thuật Nhật Bản truyền thống) có những phong cách bokken riêng biệt khác nhau, có thể thay đổi chút ít theo chiều dài, hình dáng đầu mũi kiếm, hoặc có thêm tsuba (cán kiếm Nhật) hay không. Liên đoàn Kendo toàn Nhật Bản xác định kích thước của bokken để sử dụng trong kendo kata hiện đại, được gọi là Nippon kendo kata. Tachi: Tổng chiều dài xấp xỉ 102 cm; tsuka (tay cầm) xấp xỉ 24 cm. Kodachi: Tổng chiều dài xấp xỉ 55 cm; tsuka (tay cầm) xấp xỉ 14 cm. Bokken trong sản phẩm hư cấu Bokken đã được miêu tả trong phim, manga, anime, và truyện tranh. Trong bộ phim Võ sĩ đạo cuối cùng, bokken được nhìn thấy trong nhiều trường hợp. Trong một cảnh, một nhóm trẻ đang chơi / đấu đối kháng với những thanh này. Sau đó trong bộ phim, Nathan Algren (do Tom Cruise thủ vai) được thấy trong quá trình huấn luyện về kiếm với một thanh bokken. Trong loạt manga và anime Shaman King của Takei Hiroyuki, Umemiya Ryunosuke sở hữu một thanh kiếm bằng gỗ và sử dụng nó làm vũ khí chính của mình, và được gọi là Ryu "kiếm gỗ". Trong anime "Outlaw Star" Twilight Suzuka sử dụng một thanh bokken với kỹ năng vô hạn và có thể sử dụng nó hiệu quả hơn so với một thanh kiếm thực tế. Trong anime "Demon City Shinjuku", anh hùng Kyoya Izayoi sở hữu một thanh bokken mà ông có thể đưa vào đó năng lượng tâm linh. In the loạt truyện giới hạn Wolverine (1982) bởi Chris Claremont và Frank Miller, Wolverine đã gần như bị giết bởi Shingen Yashida, người sử dụng một thanh bokken đánh vào gân cốt. Trong anime và manga Gin Tama, nhân vật chính, Gintoki Sakata, sử dụng bokken làm vũ khí chính của mình. Kỹ năng của anh với nó đủ mạnh để chế ngự được ngay cả thanh kiếm thực sự. Trong anime và manga Rurouni Kenshin, Kamiya Kaoru sử dụng bokken làm vũ khí chính của mình. Trong loạt anime và light novel Toradora!, Aisaka Taiga có thể được coi là cầm một thanh bokken. Trong anime và manga Ranma ½, Kuno Tatewaki cầm một thanh bokken và đôi khi là một thanh shinai. Trong anime và manga Highschool of the Dead, Saeko Busujima ban đầu sở hữu một thanhbokken. Cô ấy thay thế nó bằng katana trong diễn tiến câu chuyện. Xem thêm Aiki-Ken Iaido Kenjutsu Kinomichi Waster Tham khảo Liên kết ngoài Một cuộc thảo luận về các loại gỗ khác nhau liên quan đến thiết kế bokken, tập trung đặc biệt vào độ bền Thông tin về cách tạo hoặc chọn một thanh bokken Vũ khí và trang bị của samurai Tập luyện kiếm ở Nhật Bản
14512813
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paxillus%20involutus
Paxillus involutus
Paxillus involutus là một loại nấm basidiomycete phân bố rộng khắp Bắc bán cầu. Nó đã vô tình được du nhập đến Úc, New Zealand, Nam Phi và Nam Mỹ, có lẽ được vận chuyển trong đất với cây châu Âu. Loài này được mô tả lần đầu tiên bởi Pierre Bulliard vào năm 1785 và được Elias Magnus Fries đặt cho tên nhị thức hiện tại của nó vào năm 1838. Thử nghiệm di truyền cho thấy Paxillus incutus có thể là một phức hợp loài chứ không phải là một loài. Tham khảo Paxillus Nấm được mô tả năm 1786 Nấm châu Á Nấm châu Âu Nấm Bắc Mỹ Nấm Nam Mỹ Nấm độc
19132191
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Deku
Maria Deku
Maria Deku (ngày 18 tháng 3 năm 1901 tại Düsseldorf - ngày 19 tháng 4 năm 1983 tại một chỗ có thể được gọi bằng một cái tên là Kleinblittersdorf) là một chính trị gia người Đức, đại diện của Liên minh Xã hội Kitô giáo Bavaria. Từ tháng 12 năm 1946 đến tháng 2 năm 1948, cô là thành viên của Landtag of Bavaria. Xem thêm Danh sách các chính trị gia Liên minh Xã hội Cơ đốc giáo Bavaria Tham khảo Mất năm 1983 Sinh năm 1901
2587623
https://vi.wikipedia.org/wiki/Horama%20punctata
Horama punctata
Horama punctata là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Horama
2921646
https://vi.wikipedia.org/wiki/Foveades%20albilineata
Foveades albilineata
Foveades albilineata là một loài bướm đêm trong họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Foveades
2915048
https://vi.wikipedia.org/wiki/Episema%20roseoflava
Episema roseoflava
Episema roseoflava là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Episema
3126943
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stenotritus%20ferricornis
Stenotritus ferricornis
Stenotritus ferricornis là một loài ong trong họ Stenotritidae. Loài này được miêu tả khoa học đầu tiên năm 1916. Chú thích Tham khảo ferricornis Động vật được mô tả năm 1916
2708934
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lancia%20cluaca
Lancia cluaca
Lancia cluaca là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Lancia
19714787
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Th%C3%A0nh
Phạm Đức Thành
Phạm Đức Thành (sinh năm 1956), là một nghệ sĩ đàn bầu người Canada gốc Việt. Ông được biết đến qua việc phát triển và gìn giữ âm nhạc truyền thống Việt Nam tại nước ngoài. Tiểu sử Phạm Đức Thành sinh ra và lớn lên tại xã Gia Phú, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ông được sinh trong gia đình có hầu hết các thành viên đều theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật dân tộc. Ông bộc lộ tài năng âm nhạc từ khi lên 4 tuổi qua việc chơi trống chèo, 5 tuổi chơi đàn Mandolin, 6 tuổi biết chơi đàn bầu, đàn nhị. Sự nghiệp Năm 1974, Phạm Đức Thành được mời làm việc tại Nhà hát Chèo Việt Nam và trở thành nhạc công đàn bầu chính thức của nhà hát này. Năm 1978, chỉ sau 4 năm hoạt động, ông là nghệ sĩ đàn bầu sân khấu chèo duy nhất tham dự Nhạc hội đàn bầu toàn quốc. Sau đó ông vào Thành phố Hồ Chí Minh để học thêm về âm nhạc cổ truyền miền Trung và miền Nam. Tháng 10 năm 1983, ông tốt nghiệp thủ khoa đại học ngành Nghiên cứu Âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1989, ông bị bệnh phải đi chữa trị tại Đức. Sau sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, ông không trở về quê hương. Sau đó ông được một người thân bảo lãnh sang Canada định cư. Ông thành lập một trung tâm đào tạo âm nhạc mang tên Vietnamese Music School có địa chỉ tại Mississauga. Tại đây, ông mở nhiều khóa học dạy chơi đàn bầu, dạy nhạc lý, dạy ca nhạc dân tộc Việt. Tại Canada, Phạm Đức Thành còn tham gia xây dựng chuyên mục âm nhạc dân tộc trên Radio Canada và thực hiện các chương trình ca nhạc dân tộc tại Canada và Mỹ cũng như giảng dạy về âm nhạc tại các trường đại học. Ông còn tham gia đệm nhạc phụ họa chương trình ca nhạc Paris By Night của Trung tâm Thúy Nga. Năm 2006, ông được kênh truyền hình ARTV (Canada) bình chọn là nghệ sĩ nổi tiếng, có công đóng góp, truyền bá, gìn giữ và phát triển âm nhạc truyền thống của Việt Nam trong nền âm nhạc dân gian của thế giới. Năm 2007, ông có tên trong danh sách 12 người nghệ sĩ đã có cống hiến cho nền âm nhạc dân tộc do đài truyền hình này bình chọn. Ngày 3 tháng 3 năm 2018, ông mở liveshow mang tên Độc huyền cầm tại Nhà hát lớn Hà Nội, là liveshow lớn đầu tiên của ông tại Việt Nam. Phạm Đức Thành đã thành lập câu lạc bộ đàn bầu tại một số quốc gia như Thụy Sĩ, Pháp, Nhật Bản. Ông trở thành hình ảnh tiêu biểu của người nghệ sĩ đàn bầu tại hải ngoại với các chương trình biểu diễn khắp nơi trên thế giới. Đời tư Phạm Đức Thành từng kết hôn 2 lần. Ông kết hôn lần đầu với nghệ nhân Nguyệt Lan và có một con trai sinh năm 1992. Ông kết hôn lần 2 với một ca sĩ kém ông gần 20 tuổi tên Phương Linh. Nguồn tham khảo Sinh năm 1956 Người Ninh Bình Nghệ sĩ đàn bầu Việt Nam Nhân vật còn sống Nghệ sĩ hải ngoại Người Canada gốc Việt
2941053
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuerta%20lycaon
Tuerta lycaon
Tuerta lycaon là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Tuerta
12486364
https://vi.wikipedia.org/wiki/Reinhold%20Ranftl
Reinhold Ranftl
Reinhold Ranftl (sinh 24 tháng 1 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá Áo đang thi đấu cho LASK Linz. Tham khảo Liên kết ngoài Cầu thủ bóng đá nam Áo Hậu vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá LASK Cầu thủ TSV Hartberg Cầu thủ SC Wiener Neustadt Cầu thủ bóng đá SK Sturm Graz Sinh năm 1992 Nhân vật còn sống
2579962
https://vi.wikipedia.org/wiki/Automolis%20upembae
Automolis upembae
Automolis upembae là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Automolis
19789373
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicola%20Chiaruzzi
Nicola Chiaruzzi
Nicola Chiaruzzi (sinh ngày 25 tháng 12 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá người San Marino. Anh ta đã từng chơi cho Đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino và có lần ra mắt quốc tế vào năm 2010. Danh hiệu SP Tre Penne Campionato Sammarinese di Calcio: 2011–12, 2012–13, 2015–16, 2018–19 Cúp quốc gia San Marino: 2016–17 Siêu cúp bóng đá San Marino: 2013, 2016 Cá nhân Pallone di Cristallo: 2008 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1987 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá San Marino Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino Cầu thủ bóng đá S.P. Tre Penne Cầu thủ bóng đá F.C. Fiorentino Cầu thủ bóng đá S.P. La Fiorita Cầu thủ bóng đá Campionato Sammarinese di Calcio Tiền vệ bóng đá
3643898
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ribnica%20%28khu%20t%E1%BB%B1%20qu%E1%BA%A3n%29
Ribnica (khu tự quản)
Khu tự quản Ribnica là một khu tự quản lớn ở miền nam Slovenia. Trụ sở của khu tự quản là thị trấn của Ribnica. Nó là một phần của khu vực truyền thống của Hạ Carniola và bây giờ thuộc khu vực Đông Nam Slovenia. Bằng chứng khảo cổ cho thấy rằng khu vực này đã được định cư sớm nhất kể từ cuối thời đại đồ đồng giữa năm 1300 và 900 TCN. Người nổi tiếng Những người nổi tiếng sinh ra và sống ở khu tự quản Ribnica bao gồm: Bojan Adamič (1912–1995), nhà soạn nhạc (sinh ra tại Ribnica) Jacobus Gallus (1550–1591), nhà soạn nhạc (được cho là sinh ra tại Ribnica) Janez Evangelist Krek (1865–1917), nhà hoạt động và chính trị thiên chúa giáo (sinh ra tại Sveti Gregor) France Prešeren (1800–1849), nhà thơ (học tại Ribnica) Simona Škrabec (sinh năm 1968), phiên dịch viên, nhà văn, nhà lịch sử học (thời thơ ấu sống ở Ribnica) Ivan Šušteršič (1863–1925), nhà chính trị bảo thủ (sinh ra tại Ribnica) Tham khảo Đường dẫn ngoài Trang web khu tự quản Ribnica Khởi đầu năm 1994 ở Slovenia Khu tự quản của Slovenia
19469651
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n%20trinh%20th%C3%A1m
Truyện trinh thám
Truyện trinh thám hay tiểu thuyết trinh thám () là một tiểu loại của tiểu thuyết phiêu lưu. Bản thân tên gọi thể loại đã làm nổi bật một vài đặc điểm riêng của nó. Nó nói lên nghề nghiệp của nhân vật chính. Nhân vật chính có thể là “thám tử”, là “mật thám”, hay “điều tra viên” gì đó, nhưng đều có nghề nghiệp chung là dò la, điều tra, khám phá cái bí mật còn nằm trong bóng tối. Nó chứng tỏ, đây là truyện vụ án, truyện viết về tội phạm, một loại truyện rất phổ biến ở các nước phương Tây. Nó mách bảo người sáng tác cách thức xây dựng cốt truyện: phải giữ đến cùng những bí mật của tội phạm để tạo nên sự hấp dẫn, khiến người đọc luôn luôn ở trong trạng thái căng thẳng. Cái bí mật bao giờ cũng tạo nên sự hứng thú, hấp dẫn đối với người đọc. Nhưng chắc chắn, nghề “trinh thám” không thể trở thành cốt truyện phổ biến trong văn học, khi phạm tội chưa trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến. Lịch sử Ngay ở những nước tư bản phát triển nhất, bộ máy cảnh sát có nhiệm vụ điều tra âm mưu để chặn đứng tội ác của bọn tội phạm cũng phải đến nửa sau thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, mới được thành lập. Henry Fielding (1707 – 1754), nhà văn lãng mạn, cũng là một luật sư, từng là thành viên tham gia sáng lập một trong những văn phòng đầu tiên có nhiệm vụ như thế ở Anh. Trong ý thức của các nhà văn, tình trạng tội phạm gia tăng là biểu hiện của một xã hội bất ổn. Họ nghĩ rằng, phanh phui tội ác là cách tốt nhất để lật tung tấm màn bí mật đang bao bọc cỗ máy điều khiển các quan hệ xã hội. Thế là cốt truyện “trinh thám” và nhân vật “thám tử” xuất hiện. Lúc đầu, chúng xuất hiện trong sáng tác của Dickens, Balzac, Dostoevsky chỉ như những môtíp cốt truyện và những nhân vật phụ. Dĩ nhiên, một tác phẩm có cốt truyện trinh thám và nhân vật thám tử, chưa hẳn đã là tác phẩm có thể xếp vào loại tiểu thuyết trinh thám. Trong Tội ác và trừng phạt của Dostoevsky, Điều bí mật của Edwin Drood của Dickens, việc miêu tả tội ác và quá trình điều tra tội phạm trở thành nội dung rất quan trọng của tác phẩm. Nhưng hứng thú cơ bản của sự miêu tả ấy không dồn vào việc trả lời cho câu hỏi: Ai là thủ phạm giết người ? Miêu tả tội ác và quá trình khám phá tội ác, điều quan trọng nhất đối với các nhà văn nói trên là tìm cách lý giải: Kẻ phạm tội thuộc hạng người nào ? Cái gì đã đẩy con người ấy đến với tội ác ? Cho nên, không ai gọi Tội ác và trừng phạt hoặc Edwin Drood là tiểu thuyết trinh thám. Truyện trinh thám chỉ trở thành một thể loại độc lập, khi các nhà văn đưa những tình tiết về quá trình điều tra vụ án lên bình diện thứ nhất của nội dung. Edgar Allen Poe (1809 – 1849) được xem là “thánh tổ” của tiểu thuyết trinh thám vì ông đã chuyển trọng tâm tự sự từ trần thuật về nhân vật phạm tội sang trần thuật về nhân vật thám tử, người theo dõi, phát hiện kẻ phạm tội. Trên thế giới, có nhiều nhà văn trở nên nổi tiếng nhờ thể loại truyện trinh thám, như: Wilkie Collins, Conan Doyle, Yulian Semyonov, Marietta Shaginyan,… Trước năm 1945, ở Việt Nam, Thế Lữ và Lê Văn Trương cũng là hai cây bút viết tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng. Tiểu thuyết trinh thám có thể chia thành nhiều thể nhỏ. Loại truyện hình sự, truyện vụ án đang rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay chính là một loại của tiểu thuyết trinh thám. Tham khảo Liên kết ngoài
2660994
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tetragonodes%20rufata
Tetragonodes rufata
Tetragonodes rufata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Tetragonodes
13676159
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jo%C3%ABl%20Geissmann
Joël Geissmann
Joël Geissmann (sinh ngày 3 tháng 3 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Thụy Sĩ thi đấu cho FC Lausanne-Sport ở vị trí tiền vệ. Geissman được biết đến với khả năng thi đấu trung tuyến, và là đội phó ở FC Wohlen. Sự nghiệp quốc tế Anh từng đại diện Thụy Sĩ ở nhiều cấp độ trẻ khác nhau. Tham khảo Liên kết ngoài Cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thụy Sĩ Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ Sinh năm 1993 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá FC Aarau Cầu thủ bóng đá FC Wohlen Cầu thủ bóng đá FC Thun
3510970
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tai%20n%E1%BA%A1n
Tai nạn
Tai nạn, còn gọi là chấn thương không chủ ý hoặc có chủ ý, là một sự kiện không mong muốn, ngẫu nhiên và không biết trước, dẫn đến thiệt hại cho người và vật. Hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu phòng tránh chấn thương không chủ ý sử dụng thuật ngữ "tai nạn" và tập trung vào xác định các yếu tố làm tăng nguy cơ chấn thương nghiêm trọng và làm giảm tỷ lệ chấn thương và mức độ nghiêm trọng (Robertson, 2015) . Tai nạn có thể được ngăn chặn nếu tránh được hoàn cảnh dẫn đến tai nạn, hoặc hành động ngay trước khi nó xảy ra. Nguyên nhân phổ biến Nguyên nhân dẫn đến tai nạn thường rất đa dạng, trong đó có cả trường hợp hiếm thấy và không phân loại được. Các sự kiện tai nạn phổ biến nhất đối với tổn thương cơ thể là tai nạn giao thông, đuối nước, đổ vỡ công trình, nhiễm độc, té ngã, tai nạn điện, bỏng, chấn thương thể thao, chấn thương do vật đâm cắt (chủ yếu là vết dao đâm và cắt),... Tai nạn xảy ra ở hầu hết các trường hợp là do lỗi của con người hoặc hành động lỗi của con người. Các loại tai nạn Theo các tiêu chí khác nhau thì tai nạn được phân loại ra các nhóm khác nhau. Theo dạng thương vong: chấn thương cơ học, ngạt khí, bỏng, nhiễm độc, chiếu xạ. Theo hoạt động của con người: tai nạn lao động, giao thông, sinh hoạt, công trình đổ vỡ cháy nổ, trong săn bắn, trong thể thao, trong leo núi, thiên tai,... Theo quy mô, số lượng người thương vong: đơn lẻ, nhiều hay thảm họa. Chấn thương cơ học Chấn thương cơ học là dạng phổ biến nhất trong các tai nạn, xảy ra ở các vụ động đất, tai nạn giao thông, đổ vỡ công trình hay núi non, do các hoạt động sản xuất hay sinh hoạt nhưng không cẩn thận,... Tai nạn ngạt khí Tai nạn do ngạt khí thường xảy ra ở các nước chưa phát triển, phần nhiều do người dân thiếu hiểu biết đã để rơi vào tình trạng thiếu oxy dẫn đến tổn thương, hôn mê hoặc chết. Đuối nước Đuối nước là nguyên nhân gây chết người nhiều nhất trong dạng tai nạn ngạt khí . Phần lớn xảy ra ở dạng tai nạn giao thông đường thủy, hoặc đường bộ đường không nhưng rồi rơi xuống nước . Các vụ đột xuất là do sóng thần, lũ lụt gây ra. Ngoài ra là tai nạn khi hoạt động sản xuất trên tàu thuyền ở sông biển. Các hoạt động của cá nhân, đặc biệt là trẻ em , trên sông nước hồ ao cũng thường dẫn đến các vụ tai nạn thương tâm. Vào lò giếng, bồn chứa Ngạt khí ở lò giếng, hầm, bồn chứa,... (gọi chung là bồn chứa) thường được coi là tai nạn lao động, xảy ra khi người lao động bước vào không gian của bồn chứa mà không để ý đến thông gió. Nguyên nhân của hiện tượng là do các khí có tỷ trọng nặng hơn không khí sẽ tích tụ vào bồn, đẩy hết oxy ra ngoài. Những loại khí nặng có: Khí ga (propan), hơi xăng,... đọng trong bốn chứa, trong tầng hầm, hay trong nhà tắm dùng khí ga . Khí sinh ra khi lên men bia rượu nước mắm, khi xử lý nước thải,... đọng ở khoang trống của bồn . Khí thoát ra từ lòng đất vốn không chứa oxy, đọng trong giếng hay hầm lò . Trong không gian kín Tại những nước chưa phát triển thì hiện tượng ngủ trong không gian hẹp và kín, không lưu thông khí, dẫn đến tiêu hao dần oxy, và đến khi lượng oxy còn quá thấp thì cái chết lịm dần xảy ra mà nạn nhân không biết mình chết. Điều này thường xảy ra khi ngủ trong ôtô loại nhỏ, hoặc cabin có kín khít cao . Lẽ ra họ có thể tránh được nếu tuân theo chỉ dẫn "Nguyên tắc cơ bản để tránh ngạt khí trong xe ô tô" . Tiến trình tai nạn dạng này sẽ nhanh hơn nếu nạn nhân ở trong phòng kín còn đốt ga, đốt than sưởi hay chạy máy điện để làm mát. Khi đó bên cạnh sự tiêu hao oxy nhanh hơn, thì khí độc CO sinh ra còn làm cho tổn thương khó chữa . Tai nạn bỏng Tai nạn bỏng là tồn thương da hoặc mô do tác động của nhiệt, điện, hóa chất, ma sát, hay bức xạ, hỏa hoạn. Tai nạn nhiễm độc Bài chi tiết: Ngộ độc Do quá trình con người tiếp xúc với nước, đất, không khí bị nhiễm độc. Hoặc do con người sử dụng quá nhiều hóa chất độc hại trong thực phẩm gây ra nhiễm độc. Ngoài ra do quá trình con người vô tình tiếp xúc chất độc trong quá trình sản xuất, lao động. Tai nạn chiếu xạ Tai nạn chiếu xạ xảy ra khi liều chiếu xạ lên cơ thể cao hơn mức an toàn cho phép, dẫn đến Hội chứng nhiễm phóng xạ cấp tính . Ở quy mô lớn là các vụ thử hay ném bom nguyên tử, hoặc sự cố ở nhà máy điện hạt nhân, như thảm họa Chernobyl hay sự cố nhà máy điện Fukushima I. Tại các cơ sở nghiên cứu hay ứng dụng hạt nhân và chiếu xạ, thì xảy ra tai nạn với quy mô nhỏ và thường chỉ một vài người ảnh hưởng. Tai nạn chiếu xạ đầu tiên ghi nhận là bà Marie Curie ở Pháp khi làm thí nghiệm với radi đã mắc nhiều bệnh mãn tính, hồi đầu thế kỷ 20 . Sau đó là trường hợp Harry K. Daghlian, Jr. tử nạn năm 1945 khi làm việc ở Dự án Manhattan thực hiện chế tạo bom nguyên tử trong Thế chiến thứ 2 ở Hoa Kỳ . Tại Việt Nam ca tai nạn chiếu xạ đầu tiên xảy ra ngày 17/11/1992 trên máy gia tốc Microtron MT-17 (lắp đặt 1984) ở Viện Khoa học, Hà Nội. Do lỗi vận hành mà một nghiên cứu viên đang chỉnh mẫu chiếu thì máy gia tốc đã bật, dẫn đến chiếu xạ hai bàn tay, gây bỏng và hoại tử một phần. Ngoài ra các khối chứa nguồn phóng xạ thường bị đánh cắp, như vụ mất nguồn phóng xạ của Nhà máy thép Pomina 3 Vũng Tàu. Nguồn phóng xạ dùng trong đo đạc di động như vậy thường nhỏ, cỡ 2 - 100 miliCurie (khác với nguồn rất mạnh dùng trong máy chiếu xạ thực phẩm), chỉ to cỡ cái đầu đũa (gọi là capsule) nặng cỡ vài gram, bên trong chứa bột chất phóng xạ được đóng vỏ kim loại và hàn kín. Tuy nhiên nó phải được đặt trong bình bằng chì nặng cỡ chục kg để chặn các tia phóng xạ, lại thường để xa chỗ ở của người sử dụng, nên là thứ hấp dẫn giới thu gom đồng nát . Những nguồn phóng xạ nhỏ này không đủ gây tai nạn chiếu xạ, nếu không để nó trong túi quần áo. Nguy hại xảy ra khi người ta đập vỡ capsule và để chất phóng xạ vung vãi trong khuôn viên nhà, tạo ra nguồn bệnh ung thư tiềm ẩn. Chỉ dẫn Tham khảo Xem thêm Tai nạn giao thông Tai nạn lao động Tai nạn hạt nhân và phóng xạ Liên kết ngoài Phân tích rủi ro
14983476
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%9Awieminko
Świeminko
Świeminko là một khu định cư ở khu hành chính của Gmina Biesiekierz, thuộc quận Koszalin, West Pomeranian Voivodeship, ở phía tây bắc Ba Lan. Xem thêm Lịch sử của Pomerania Tham khảo
2760424
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mochlosoma%20russulum
Mochlosoma russulum
Mochlosoma russulum là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Mochlosoma
14414562
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%99%20%C4%91%E1%BB%99c%20methanol
Ngộ độc methanol
Ngộ độc methanol hay ngộ độc rượu gỗ là việc ngộ độc do sử dụng methanol. Các triệu chứng có thể bao gồm giảm mức độ ý thức, phối hợp kém, nôn mửa, đau bụng và hơi thở có mùi đặc biệt. Suy giảm thị lực có thể bắt đầu sớm nhất là mười hai giờ sau khi tiếp xúc. Kết quả lâu dài có thể bao gồm mù và suy thận. Độc tính và tử vong có thể xảy ra ngay cả sau khi uống một lượng nhỏ. Ngộ độc methanol thường xảy ra nhất sau khi uống nước rửa kính chắn gió. Điều này có thể là vô tình hoặc được thực hiện có chủ đích trong nỗ lực tự tử. Độc tính cũng có thể hiếm khi xảy ra khi tiếp xúc với da hoặc hít phải khói. Khi cơ thể phân hủy methanol, nó sẽ tạo thành formaldehyd, axit formic và formate gây ra nhiều độc tính. Chẩn đoán có thể bị nghi ngờ khi có nhiễm toan hoặc tăng khoảng cách osmol và được xác nhận bằng cách đo trực tiếp nồng độ trong máu. Các điều kiện khác có thể tạo ra các triệu chứng tương tự bao gồm nhiễm trùng, tiếp xúc với rượu độc khác, hội chứng serotonin và nhiễm toan đái tháo đường. Điều trị sớm làm tăng cơ hội có kết quả tốt. Điều trị bao gồm ổn định người bệnh, sau đó là sử dụng thuốc giải độc. Thuốc giải độc được ưu tiên là fomepizole, với ethanol được sử dụng nếu không có sẵn. Thẩm tách máu cũng có thể được sử dụng ở những nơi có tổn thương nội tạng hoặc mức độ nhiễm toan cao. Các phương pháp điều trị khác có thể bao gồm natri bicarbonat, folate và thiamine. Bùng phát bệnh đã xảy ra do ô nhiễm của việc uống rượu. Điều này là phổ biến hơn ở các nước đang phát triển. Trong năm 2013, hơn 1700 trường hợp ngộ độc đã xảy ra ở Hoa Kỳ. Những người bị ảnh hưởng thường là người lớn và là nam giới. Kết quả có thể tốt với điều trị sớm. [1] Ca ngộ độc methanol đã được mô tả sớm nhất là vào năm 1856. Tham khảo Độc chất học RTT
3228427
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crossocheilus
Crossocheilus
Crossocheilus là một chi cá thuộc họ Cyprinidae gồm cá chép và cá tuế phân bố ở châu Á kể cả Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, và Malaysia Các loài Có tất cả 16 loài trong chi này: Crossocheilus atrilimes Kottelat, 2000 Crossocheilus burmanicus Hora, 1936 – Burmese latia Crossocheilus caudomaculatus (Battalgil, 1942) Crossocheilus cobitis (Bleeker, 1853) Crossocheilus diplochilus (Heckel, 1838) Crossocheilus elegans Kottelat & Tan, 2011 Crossocheilus gnathopogon M. C. W. Weber & de Beaufort, 1916 Crossocheilus klatti (Kosswig, 1950) – Isparta minnow Crossocheilus langei Bleeker, 1860 Crossocheilus latius (Hamilton, 1822) – Gangetic latia Crossocheilus nigriloba Popta, 1904 Crossocheilus oblongus: cá chuồn xiêm Kuhl & van Hasselt, 1823 – Siamese flying fox Crossocheilus obscurus Tan & Kottelat, 2009 Crossocheilus periyarensis Menon & P. C. Jacob, 1996 – Periyar latia Crossocheilus pseudobagroides Duncker, 1904 Crossocheilus reticulatus (Fowler, 1934) Tham khảo Cá châu Á
13605846
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ito%20Yuta
Ito Yuta
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản thi đấu cho Albirex Niigata, ở vị trí tiền vệ chạy cánh. Sự nghiệp câu lạc bộ Sinh ra ở Nagoya, Ito ra mắt cho Kyoto Sanga trong mùa giải 2011. Anh ký một bản hợp đồng gia hạn với câu lạc bộ vào tháng 9 năm 2011, và trải qua mùa giải 2013 theo dạng cho mượn tại Ehime. Anh chuyển đến Albirex Niigata vào tháng 1 năm 2016. Thống kê câu lạc bộ Cập nhật đến ngày 23 tháng 2 năm 2018. Tham khảo Liên kết ngoài Profile at Albirex Niigata Sinh năm 1992 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản Cầu thủ bóng đá Kyoto Sanga FC Cầu thủ bóng đá Ehime FC Cầu thủ bóng đá Albirex Niigata Cầu thủ bóng đá J1 League Cầu thủ bóng đá J2 League
14101847
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fujikawa%20Hisataka
Fujikawa Hisataka
Hisataka Fujikawa (sinh ngày 1 tháng 5 năm 1964) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Sự nghiệp câu lạc bộ Hisataka Fujikawa đã từng chơi cho Nagoya Grampus Eight và JEF United Ichihara. Tham khảo Sinh năm 1964 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản Cầu thủ bóng đá J1 League
2818898
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ophion%20atlanticus
Ophion atlanticus
Ophion atlanticus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Ophion
14136140
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tamaoki%20Seiichi
Tamaoki Seiichi
Seiichi Tamaoki (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1982) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Sự nghiệp câu lạc bộ Seiichi Tamaoki đã từng chơi cho Kawasaki Frontale. Tham khảo Sinh năm 1982 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
13375418
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%91ng%20Ng%E1%BB%8Dc%20Minh
Tống Ngọc Minh
Tống Ngọc Minh (1942 - 2013) là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam, nguyên Tổng cục phó Tổng cục An ninh 1, Công an nhân dân Việt Nam. Xuất thân Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Gia Lập, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Giáo dục Ông học hết lớp 10 phổ thông tại quê nhà năm sau đó tham gia lực lượng Công an nhân dân. Đến tháng 4 năm 1961 được cử đi học Đại học sư phạm ngoại ngữ. Sự nghiệp Tham gia lực lượng Công an nhân dân từ năm 1961 tại Cục kỹ thuật nghiệp vụ I, tổng cục phản gián, bộ Công an. Trong đội trinh sát kỹ thuật X40 phục vụ tại Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị và tại tỉnh Tây Ninh Từ 1975 ông công tác tại Hà Nội, đến năm 1992 giữ chức vụ Phó tổng cục trưởng Tổng cụ An Ninh Năm 2002 ông được thăng hàm thiếu tướng. Khen thưởng Huân chương Quân công hạng Ba Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì Hai huân chương Chiến công hạng Nhất Huân chương Chiến công hạng Ba Huân chương Quyết thắng hạng Ba Huân chương Hữu nghị Nhà nước Lào Huân chương Hữu nghị Nhà nước Xô viết Chú thích Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam đã mất Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam Tướng lĩnh Công an người Ninh Bình Huân chương Quân công hạng Ba Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì Huân chương Chiến công hạng Nhất
15323127
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chromis%20opercularis
Chromis opercularis
Chromis opercularis là một loài cá biển thuộc chi Chromis trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1867. Từ nguyên Tính từ định danh opercularis trong tiếng Latinh có nghĩa là "ở nắp mang", hàm ý đề cập đến vệt đen dày phía sau nắp mang của loài cá này. Phạm vi phân bố và môi trường sống Ở Tây Ấn Độ Dương, C. opercularis được phân bố dọc theo bờ biển Đông Phi trải dài đến Nam Phi, bao gồm Madagascar và Seychelles; còn ở phía đông, loài này được tìm thấy tại đảo Giáng Sinh và quần đảo Cocos (Keeling), cũng như các đảo phía tây Indonesia. C. opercularis sống tập trung trên rạn viền bờ và trong các đầm phá ở độ sâu khoảng 4–40 m. Mô tả C. opercularis có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 17 cm. Cơ thể có màu xám bạc (cá con) đến nâu đồng (cá trưởng thành). Có một vạch đen trên nắp mang, một vệt đen dày hơn và sẫm màu hơn ở ngay sau đầu và băng xuống gốc vây ngực (đặc điểm giúp phân biệt với các loài có kiểu hình tương tự). Cuống đuôi thường ánh vàng; vây đuôi màu vàng nâu; riêng cá con có hai thùy đuôi là màu vàng tươi. Rìa sau của vây lưng và vây hậu môn trong mờ. Mống mắt có vòng vàng bao quanh đồng tử. Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 10–11; Số tia vây ở vây ngực: 18–20; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 17–18; Số lược mang: 26–30. Cá con của C. opercularis, Chromis xanthura và Chromis anadema đều có chung đặc điểm là hai thùy đuôi có màu vàng; riêng C. opercularis và C. xanthura có phạm vi chồng lấn lên nhau ở đảo Giáng Sinh và quần đảo Cocos (Keeling). C. opercularis được thay thế bởi loài Chromis torquata ở Réunion và Mauritius, một loài mà cá con cũng có kiểu hình như đã nói trên. Sinh thái học Thức ăn của C. opercularis là động vật phù du, thường hợp thành đàn trên các rạn san hô. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng có độ dính và bám vào nền tổ. Tham khảo O Cá Ấn Độ Dương Cá Kenya Cá Tanzania Cá Mozambique Cá Nam Phi Cá Madagascar Cá Indonesia Cá Úc Động vật Seychelles Động vật đảo Giáng Sinh Động vật được mô tả năm 1867
2645366
https://vi.wikipedia.org/wiki/Psaliodes%20pallida
Psaliodes pallida
Psaliodes pallida là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Psaliodes
3203306
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4ng%20M%C6%A1%20d%C3%A2y
Tông Mơ dây
Paederieae là một tông trong phân họ Rubioideae của họ Rubiaceae. Các chi Leptodermis Paederia Saprosma (theo GRIN, tuy nhiên NCBI lại xếp chi này trong tông Spermacoceae.) Serissa Spermadictyon Tham khảo Liên kết ngoài
3227576
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A7n%20%C4%91%E1%BA%A3o%20Maddalena
Quần đảo Maddalena
Quần đảo Maddalena là một nhóm các đảo nằm trên eo biển Bonifacio, giữa đảo Corse (Pháp) và đông bắc Sardegna (Ý). Nó bao gồm 7 hòn đảo chính và nhiều đảo nhỏ khác. Địa lý Hòn đảo lớn nhất là Maddalena, nơi có La Maddalena là thị trấn lớn nhất của quần đảo. Các hòn đảo còn lại theo thứ tự diện tích bao gồm: Caprera, Spargi, Santo Stefano, Santa Maria, Budelli và Razzoli. Trong đó, chỉ có 3 hòn đảo Maddalena, Caprera và S. Stefano là có dân cư sinh sống. Nằm liền kề với các khu du lịch Costa Smeralda nổi tiếng, Maddalena cũng có vùng biển trong xanh, những cơn gió biển mát mẻ và bờ biển đá granit, đồng thời cũng là nơi trú ẩn của nhiều loài động vật hoang dã. Nó được chỉ định là Vườn quốc gia Quần đảo Maddalena (Parco Nazionale di Arcipelago La Maddalena). Đây là một điểm du lịch rất phổ biến, đặc biệt là cho những người đi thuyền. Năm 2006, quần đảo đã được đề cử trong danh sách dự kiến công nhận di sản thế giới của UNESCO. Lịch sử Các đảo được con người sử dụng là nơi cư trú từ thời tiền sử. Sau đó, nó được biết đến bởi những người La Mã như là Cunicularia và là một khu vực hàng hải bận rộn trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 1 TCN. Maddalena sau đó đã luôn giữ được giá trị chiến lược và lần đầu tiên trở thành mục tiêu của một cuộc tranh chấp giữa các nước cộng hòa có hoạt động hàng hải là Pisa và Genova vào thế kỷ 13, sau đó đã bị bỏ rơi trong một thời gian dài trước khi bị xâm chiếm một lần nữa bởi những mục đồng tới từ đảo Corse và các khu định cư đầu tiên ở Sardegna vào thế kỷ 16. Napoléon Bonaparte, Horatio Nelson và đặc biệt là nhà cách mạng Giuseppe Garibaldi tất cả đều có liên hệ lịch sử với khu vực này. Ngày nay Đảo Santo Stefano là một căn cứ hải quân của NATO nhưng đã bị đóng cửa vào năm 2008. Đây là cơ sở của một số tranh cãi trong những năm 2003 khi xảy ra khi tàu ngầm USS Hartford (SSN-768) mắc cạn trong khi đang diễn tập trong khu vực của quần đảo. Về mặt hành chính, quần đảo trước năm 2005 là một phần của tỉnh Sassari nhưng sau đó đã được sáp nhập về tỉnh Olbia-Tempio. Tuyến giao thông chính ra vào quần đảo là bằng phà từ thị trấn La Maddalena đến khu vực gần Palau trên đảo Sardegna. Chỉ có đảo Maddalena và Caprera là có những con đường để tiện cho việc đi lại. Nguồn Parco Nazionale dell'Arcipelago di La Maddalena Italian Government Tourist Board Tham khảo Maddalena Maddalena Maddalena
2916567
https://vi.wikipedia.org/wiki/Autographa%20yminus
Autographa yminus
Autographa yminus là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Autographa
2599991
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cataclysme%20dissimilata
Cataclysme dissimilata
Cataclysme dissimilata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Tham khảo Cataclysme
15879359
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Gearing%20%28DD-710%29
USS Gearing (DD-710)
USS Gearing (DD-710) là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tên ba thế hệ của gia đình Gearing: Trung tá Hải quân Henry Chalfant Gearing, Sr., Đại tá Hải quân Henry Chalfant Gearing, Jr. và Đại úy Hải quân Henry Chalfant Gearing, III. Hoàn tất khi chiến tranh đã sắp kết thúc, con tàu tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, cho đến khi xuất biên chế năm 1973 và tháo dỡ một năm sau đó. Thiết kế và chế tạo Gearing được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Federal Shipbuilding ở Newark, N.J. vào ngày 10 tháng 8 năm 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 2 năm 1945; được đỡ đầu bởi bà Thomas M. Foley, con gái Trung tá Gearing, và nhập biên chế vào ngày 3 tháng 5 năm 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân T. H. Copeman. Lịch sử hoạt động Hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi vịnh Guantánamo, Cuba, Gearing đi đến Norfolk, Virginia vào ngày 22 tháng 7, 1945, nơi nó tham gia huấn luyện cho thủy thủ đoàn tương lai của các tàu khu trục. Nó đi đến Casco Bay, Maine vào ngày 5 tháng 10, rồi chuyển đến Pensacola, Florida vào ngày 4 tháng 11, nơi nó phục vụ canh phòng máy bay cho tàu sân bay trong công tác huấn luyện chuẩn nhận phi công tàu sân bay. Quay trở lại Norfolk vào ngày 21 tháng 3, 1946, Gearing tiến hành những hoạt động thời bình dọc theo bờ biển Đại Tây Dương tại Bắc và Nam Mỹ cũng như tại vùng biển Caribe, từng viếng thăm Montevideo, Uruguay và Rio de Janeiro, Brazil. Nó khởi hành vào ngày 10 tháng 11, 1947 cho chuyến đi đầu tiên sang Địa Trung Hải, viếng thăm các cảng Algeria, Malta, Ý và Pháp trước khi quay trở về Norfolk vào ngày 11 tháng 3, 1948. Gearing tiếp nối những hoạt động thường lệ trong thời bình tại vùng bờ Đông và vùng biển Caribe trước khi thực hiện chuyến đi thứ hai sang vùng biển Châu Âu. Nó viếng thăm cảng của nhiều nước dọc theo bờ biển Địa Trung Hải từ ngày 10 tháng 11, 1947 đến ngày 11 tháng 3, 1948. Một chuyến đi tương tự được con tàu thực hiện từ ngày 4 tháng 1 đến ngày 23 tháng 5, 1949. Vào mùa Thu năm 1949, Gearing tham gia Chiến dịch Frostbite, một chuyến đi thử nghiệm tại vùng biển Bắc Cực nhằm đánh giá và phát triển kỹ thuật và thiết bị trong điều kiện lạnh giá. Nó lại có những hoạt động thường lệ tại vùng bờ Đông và vùng biển Caribe trong năm 1950, tiếp nối bằng một chuyến đi khác từ Norfolk sang khu vực Địa Trung Hải từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 17 tháng 5, 1951. Trong thời gian còn lại của năm 1951, những chuyến đi huấn luyện được nó thực hiện dọc theo bờ Tây, về phía Bắc đến tận Halifax, Nova Scotia, và về phía Nam đến vùng biển Cuba. Trong mười năm tiếp theo, Gearing tiếp nối một nhịp điệu hoạt động thường lệ tương tự, thường thực hiện chuyến đi hàng năm sang khu vực Địa Trung Hải, xen kẽ với những lượt thực hành huấn luyện và bảo trì dọc theo vùng bờ Đông và vùng biển Caribe. Vào cuối tháng 1, 1961, nó tham gia một lực lượng bao gồm ba tàu khu trục khác và tàu đốc đổ bộ dưới quyền Chuẩn đô đốc Allen E. Smith trong việc truy tìm chiếc tàu biển chở hành khách Bồ Đào Nha Santa Maria bị mất liên lạc tại Đại Tây Dương do bị chiếm giữ. Sau khi tìm thấy Santa Maria ở vị trí cách ngoài khơi Recife, Brazil , nó đưa đô đốc Smith sang con tàu khách để tiếp tục thương lượng với những kẻ nổi dậy cánh tả nhằm giải cứu 600 hành khách và 300 thành viên thủy thủ đoàn bị giữ làm con tin trên tàu; số con tin trên được thả tại Recife một ngày sau đó. Gearing được đại tu và hiện đại hóa tại Xưởng hải quân Boston ở Boston, Massachusetts từ cuối năm 1961 đến đầu năm 1962. Vào tháng 10, 1962, nó tham gia lực lượng hải quân phong tỏa vùng biển Cuba nhân vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba, khi Liên Xô bố trí tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân trên hòn đảo Trung Mỹ này. Vào ngày 24 tháng 10, nó là chiếc tàu chiến đầu tiên đã ngăn chặn một tàu chở hàng Xô Viết, chiếc Bucharest xuất phát từ cảng Odessa. Sau khi vụ khủng hoảng được giải quyết hòa bình bằng thương lượng ngoại giao, chiếc tàu khu trục quay trở về Norfolk vào ngày 1 tháng 11, tiếp tục hoạt động dọc bờ biển Đại Tây Dương trong thời gian còn lại của năm đó. Sau khi tham gia cuộc Tập trận "Springboard-63" vào đầu năm 1963, Gearing lên đường đi sang Địa Trung Hải vào tháng 3, nơi nó phục vụ cùng Đệ Lục hạm đội trong suốt mùa Hè. Quay trở về Newport vào tháng 9, con tàu được nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization). Nó tiếp tục hoạt động thường lệ dọc bờ biển Đại Tây Dương và vùng biển Caribe trong mùa Xuân và mùa Hè năm 1964 trước khi lên đường vào ngày 4 tháng 10 cho một lượt phục vụ khác cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải. Quay trở về nhà vào đầu năm 1965, nó tiếp tục phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương, và từng được phái đến thủ đô Santo Domingo, Cộng hòa Dominica vào ngày 10 tháng 5, hoạt động tuần tra ngoài khơi cảng này trong bốn mươi ngày. Đến mùa Thu năm đó, chiếc tàu khu trục lại được phái sang Địa Trung Hải và Hồng Hải, rồi lại tuần tra ngoài khơi Karachi trong mười một ngày, sẵn sàng di tản công dân Hoa Kỳ nếu cần thiết vào lúc xảy ra biến động chính trị tại Pakistan. Gearing tiếp tục hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và vùng biển Caribe, và cho đến năm 1970 đã trải qua hai lượt đại tu cùng những đợt biệt phái hoạt động khác. Vào tháng 8, 1970, nó được điều sang nhiệm vụ huấn luyện nhân sự của Hải quân Dự bị Hoa Kỳ từ căn cứ New London, Connecticut. Chuyến đi sang Địa Trung Hải cuối cùng của nó diễn ra vào cuối năm 1971, nhưng nó lại là con tàu đầu tiên thuộc lực lượng Hải quân Dự bị tham gia hoạt động cùng Đệ Lục hạm đội. Con tàu tiếp tục vai trò huấn luyện dự bị này cho đến khi xuất biên chế vào năm 1973. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 7, 1973; và con tàu bị bán để tháo dỡ vào ngày 6 tháng 11, 1974. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài Lớp tàu khu trục Gearing Tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ Tàu khu trục trong Thế Chiến II Tàu khu trục trong Chiến tranh Lạnh