id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
381
| title
stringlengths 1
211
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
2919251
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eutelia%20excitans
|
Eutelia excitans
|
Eutelia excitans là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Eutelia
|
2657023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Semiothisa%20penumbrata
|
Semiothisa penumbrata
|
Semiothisa penumbrata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
P
|
3239741
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pierre%20Andr%C3%A9%20Latreille
|
Pierre André Latreille
|
Pierre André Latreille (ngày 29 tháng 11 năm 1762 – ngày 6 tháng 2 năm 1833) là một nhà động vật học Pháp, chuyên về động vật Chân khớp. Được đào tạo thành một tu sĩ Công giáo Roma trước khi Cách mạng Pháp xảy ra, Latreille bị cầm tù và chỉ được thả tự do sau khi nhận diện một loài bọ cánh cứng hiếm mà ông tìm thấy ở trong tù, Necrobia ruficollis.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Works by Pierre André Latreille at the Biodiversity Heritage Library
Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp
Sinh viên Đại học Paris
Nhà động vật học với tên viết tắt
|
2595906
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apopetelia%20casperia
|
Apopetelia casperia
|
Apopetelia casperia là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Apopetelia
|
2753822
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cylindromyia%20orientalis
|
Cylindromyia orientalis
|
Cylindromyia orientalis là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Cylindromyia
|
2905192
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Achatia%20mucens
|
Achatia mucens
|
Achatia mucens là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Achatia
|
15278386
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/To%C3%A1n%20t%E1%BB%AD%20%C4%91i%E1%BB%81u%20ki%E1%BB%87n
|
Toán tử điều kiện
|
Toán tử điều kiện được hỗ trợ trong nhiều ngôn ngữ lập trình. Thuật ngữ này thường đề cập đến như ?: trong C / C ++ / C #, Python và JavaScript. Tuy nhiên, trong Java thuật ngữ này cũng có thể được nhắc đến như là && và ||.
Xem thêm
Tham khảo
Toán tử (lập trình)
Lập trình máy tính
|
2713121
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Palpita%20metallata
|
Palpita metallata
|
Palpita metallata là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Động vật được mô tả năm 1781
Palpita
|
2933241
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marcipalina%20hayesi
|
Marcipalina hayesi
|
Marcipalina hayesi là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Marcipalina
|
2807713
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ichneumon%20salutator
|
Ichneumon salutator
|
Ichneumon salutator là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ichneumon
|
7817340
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xe%20bu%C3%BDt%20hai%20t%E1%BA%A7ng
|
Xe buýt hai tầng
|
Xe buýt hai tầng là một xe buýt có hai tầng. Xe buýt hai tầng được sử dụng để vận chuyển hàng loạt ở Anh, Châu Âu, Châu Á và nhiều thành phố của các thuộc địa châu Âu, ví dụ điển hình nhất là chiếc xe buýt màu đỏ tại Anh.
Các xe buýt hai tầng đầu tiên đưa người lái xe vào một ngăn riêng biệt. Lối lên của hành khách được thông qua một tầng mở ở phía sau, và một người soát vé xe buýt sẽ lấy tiền vé. Các xe buýt 2 tầng hiện đại có cửa chính ở phía trước, nơi người lái xe lấy tiền vé, do đó giảm đi một nửa số người phục vụ trên xe buýt, nhưng làm chậm quá trình lên xe. Kiểu cửa mở phía sau, phổ biến với hành khách, đã bị từ bỏ vì lý do an toàn, vì có nguy cơ hành khách ngã xuống khi chạy và nhảy lên xe buýt.
Va chạm với cầu
Có một số lượng đáng kể các tai nạn trong đó một xe buýt hai tầng đã va chạm với một cây cầu thấp, thường là một cây cầu có đường sắt. Điều này thường do người lái xe rẽ sai đường, lái xe một tuyến đường mà họ không quen, hoặc đã quen lái xe buýt một tầng và quên để ý đến chiều cao của xe khi lái xe hai tầng.
Vụ va chạm của một xe Megabus 2 tầng với một cây cầu đường sắt vào tháng 9 năm 2010 tại Syracuse, New York đã làm 4 người thiệt mạng và 17 người bị thương.
Trong những năm gần đây ở Anh, có sáu người bị thương nhẹ sau khi xe buýt của họ đâm vào một cây cầu đường sắt tại Stockport vào tháng 7 năm 2013. Một chiếc xe buýt đã va chạm với một cây cầu đường sắt tại Sileby, Leicestershire vào tháng 6 năm 2014. Một chiếc xe buýt không hành khách đã mất toàn bộ mái của nó sau khi va đập vào một cây cầu đường sắt ở Birkenhead vào tháng 12 năm 2014.
Tham khảo
Phương tiện giao thông
|
2577997
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Araeomolis%20propinqua
|
Araeomolis propinqua
|
Araeomolis propinqua là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Araeomolis
|
2904931
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acanthermia%20xanthopterygia
|
Acanthermia xanthopterygia
|
Acanthermia xanthopterygia là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Acanthermia
|
13674186
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Octavian%20Abrudan
|
Octavian Abrudan
|
Octavian Abrudan (sinh ngày 16 tháng 3 năm 1984 ở Cluj-Napoca) là một cầu thủ bóng đá người România thi đấu ở vị trí trung vệ thi đấu cho Universitatea Cluj.
Liên kết ngoài
Official FCSB profile
Sinh năm 1984
Nhân vật thể thao từ Cluj-Napoca
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá România
Cầu thủ bóng đá FC Universitatea Cluj
Cầu thủ bóng đá ACF Gloria Bistrița
Cầu thủ bóng đá SR Brașov
Cầu thủ bóng đá FC Steaua București
Cầu thủ bóng đá FC Rapid București
Cầu thủ bóng đá FC Milsami
Cầu thủ bóng đá CS Gaz Metan Mediaș
Cầu thủ bóng đá Liga I
Hậu vệ bóng đá
|
2591571
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Parasiccia%20fasciata
|
Parasiccia fasciata
|
Parasiccia fasciata là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Parasiccia
|
2935993
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minucia%20marginata
|
Minucia marginata
|
Minucia marginata là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Minucia
|
3565060
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Batalha
|
Batalha
|
Batalha có thể đề cập đến:
Batalha, Bồ Đào Nha
Batalha, Alagoas, Brasil
Batalha, Piauí, Brasil
|
2907137
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aegocera%20isogenis
|
Aegocera isogenis
|
Aegocera isogenis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Aegocera
|
3403948
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Allak-dong
|
Allak-dong
|
Allak là một phường trong Dongnae-gu, Busan, Hàn Quốc. Nó được chia thành 2 dong hành chính, Allak 1-dong và Allak 2-dong. Tổng diện tích là 2.31 km², với mật độ dân số là 18,560. Nó giáp Geumjeong-gu ở phía Bắc.
Tên "Allak" được đặt thành dong vào năm 1953. Nó được chia thành 2 dong hành chính vào 1990. Mỗi văn phòng dong có 10 nhân viên.
Xem thêm
Phân cấp hành chính Hàn Quốc
Liên kết
Trang chủ Allak 1-dong
Trang chủ Allak 2-dong
Tham khảo
Quận Dongnae
|
2910505
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Angitia%20esthera
|
Angitia esthera
|
Angitia esthera là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Angitia
|
2804091
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hadrodactylus%20femoratus
|
Hadrodactylus femoratus
|
Hadrodactylus femoratus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hadrodactylus
|
3379200
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%20Xoan
|
Chi Xoan
|
Chi Xoan (danh pháp khoa học: Melia) là chi thực vật có hoa thuộc họ Xoan (Meliaceae). Danh pháp khoa học của chi Melia này bắt nguồn từ μηλια, một từ trong tiếng Hy Lạp mang nghĩa tro được Carl von Linné dùng để miêu tả đặc điểm màu hoa của chúng gợi lên hình ảnh tương tự loài Fraxinus ornus mà Theophrastus (371 – 287 tr.CN) cũng đã sử dụng mô tả bằng từ μηλια..
Danh sách loài
Các loài được giữ lại thuộc chi Xoan cho đến thời điểm hiện tại:
Các loài trước đây
Azadirachta excelsa (Jack) M.Jacobs (tên trước đây Melia excelsa Jack)
Azadirachta indica A.Juss. (tên trước đây Melia azadirachta L.)
Cipadessa baccifera (Roth) Miq. (tên trước đây Melia baccifera Roth)
Dysoxylum parasiticum (Osbeck) Kosterm. (tên trước đây Melia parasitica Osbeck)
Sandoricum koetjape (Burm.f.) Merr. (tên trước đây Melia koetjape Burm.f.)
Chú thích
Liên kết ngoài
M
|
19793140
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/J%C3%A4germeister
|
Jägermeister
|
( , ; viết cách điệu là Jägermeiſter) là một loại rượu tiêu vị của Đức được sản xuất từ 56 thảo mộc và gia vị. Công thức sản xuất vẫn chưa từng được điều chỉnh từ khi sáng lập. Được phát triển năm 1934 bởi Wilhelm và Curt Mast, có độ cồn 35% và phân phối trong một chai thủy tinh màu xanh lá đặc trưng. Đây là sản phẩm chủ lực của Mast-Jägermeister SE, có trụ sở tại , Đức.
Lịch sử
Wilhelm Mast là một nhà sản xuất giấm và buôn bán rượu tại thành phố , Đức. Con trai của ông là Curt Mast (1897–1970), đam mê sản xuất rượu mạnh và rượu mùi, và giúp đỡ cha mình trong công việc kinh doanh ngay từ khi còn nhỏ. Năm 1934, ở tuổi 37, sau khi tiếp quản công việc kinh doanh của cha mình, Curt đã nghĩ ra công thức cho "Jägermeister".
Curt có đam mê lớn với việc săn bắn. Tên gọi Jägermeister trong tiếng Đức có nghĩa "Liệp thủ" tức chỉ một chức quan lớn trong triều đình quản lý và tổ chức các hoạt động săn bắn. Cụm từ đã mang ý nghĩa chỉ một công việc qua nhiều thế kỷ. Năm 1934, Luật săn bắn Reich () đã định nghĩa lại cụm từ này bao gồm những người đi rừng lâu năm, các trọng tài và người tổ chức trò chơi phục vụ trong xã hội tại Đức. được bổ nhiệm chức vụ Liệp thủ theo bộ luật Reich hunting master khi luật này được ban hành. Do đó, khi rượu Jägermeister được ra mắt năm 1935, người Đức đã quen thuộc với cái tên này, đôi khi còn gọi là rượu "".
được thế giới chú ý nhiều hơn phần nhiều nhờ công của Sidney Frank (1919–2006), người điều hành một công ty nhập khẩu rượu Mỹ. Từ những năm 1980, ông đã quảng bá rượu đến giới trẻ và sinh viên Mỹ như một món rượu nhậu – công dụng rất khác biệt với nguồn gốc ban đầu tại thị trường quê nhà ở Đức. Tạp chí New York dẫn lời một hãng nghiên cứu thị trường bình luận ông là "thiên tài quảng cáo" vì đã biến "món rượu mùi không đọc ra được tên... được giới lao động cổ cồn xanh đứng tuổi ở Đức dùng hỗ trợ hệ tiêu hóa sau ăn ... thành biểu tượng tiệc tùng." Công ty sau đó đã mua lại công ty Sidney Frank Importing vào năm 2015.
Công thức
là một loại rượu mùi thảo mộc (). Nó gần giống với các loại rượu mùi châu Âu khác, chẳng hạn như Gammel Dansk của Đan Mạch, Făt-Frumos và Nucul de Aur của Moldova, Beerenburg của Hà Lan, Unicum của Hungary, Becherovka của Cộng hòa Séc, Gorzka Żołądkowa của Ba Lan, Demänovka của Slovakia, Pelinkovac của Croatia, Riga Black Balsam của Latvia, Gorki List của Serbia, Fernet-Branca của Ý, Licor Beirão của Bồ Đào Nha và Chartreuse và Bénédictine của Pháp. Không giống như các món uống này, Jägermeister có vị ngọt hơn. Ngay tại nước Đức, có khá nhiều các thuơng hiệu cạnh tranh như Killepitsch, Kuemmerling, Schierker Feuerstein, Schwartshog, Wurzelpeter và Underberg, một số trong các rượu này cũng có vị ngọt như Jägermeister.
Thành phần của Jägermeister bao gồm 56 loại thảo mộc, trái cây, rễ cây và các hưong liệu bao gồm vỏ cam, quýt, cam thảo, hồi, hạt anh túc, nghệ tây, gừng, quả bách xù và nhân sâm. Những thành phần này được nghiền nát, sau đó ngâm trong nước và rượu trong hai đến ba ngày. Hỗn hợp này được lọc và lưu trữ trong thùng gỗ sồi trong khoảng một năm. Sau đó, rượu được lọc lại và trộn với đường, caramel và cồn.
Công ty sản xuất khuyến nghị nên ướp đá Jägermeister và uống lạnh, đề xuất nên bảo quản rượu trong tủ đông ở nhiệt độ −18 °C (0 °F) hoặc trong các tháp hoặc vòi rượu trong khoảng nhiệt độ từ -15 đến −11 °C (5 và 12 °F).
Không như các lời đồn trên mạng internet, không chứa máu hươu hoặc máu nai sừng tấm.
Nhãn hiệu
trái|nhỏ|279x279px|Anon. (Pháp), Untitled (Thánh. Eustace), tranh khắc gỗ thế kỷ 19, Bộ sưu tập Hình ảnh, Thư viện Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia, Washington, DC
nhỏ|Thánh Hubertus nhìn thấy khải tượng cây thánh giá giữa gạc của một con hươu đực
Nhãn hiệu trên các chai rượu Jägermeister có hình một cây thánh giá Kitô giáo phát sáng giữa gạc của một con hươu đực. Hình ảnh này liên quan đến hai thánh bảo hộ người thợ săn, Thánh Hubertus và Thánh Eustace, cả hai đều cải đạo sang Cơ đốc giáo sau khi trải qua một khải tượng là một cây thánh giá giữa gạc của một con hươu đực.
In the product name on the label is one of the few surviving examples of the use of the long s in print.
Tên sản phẩm là một trong số ít các trường hợp hiện nay sử dụng chữ s kéo dài trong cách viết.
Nhãn hiệu cũng có in câu thơ sau đây từ bài thơ Weidmannsheil, viết bởi thợ săn kiêm nhà điểu học Oskar von Riesenthal; nhãn không nêu danh tác giả.
Nguyên văn bài thơ:Tạm dịch nghĩa theo bản dịch tiếng Anh của ,:Vinh hạnh của kẻ đi săn,
Là trò chơi hắn bảo vệ và giữ gìn
Săn bắn bằng tinh thần thượng võ
Tôn vinh Ngài qua tạo vật của Ngài
Các loại Cocktail dùng Jägermeister
nhỏ|Jägerbomb cocktail
Jägermeister pha với nước tăng lực Red Bull theo kiểu "shot glass" gọi là Jägerbomb.
Món cocktail Liquid Heroin là một "shooter" (dung tích 30ml, thường được uống chỉ bằng một hơi) gồm một phần Rumple Minze, một phần Jägermeister và một phần rượu rum Bacardi 151. Nếu muốn pha Liquid Cocaine thì thay Rumple Minze bằng Goldschläger. .
Surfer on Acid là cocktail pha bằng ba phần bằng nhau gồm: , Malibu, và nước ép dứa.
The Four Horsemen of the Apocalypse là một cocktail dùng trong ly shot bao gồm bốn phần bằng nhau các loại rượu , Rumple Minze, , và Bacardi 151.
Starry Night được pha bởi shot rượu và shot rượu .
Redheaded Slut là cocktail pha bởi Jägermeister, rượu Schnapps huơng đào, và nứoc ép nam việt quất.
Các sản phẩm khác
Pha sẵn
Năm 2012 ra mắt các món uống được pha sẵn gồm "raw" và "ginger lime".
Manifest
Năm 2018, ra mắt dòng sản phẩm cao cấp Manifest. Món rượu 38% độ cồn được ủ trong thùng gỗ sồi lâu gấp đôi và không khuyến nghị dùng lạnh.
Dòng sản phẩm karakter
Vào năm 2019, Jägermeister đã ra mắt sản phẩm đầu tiên trong dòng sản phẩm "karakter", Scharf, còn được gọi là Jägermeister hương gừng cay. Mỗi sản phẩm trong sê-ri karakter sẽ làm nổi bật một trong 56 loại thảo mộc và gia vị đặc trưng của Jägermeister. Kể từ tháng 1 năm 2021, không có sản phẩm mới trong dòng sản phẩm này được ra mắt.
Jägermeister Cold Brew Coffee
Vào năm 2019, Jägermeister đã ra mắt Jägermeister Cold Brew Coffee Liqueur, với công thức truyền thống bổ sung thêm vị cà phêvà ca cao.
Tài trợ thương mại
nhỏ|Một chiếc Porsche 956 của đội đua Brun Motorsport, tài trợ bởi
Thể thao
Từ những năm 1970, thương hiệu Jägermeister đã gắn liền với môn đua xe mô tô, qua việc tài trợ cho nhiều đội đua châu Âu, chủ yếu là những đội sử dụng xe BMW và Porsche. Các đội này đã thi đấu trong nhiều loạt giải đua lớn bao gồm Công thức 1 (tháng 3 và EuroBrun), DRM (Max Moritz, Kremer, Zakspeed), DTM và Nhóm C (Brun Motorsport), và đã giành giải đua đồng đội tại Giải vô địch xe thể thao thế giới năm 1986.
Màu cam đặc trưng của thương hiệu Jägermeister là một trong những màu sắc dễ nhận ra trong đua xe thể thao. Thương hiệu đồ chơi Spanish Fly mới đây đã cho ra mắt những mẫu xe với thiết kế đặc trưng này. Gần đây hơn, họ đã giới thiệu Naylor Racing NHRA Pro Stock car, nhưng không có màu cam trên. Một bài báo trong ấn bản Autosport ngày 31 tháng 1 năm 2008 đã liệt kê màu sơn này là một trong 20 cách phối màu thương mại ấn tượng nhất.
Jägermeister gắn liền với bóng đá Đức, đặc biệt là Bundesliga. Năm 1973, Eintracht Braunschweig trở thành đội Bundesliga đầu tiên in logo của nhà tài trợ trên áo thi đấu của mình, dù đội từ chối lời đề nghị đổi tên thành . Khoản tài trợ đã gây tranh cãi gay gắt vào thời điểm đó khi đã trả cho đội Eintracht Braunschweig 100.000 DM (tương đương 51.130 €) và khai mở một phương thức kinh doanh mới trong nền công nghiệp bóng đá. Các dội bsong khác nhanh chóng học hỏi. Jägermeister giờ đã được đặt quảng cáo tại nhiều sân bóng đá ở Đức.
Jägermeister cũng xuất hiện trong môn bóng bàn châu Âu khi tài trợ cho câu lạc bộ Đức TTC Jägermeister Calw và là nhà tài trợ cá nhân của Dragutin Šurbek.
Kể từ năm 2018, Jägermeister đã tài trợ cho National Hockey League (NHL) để được giới thiệu là món uống shot chính thức của NHL.
Âm nhạc
Tại Hoa Kỳ, Jägermeister trở nên nổi tiếng nhờ sự quảng bá của Sidney Frank và thông qua việc hợp tác với các ban nhạc rock và heavy metal như Murphy's Law, Halestorm, Metallica, Mötley Crüe, Pantera, Slayer, HIM, Crossfaith, Epica, The Bloodhound Gang, Psychostick và Turbonegro. Jägermeister là nhà tài trợ lưu diễn cho nhiều ban nhạc thuộc thể loại này.
Jägermeister là nhà tài trợ cho chặng thứ hai của Lễ hội âm nhạc Rockstar Mayhem từ năm 2008. Lễ hội Mayhem là một lễ hội lớn của tín đồ nhạc Hard rock và Modern metal lưu diễn ở Hoa Kỳ và Canada. Lễ hội có sự góp mặt của các ban nhạc Machine Head, Airbourne, Five Finger Death Punch và Walls of Jerichotrong năm 2008; Trivium, All That Remains và God Forbid trong năm 2009 và Hatebreed, Chimaira, Shadows Fall, Winds of Plague trong năm 2010. The 2011 có sự tham gia của Unearth, Kingdom of Sorrow, và Red Fang. The 2012 có Anthrax, Asking Alexandria, and một số ban nhạc khác.
Tại Úc, tài trợ Bảng xếp hạng AIR là bảng xếp hạng âm nhạc độc lập chính thức của Úc (do Hiệp hội các hãng thu âm độc lập Úc điều hành).
Vào năm 2020, Jägermeister Mỹ đã khởi động một chương trình tên "Meister Class", một sân chơi nhằm cung cấp cho các nhạc sĩ mới nổi cơ hội học hỏi và gặp gỡ với các ngôi sao đã thành danh như Mustard, Smino và EarthGang.
Vào ngày 18 tháng 12 năm 2020, Jägermeister USA được thông báo đã quyên góp một triệu đô la cho Quỹ cứu trợ khẩn cấp NIVA để hỗ trợ các địa điểm gặp khó khăn do COVID-19.
Hình ảnh
Xem thêm
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
tiếng Anh
Tiếng Đức
cho thị trường Mỹ
Tiểu thuyết năm 2018
Tiểu thuyết của Murakami Haruki
Tiểu thuyết Nhật Bản
|
2930384
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Porphyrinia%20striantula
|
Porphyrinia striantula
|
Porphyrinia striantula là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Porphyrinia
|
2808220
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Itoplectis%20aterrima
|
Itoplectis aterrima
|
Itoplectis aterrima là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Itoplectis
|
3210165
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A5n%20c%C3%B4ng%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Garissa
|
Tấn công Đại học Garissa
|
Ngày 2 tháng 4 năm 2015, các tay súng đã xông vào trường Đại học Garissa ở Garissa, Kenya, giết hại ít nhất 147 người và ít nhất 79 người khác bị thương. Nhóm phiến quân Al-Shabaab, mà các tay súng tự xưng đến từ đó, đã nhận trách nhiệm cho vụ tấn công. Các tay súng đã bắt cóc nhiều sinh viên, phóng thích nhiều người hồi giáo nhưng bắt giữ các Kitô hữu. Cuộc tấn công kết thúc cùng ngày sau khi bốn tay súng bị giết.
Đây là cuộc tấn công đẫm máu nhất ở Kenya kể từ vụ đánh bom Đại sứ quán Hoa Kỳ vào năm 1998. Cuộc tấn công này cũng có nhiều thương vong hơn cuộc tấn công trung tâm mua sắm Westgate ở Nairobi, Kenya vào năm 2013.
Lệnh giới nghiêm ban đêm từ 18 giờ 30 phút chiều cho đến 6 giờ 30 phút sáng đã được áp dụng đến ngày 16 tháng 4 tại Garissa và các nơi khác là (Wajir, Mandera và Tana River) gần biên giới Kenya với Somalia.
Diễn biến
Vào lúc 05:30 ngày 2 tháng 4 theo giờ địa phương, một nhóm tay súng bịt mặt đã bất ngờ tấn công trường từ một thánh đường Hồi giáo gần đó. Chúng sử dụng súng AK-47 và dây lưng gắn thuốc nổ. Đã xảy ra một cuộc đụng độ giữa các tay súng và các nhân viên bảo vệ của trường đại học. Chúng đã giết 2 bảo vệ của trường và sau đó tấn công vào các khu ký túc xá, nổ súng vào nhóm sinh viên tới hành lễ cầu nguyện buổi sáng tại một thánh đường trong khuôn viên nhà trường. Lực lượng Quốc phòng Kenya và các cơ quan an ninh khác đã được triển khai, bao vây phong tỏa trường học để ngăn những kẻ tấn công trốn thoát. Ba trong số bốn ký túc xá đã được sơ tán.
Cuộc tấn công kết thúc sau gần 15 giờ đồng hồ. Các tay súng đã bị giết lúc hoàng hôn. Trong số 147 nạn nhân thiệt mạng thì đa số họ điều là sinh viên, các nạn nhân khác gồm 2 nhân viên bảo vệ, 1 người lính và 1 cảnh sát cũng bị thiệt mạng. Khoảng 587 sinh viên trốn thoát, nhưng 79 người bị thương.
Chú thích
Các cuộc tấn công vào năm 2015
Thảm sát tại trường học
Giết người hàng loạt năm 2015
Khủng bố Hồi giáo tại Kenya
|
13632670
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abdullah%20Al-Junaibi
|
Abdullah Al-Junaibi
|
Abdullah Al-Junaibi (Arabic:عبد الله الجنيبي) (sinh ngày 14 tháng 6 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Hiện tại anh thi đấu cho Al-Wasl.
Liên kết ngoài
Tham khảo
Cầu thủ bóng đá nam Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Sinh năm 1988
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Sharjah FC
Cầu thủ bóng đá Al Shabab Al Arabi Club
Cầu thủ bóng đá Al-Arabi (UAE)
Cầu thủ bóng đá Al-Shaab
Cầu thủ bóng đá Al Wasl FC
Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
|
3185051
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptoclididae
|
Cryptoclididae
|
Cryptoclididae là một họ plesiosaurs có kích thước trung bình tồn tại từ giữa kỷ Jura tới đầu kỷ Phấn Trắng. Năm 2010, Kaiwhekea được chuyển sang Leptocleididae còn Aristonectes được chuyển sang Elasmosauridae.
Đặc điểm
Chúng có cái cổ dài, hộp sọ rộng và ngắn và răng dày đặc. Chúng chủ yếu ăn động vật thân mềm, cá nhỏ và một số động vật giáp xác.
Cây phát sinh loài của Ketchum và Benson (2010):
Văn hóa
Chi Cryptoclidus đã từng xuất hiện trên kênh BBC trong series Walking with Dinosaurs.
Tham khảo
Liên kết ngoài
palaeos.com
Plesiosauria
Động vật bò sát thời tiền sử
Khủng long kỷ Jura
Động vật kỷ Creta
Dự án Khủng long/Theo dõi
|
2643185
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pitthea%20fuliginosa
|
Pitthea fuliginosa
|
Pitthea fuliginosa là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Pitthea
|
2571852
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudocalamobius%20lobatus
|
Pseudocalamobius lobatus
|
Pseudocalamobius lobatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Pseudocalamobius
|
2908872
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agrotis%20venata
|
Agrotis venata
|
Agrotis venata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
V
|
19511403
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Adyghe
|
Người Adyghe
|
Thuật ngữ Người Adyghe hay người Adygea (tiếng Adygea: Адыгэ, Adygè; tiếng Nga: Адыги, Adygi; sn. Адыгейцы, Adygeytsy) được sử dụng để chỉ những người nói một thổ ngữ tiếng Circassia ở Bắc Kavkaz. Tên Adyghe còn được phiên âm là Adyga, Adyge, Adygei, Adyghe, Attéghéi,.. được cho là bắt nguồn từ atté "height" biểu thị người vùng cao hoặc người miền núi, còn ghéi "biển" để chỉ người làm ăn sinh sống ở miền núi non gần bờ biển".
Adyghe cũng được sử dụng để mô tả những người nói tiếng Adyghe hoặc 'Tây Circassia'. Dân tộc Adyghe có 10 bộ lạc Adyghe (hoặc nhóm phụ) , còn người Circassia chia ra 12 bộ lạc Circassia. Mỗi bộ lạc có tên gọi riêng. Trong số đó bốn bộ lạc nói các phương ngữ Adyghe hiểu lẫn nhau được, là Abzakh, Bzhedug, Temirgoy và Shapsug.
Hầu hết người Adyghe ở Nga là cư dân của Cộng hòa Adygea, một chủ thể liên bang của Nga nằm ở phía tây nam của nước Nga thuộc Châu Âu, được bao bọc trong Krasnodar Krai. Tên của họ cũng được hiển thị là Adyge (tiếng Nga: Адыгейцы). Ngoài ra còn có một số lượng nhỏ hơn sống ở các vùng xung quanh Adygea ở Krasnodar Krai.
Tuy nhiên theo thông tin của Joshua Project thì người Adyghe có tổng dân số 689.000 người cư trú ở 13 nước, đông nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ có 350 ngàn người, trên gấp đôi số người Adyghe ở Nga.
Người Adyghe nói tiếng Adygea , còn được gọi là tiếng Tây Circassia (tiếng Adyghe: КӀахыбзэ, K’axybzæ), một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tây Bắc Kavkaz. Tiếng Adygea cùng với tiếng Nga là hai ngôn ngữ chính thức ở Cộng hòa Adygea (Liên bang Nga) . Những người Adyghe ở nước khác thì nói ngôn ngữ chính thức ở đó.
Tham khảo
Nguồn
Liên kết ngoài
Nhóm sắc tộc ở Nga
Người bản địa Châu Âu
Cộng đồng người Hồi giáo Nga
Adygea
Người Circassia
Dân tộc Kavkaz
Lịch sử Kuban
Vùng Krasnodar
|
3233560
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Montanoceratops
|
Montanoceratops
|
Montanoceratops là một chi khủng long, được C. M. Sternberg mô tả khoa học năm 1951.
Xem thêm
Danh sách khủng long
Chú thích
Khủng long
Montanoceratops
Động vật tuyệt chủng
Động vật được mô tả năm 1951
Khủng long kỷ Phấn Trắng
Khủng long Bắc MỹDự án Khủng long/Theo dõi
|
13955080
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20Danh%20Dy
|
Dương Danh Dy
|
Dương Danh Dy (chữ Hán: 楊名易, 1934 – 2018) là nhà ngoại giao, cựu Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, học giả hàng đầu Việt Nam trong nghiên cứu về vấn đề Trung Quốc. Ông được coi là một trong những người Việt Nam hiểu Trung Quốc nhất cũng như những dã tâm đối với Việt Nam của Chính quyền Trung Nam Hải.
Sự nghiệp
Dương Danh Dy xuất thân dòng dõi nhà nho, có cụ là Dương Đình Lập từng giữ chức Tuần phủ Thái nguyên và Đốc học Hà Nội, và ông ngoại là Nguyễn Hữu Cầu ô Cử nhân Đông tác, một trong những sáng lập viên của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Sau khi tốt nghiệp đại học, ông làm đại diện thương mại Việt Nam ở Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh. Những hiểu biết về Trung Quốc của ông khiến Lưu Đoàn Huynh, một cán sự ở sứ quán chú ý, hai người sau đó trở thành bạn thân. Khi về nước, Lưu Đoàn Huynh giới thiệu Dương Danh Dy với Hoàng Bảo Sơn, Vụ trưởng Vụ Trung Quốc và ông đã theo về Bộ Ngoại giao sau khi nói chuyện với Hoàng Bảo Sơn. Khi về Bộ Ngoại giao, ông làm cán sự, rồi chuyên viên Bộ Ngoại giao, tư vấn cho lãnh đạo Bộ Ngoại giao về tình hình Trung Quốc. Thứ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đánh giá cao Dương Danh Dy và ông cũng là người trực tiếp ảnh hưởng đến con đường tiến thân của Dương Danh Dy, với tư cách là một chuyên gia về Trung Quốc.
Phong cách nghiên cứu về Trung Quốc của ông (khác với những người đi trước) là nghiên cứu tổng thể, từ lịch sử, chính trị, kinh tế đến quan hệ song phương. Ông nắm rõ mục tiêu các Đại hội Đảng của Trung Quốc. Dương Danh Dy và Lưu Đoàn Huynh là hai cán sự rồi chuyên viên duy nhất được tham dự giao ban cấp vụ của Bộ Ngoại giao. Ông nhận vai trò Bí thứ thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh vào tháng 9-1977, thời điểm mà xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc đang bị đẩy dần tới đỉnh điểm, chỉ hơn một năm trước cuộc Chiến tranh biên giới Việt – Trung 1979; và, rời Trung Quốc năm 1996, thời kỳ hữu nghị sau Hội nghị Thành Đô, khi đang làm Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu.
Dương Danh Dy là người được Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ trao tận tay hai tập đánh máy cuốn Hồi ức của ông. Sau khi giúp ông Trần Quang Cơ hoàn chỉnh cuốn Hồi ức, chính ông Dương Danh Dy là người đã công bố cuốn Hồi ức nói chi tiết nhất về các chuyển động trước Hội nghị Thành Đô này (khi Thứ trưởng Trần Quang Cơ còn sống). Năm 2006, sau khi đọc xong cuốn Hồi ức của nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, nguyên Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Võ Văn Kiệt đã tìm gặp Dương Danh Dy hỏi chi tiết để hiểu rõ về những việc ngành ngoại giao và Nguyễn Cơ Thạch làm trong thời kỳ bị cấm vận và bình thường hóa với Trung Quốc.
Dương Danh Dy qua đời vào ngày 18 tháng 9 năm 2018, thọ 84 tuổi.
Tác phẩm
Sách
1. Tuyển tập truyện cực ngắn hay Trung Quốc (tuyển chọn), Nhà xuất bản Thanh niên, 2008.
Sách dịch
1. Người Trung Quốc và nhưng hiểu lầm về lịch sử, tác giả Kỳ Ngạn Thần.
2. Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954.
3. Hồi ký của những người trong cuộc (2002).
Báo chí
1. Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979 (BBC, ngày 18/2/2009)
2. Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô.
Nhận định của Dương Danh Dy
Đánh giá về Dương Danh Dy
Tham khảo
Sinh năm 1934
Mất năm 2018
Nhà ngoại giao Việt Nam
|
2671266
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zamarada%20onycha
|
Zamarada onycha
|
Zamarada onycha là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Zamarada
|
14101365
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uemura%20Takashi
|
Uemura Takashi
|
Takashi Uemura (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1973) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Takashi Uemura đã từng chơi cho Yokohama Flügels, Vissel Kobe, Sagan Tosu, Kawasaki Frontale, Cerezo Osaka và JEF United Ichihara.
Tham khảo
Sinh năm 1973
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá Cerezo Osaka
|
2755662
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eunemorilla%20mixta
|
Eunemorilla mixta
|
Eunemorilla mixta là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Eunemorilla
|
13737960
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jupiter%20Indiges
|
Jupiter Indiges
|
Theo nhà sử học La mã Livy, Jupiter Indiges là tên được trao cho vị anh hùng Aeneas. Trong một số phiên bản của câu chuyện của mình, ông được nuôi dưỡng để trở thành một vị thần sau khi ông qua đời bởi Numicius, một vị thần địa phương của dòng sông cùng tên, theo yêu cầu của mẹ Venus của Aeneas. Tiêu đề Pater Indiges hoặc Indiges đơn giản cũng được sử dụng.
Nhà sử học Hy Lạp Dionysius của Halicarnassus lưu ý rằng khi cơ thể của Aeneas không được tìm thấy sau một trận chiến giữa nhóm Trojan của ông lưu vong ở Ý và người bản xứ Rutơ, người ta cho rằng ông đã bị các vị thần đưa lên để trở thành một vị thần. Ông cũng trình bày giải thích thay thế rằng Aeneas có thể đã chết đuối dưới sông Numicus và rằng một ngôi đền trong ký ức của ông đã được xây dựng ở đó.
Thuật ngữ "Indiges", được một số người nghĩ đến từ cùng một gốc như "bản địa", có thể phản ánh thực tế rằng những vị thần nhỏ này (gọi chung là Di di cư) có nguồn gốc địa phương ở Ý. Một lời giải thích thay thế là họ là những cá nhân được nuôi dưỡng về vị thế của các vị thần sau khi chết. So sánh ví dụ Sol Indiges.
Tham khảo
|
14512105
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20Leuser
|
Núi Leuser
|
Núi Leuser là một trong ba đỉnh núi nổi bật trên dãy Leuser ở tỉnh Aceh của Indonesia. Phạm vi nằm ở phía nam và phía tây của sông Alas chảy về phía đông từ vùng cao nguyên Gayo của trung tâm Aceh trước khi quay về phía nam qua đất nước Karo Batak ở tỉnh Bắc Sumatra. Vùng Leuser có hình thành cổ xưa - nó không phải là núi lửa. Khu vực này được coi là khu vực hoang dã lớn nhất ở Đông Nam Á. Mục này thiết lập tên, độ cao, vị trí và sự nổi bật của ba đỉnh, 'Tanpa Nama', Loser và Leuser, trên Leuser Range. Người ta thường cho rằng đỉnh cao nhất là Núi Leuser khi thực tế nó là Núi 'Tanpa Nama'. Núi Leuser là thấp nhất trong ba đỉnh.
Tham khảo
Núi Indonesia
|
14729028
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carolina%20Maria%20de%20Jesus
|
Carolina Maria de Jesus
|
Carolina Maria de Jesus (ngày 14 tháng 3 năm 1914 - 13 tháng 2 năm 1977) là một nhà văn người Brasil sống phần lớn cuộc đời mình trong một favela (khu ổ chuột) của São Paulo, Brasil. Bà nổi tiếng với cuốn nhật ký của mình, lần đầu tiên được xuất bản với tên Quarto de Despejo (Chỗ đổ rác, xuất bản bằng tiếng Anh là Child of the Dark) vào tháng 8 năm 1960, sau khi được một nhà báo Brasil chú ý và trở thành một cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm này vẫn là tác phẩm duy nhất được xuất bản bằng tiếng Anh của một người sống ở khu ổ chuột Brasil từ thời kỳ đó.
Tiểu sử
Đầu đời
Carolina Maria de Jesus được sinh ra ở Minas Gerais, một cộng đồng nông thôn nơi cha mẹ cô làm tá điền. Cô là một đứa con ngoài giá thú của một người đàn ông đã có vợ, nên bị đối xử như một kẻ bị ruồng bỏ trong suốt thời thơ ấu. Khi Carolina lên bảy tuổi, mẹ cô đã ép cô đi học sau khi một người vợ địa chủ giàu có trả tiền học cho cô và những đứa trẻ da đen nghèo khổ khác trong khu phố. Cô dừng việc học ở lớp hai, tuy vậy cô cũng đã biết đọc và viết. Vì mẹ cô có hai đứa con ngoài giá thú, gia đình cô bị loại khỏi Giáo hội Công giáo khi cô vẫn còn nhỏ. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời, Carolina coi mình là một người Công giáo sùng đạo. Trong nhật ký của mình, cô thường đưa ra các tài liệu tham khảo trong Kinh thánh và nói về Chúa: " Tôi mơ tôi là một thiên thần. Chiếc váy của tôi bị gió thổi bay và có tay áo dài màu hồng. Tôi đã đi từ trái đất đến thiên đường. Tôi đặt những ngôi sao trong tay và chơi với chúng. Tôi đã nói chuyện với các ngôi sao. Họ đưa ra một chương trình để vinh danh tôi. Họ nhảy múa xung quanh tôi và làm một con đường phát sáng. Khi tỉnh dậy tôi nghĩ: mình nghèo quá. Tôi không đủ khả năng để đi chơi nên Chúa gửi cho tôi những giấc mơ này cho tâm hồn đau đớn của tôi. Gửi đến Chúa, người bảo vệ tôi, tôi gửi lời cảm ơn."
Năm 1937, mẹ de Jesus qua đời và Carolina buộc phải di cư đến vùng đô thị São Paulo. Cô tự làm nhà bằng gỗ dán, lon, bìa cứng và bất cứ thứ gì khác mà cô có thể tìm thấy. Cô đi ra ngoài mỗi tối để nhặt giấy vụn để có tiền hỗ trợ gia đình. Cô bán những gì đã thu thập được và sau đó đi đến cửa hàng và mua thức ăn mà cô ấy có thể mua với số tiền đó. Cô cũng tìm thấy các tạp chí và sổ ghi chép cũ, trong đó cô bắt đầu ghi lại các hoạt động hàng ngày của mình và về cuộc sống của cô ở favela. Hàng xóm của cô tức giận khi thấy cô ấy luôn viết. Bản thân họ không biết chữ nhưng họ cảm thấy không thoải mái với suy nghĩ về việc cô viết về họ. Hàng xóm của cô ghen tị với cô và có xu hướng đối xử với Carolina và các con của cô rất tồi tệ. Cô là một phụ nữ trẻ hấp dẫn và có nhiều cuộc tình, mặc dù cô từ chối kết hôn, vì đã thấy quá nhiều bạo lực gia đình trong khu ổ chuột, và thích duy trì sự độc lập. Không giống như nhiều phụ nữ da đen ở thời gian và địa điểm đó, Carolina đã cảm thấy vinh dự với chủng tộc của mình; Cô nghĩ da và tóc cô thật đẹp.
Ba đứa con của cô có những người cha khác nhau, ít nhất một trong số họ là một người đàn ông da trắng giàu có. Trong nhật ký của mình, cô kể chi tiết về cuộc sống hàng ngày của các khu ổ chuột, và mô tả thẳng thắn các sự kiện chính trị và xã hội sắp đặt cuộc sống của họ. Cô viết về việc nghèo đói và tuyệt vọng có thể khiến những người có tư cách đạo đức cao phải thỏa hiệp với các nguyên tắc và tự làm mất danh dự của họ chỉ đơn giản là để có thức ăn cho bản thân và gia đình. Không có cơ hội nào để tiết kiệm tiền, bởi vì bất kỳ khoản thu nhập thêm nào phải ngay lập tức dùng để trả hết nợ tồn đọng.
Xuất bản nhật ký
Nhật ký của Carolina Maria De Jesus được xuất bản vào tháng 8 năm 1960. Cô được nhà báo Audalio Dantas phát hiện vào tháng 4 năm 1958. Dantas đang đưa tin việc khánh thành một sân chơi thành phố nhỏ và ngay sau các nghi lễ, một băng đảng đường phố tiến vào và chiếm lấy khu vực, đuổi lũ trẻ đi. Dantas thấy Carolina đứng ở rìa sân chơi hét lên: "Hãy cút đi, hoặc tôi sẽ đưa bạn vào cuốn sách của tôi!" Những kẻ xâm nhập bỏ đi. Dantas hỏi cô nói về cuốn sách của mình là ý gì; Ban đầu cô rất ngại, nhưng đã đưa anh ta đến lều của mình và cho anh thấy tất cả mọi thứ. Dantas yêu cầu một bản mẫu nhỏ của cuốn hồi ký và sau đó đăng nó trên báo.
Câu chuyện của Carolina "đã kích động cả thị trấn", và vào năm 1960, Quarto de Despejo (Nơi đổ rác), đã được xuất bản. Nó trở thành cuốn sách thành công nhất trong lịch sử xuất bản Brasil. Mặc dù được viết bằng ngôn ngữ đơn giản, không phù hợp của một người sống trong khu ổ chuột, cuốn nhật ký của cô đã được dịch sang mười ba ngôn ngữ và trở thành một cuốn sách bán chạy nhất ở Bắc Mỹ và Châu Âu. Nó được xuất bản ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh với tên gọi Con của bóng tối: Nhật ký của Carolina Maria de Jesus, vào năm 1962. Cuốn sách đã được Dantas biên tập rất nhiều, và một số nhà phê bình nghi ngờ rằng cuốn nhật ký là một sự gian lận; nhưng bản thảo gốc đã được bảo tồn và được in lại toàn bộ vào năm 1999, chứng minh rằng Carolina không chỉ tự viết nó mà còn là một nhà văn sống động và thơ mộng hơn nhiều so với ấn bản của Dantas.
Điều này đến như là một bất ngờ cho thị trấn của cô cũng như cả nước. Nhiều người hàng xóm của Carolina biết về các bài viết của cô trước khi xuất bản và trêu chọc và chế giễu cô. "Hầu hết trong số họ thậm chí không biết đọc, nhưng nghĩ rằng cô ấy nên làm những việc khác với thời gian rảnh rỗi hơn là viết và lưu trữ các tác phẩm cũ." Càng nhiều người trêu chọc các bài viết của cô, ấn phẩm này càng làm "làm nổ tung" thị trấn và hơn 30.000 bản đã được bán trong ba ngày đầu tiên. Mọi người yêu cầu gửi nhiều bản sách hơn nữa trên khắp nước Brasil. Cùng với tính phổ biến mạnh mẽ mà cuốn nhật ký tạo ra, Carolina đã trở thành nạn nhân xã hội, đặc biệt là ở thị trấn địa phương của cô.
Nhật ký của Carolina Maria De Jesus kể chi tiết về hiện thực nghiệt ngã của cuộc đời cô cũng như xung quanh cô. Cô đánh giá hàng xóm của mình về lối sống của họ, sử dụng tên và hoàn cảnh thực tế của họ trong cuốn sách. "Bạn đã viết những điều xấu về tôi, bạn đã làm tồi tệ hơn tôi", một người hàng xóm say rượu hét lên. Nhiều người hàng xóm coi thường Carolina vì cô dường như coi thường lối sống của người dân thị trấn. Một người đàn ông "hét lên với cô rằng cô là một" con điếm da đen", người đã trở nên giàu có bằng cách viết về các khu ổ chuột nhưng từ chối chia sẻ tiền của cô với họ." Không chỉ nói những lời độc ác, mọi người ném đá và chậu cây vào cô và các con cô. Mọi người cũng tức giận vì cô chuyển đến một ngôi nhà gạch ở ngoại ô với số tiền đầu tiên thu được từ cuốn nhật ký của mình. "Hàng xóm vây quanh xe tải và không cho cô ấy rời đi. "Bây giờ bạn nghĩ bạn thuộc tầng lớp cao, phải không", họ hét lên. Những người hàng xóm địa phương đã coi thường cô vì những gì họ coi là chê bai cách sống của họ, mặc dù cuốn nhật ký của cô đã làm tăng kiến thức của người đọc về những khu ổ chuột trên khắp thế giới:
Tham khảo
Người Minas Gerais
Nhà văn thế kỷ 20
Nữ nhà văn thế kỷ 20
Nữ nhà văn Brasil
Mất năm 1977
Sinh năm 1914
|
19763511
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Concerto%20cho%20v%C4%A9%20c%E1%BA%A7m%20%28Weinberg%29
|
Concerto cho vĩ cầm (Weinberg)
|
Concerto cho vĩ cầm là một sáng tác của Mieczysław Weinberg viết ở cung Sol thứ, Op . 67 vào năm 1959. Bản concerto cho vĩ cầm này được nghệ sĩ độc tấu Leonid Borisovich Kogan thu âm lần đầu tiên tại Moskva vào năm 1961, nhưng mãi tới thế kỷ 21, tác phẩm này mới được biểu diễn lần đầu tiên ở Đức, Mỹ và các nước khác.
Lịch sử
Mieczysław Weinberg sáng tác bản concerto cho vĩ cầm này vào năm 1959. Bản concerto được công diễn lần đầu tại Moskva vào ngày 12 tháng 2 năm 1961 do Leonid Borisovich Kogan là nghệ sĩ độc tấu với Dàn nhạc giao hưởng Moskva và Gennady Nikolayevich Rozhdestvensky là nhạc trưởng. Tác phẩm được xuất bản bởi Sikorski ở Hamburg và dành tặng riêng cho Kogan.
Buổi công diễn tại Đức do Linus Roth làm nghệ sĩ độc tấu cùng dàn nhạc giao hưởng Badische Staatskapelle với Mei-Ann Chen làm chỉ huy trưởng tại Badisches Staatstheater Karlsruhe đã diễn ra vào ngày 2 tháng 11 năm 2014. Buổi công diễn khác ở Mỹ do Gidon Kremer làm nghệ sĩ độc tấu cùng dàn nhạc giao hưởng Naples Philharmonic do Andrey Boreyko chỉ huy tại Hayes Hall ở Naples, Florida được trình diễn không lâu sau vào ngày 9 tháng 1 năm 2015.
Cấu trúc và âm
Bản concerto cho vĩ cầm này gồm 4 chương:
Allegro molto
Allegretto
Adagio
Allegro risoluto
Thời gian trung bình để biểu diễn hết tác phẩm vào khoảng 26 phút. Chương nhạc mở đầu được mô tả là "không nguôi", qua đó gợi nhớ đến bản concerto cho vĩ cầm của Khachaturian, tiếp theo là 2 chương mang tính "khai thác" sử dụng các âm hình giống nhau với âm điệu nhẹ nhàng hơn. Chương cuối trở lại với một "sự chuyển động mạnh dần" nhưng lại kết thúc ở cuờng độ pianissimo (siêu nhỏ).
Thu âm
Bản concerto cho vĩ cầm của Weinberg được Kogan thu âm vào năm 1961 một lần nữa với Dàn nhạc Giao hưởng Moskva, hiện nay do Kirill Kondrashin là chỉ huy trưởng. Một người đánh giá bản phát hành lại năm 2015 đã ghi nhận "cường độ miết của Kogan liên quan chặt chẽ đến kỹ thuật tinh tế của ông ấy", đặc biệt là trong đoạn cadenza. Vào năm 2014 tác phẩm đã được thu âm cùng với bản concerto cho vĩ cầm của Britten do Linus Roth độc tấu và Dàn nhạc Giao hưởng Đức Berlin với Mihkel Kütson chỉ huy. Bản thu âm này là một phần trong kế hoạch mà Linus Roth đề ra nhằm thu âm lại tất cả các tác phẩm của Weinberg mang tính độc tấu vĩ cầm. Một người đánh giá từ Gramophone cho rằng bản thu của Roth có "sự tinh tế và nhiều màu sắc hơn" so với Kogan. Bản concerto này được thu âm một năm sau đó bởi Ilya Gringolts với Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Warszawa do Jacek Kaspszyk chỉ huy. Một bản thu âm của Gidon Kremer với Dàn nhạc Gewandhaus do Daniele Gatti chỉ huy đã được phát hành vào năm 2021, trong đó có đi kèm thêm bản sonata cho hai vĩ cầm.
Tham khảo
Concerto cho vĩ cầm
Nhạc khúc Sol thứ
|
2578516
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stenosphenus%20debilis
|
Stenosphenus debilis
|
Stenosphenus debilis là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Stenosphenus
|
2643704
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Poecilasthena%20nubivaga
|
Poecilasthena nubivaga
|
Poecilasthena nubivaga là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Poecilasthena
|
2809065
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leptobatopsis%20spilopus
|
Leptobatopsis spilopus
|
Leptobatopsis spilopus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Leptobatopsis
|
13477750
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%E1%BB%8Dc%20k%E1%BB%8B%20s%C4%A9
|
Văn học kị sĩ
|
Văn học kị sĩ (, , ), hay lãng mạn hào hiệp, là thuật ngữ trỏ các tài liệu thế tục mô tả lối sống và hành động của giới kị sĩ, sau bành trướng thành tinh thần và phẩm hạnh kị nhân, trực tiếp liên đới Bộ quy tắc hiệp sĩ. Dòng nghệ thuật này manh nha tại Pháp thế kỷ XI và chóng vánh phát triển dưới sự bảo trợ của Tòa Thánh trong nhiều thế kỷ tiếp theo. Đa số trứ tác thường tập trung phản ánh đức trung thành phụng sự tín điều, những chặng đường phiêu lưu hành hiệp và ái tình của kị nhân, hoặc có thể là quá trình rèn rũa từ kị nhân nên kị sĩ rồi cuối cùng là hiệp sĩ. Cùng dòng văn học thành thị, văn học kị sĩ đã phá vỡ thế độc quyền của văn học nhà thờ, nhưng chính nó lại bồi đắp cho văn học và triết học sĩ lâm dồi dào sống động thêm. Nhân vật chính trong các truyện kể kị sĩ thường là người có hành động trượng nghĩa và vô cùng mộ đạo, do thế, được coi là sự tiếp nối dạng nhân vật anh hùng cổ đại.
Lịch sử
Theo nghĩa hẹp, văn học kị sĩ gồm những trứ tác xuất hiện tại Âu châu trung đại và xoay quanh lối sống cùng đức tin của giới kị nhân. Nhưng một cách phổ quát hơn, là những văn phẩm thể hiện được lối sống, tính cách và lý tưởng của giới võ bị, do đó mà không cố định thời đại và quốc gia nào. Cả hai ý nghĩa này đều được chấp nhận trong học giới, nhưng vế sau có nhiều phần trội hơn.
Ngay từ trung đại, các văn phẩm kị sĩ đã được sáng tác bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau nên ngày nay ít nhất chúng giữ được vai trò chủ đạo trong phạm trù ngôn ngữ học, thậm chí bảo tồn nhiều tử ngữ, ngoài ra còn tự gầy dựng được phong cách mĩ thuật độc đáo thông qua việc minh diễn nội dung câu từ. Đây cũng là một trong những dòng văn học hi hữu hấp dẫn được lượng tác gia, độc giả và phong cách sáng tạo khổng lồ. Đối với các quốc gia hình thành muộn tại Âu châu, nó còn có tác dụng kiến tạo bản sắc.
Tiêu biểu
Tác phẩm
Romances of Chrétien de Troyes
Queste del Saint Graal
Perceforest
The Knight in the Panther's Skin
Valentine and Orson
King Horn
The Squire of Low Degree
Romance of the Rose
Ngài Gawayn và Lục Kị Sĩ
Guilhem de la Barra by Arnaut Vidal
Guillaume de Palerme
Le Morte D'Arthur - Sir Thomas Malory
Amadis de Gaula- João Lobeira and Garci Rodríguez de Montalvo
"The Knight's Tale" and "The Wife of Bath's Tale" from Geoffrey Chaucer's The Canterbury Tales
Chevalere Assigne
Sir Eglamour of Artois
Octavian
Ipomadon
Sir Gawain and the Carle of Carlisle
The Knightly Tale of Gologras and Gawain
Tirant lo Blanch - Joanot Martorell
Amadas
Sir Cleges
The King of Tars
Sir Isumbras
Erl of Toulouse
Generides
Roswall and Lillian
Hertig Fredrik av Normandie
Tác giả
Chrétien de Troyes
Thomas Malory
Geoffrey Chaucer
Văn hóa
Dòng văn học này là cảm hứng vô tận cho nhiều ngành nghệ thuật và khoa học khác nhau.
Xem thêm
Bộ quy tắc hiệp sĩ
Sĩ lâm triết học
Tham khảo
The International Courtly Literature Society
Base de datos bibliográfica sobre literatura caballeresca Clarisel.
Amadís de Gaula 1508. Quinientos años de libros de caballerías. Exposición en el museo de la Biblioteca Nacional de España.
Catálogo descriptivo de libros de caballerías
Caballeros andantes
Английские, французские, бретонские рыцарские романы
Сэр Гавейн и Зелёный рыцарь
Смерть Артура
Thể loại văn học
Lý thuyết văn học
|
2911172
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anomis%20satellifera
|
Anomis satellifera
|
Anomis satellifera là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Anomis
|
14417156
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fujita%20Toshiko
|
Fujita Toshiko
|
(5 tháng 4 năm 1950 – 28 tháng 12 năm 2018) là diễn viên lồng tiếng Nhật Bản. Bà từng là diễn viên lồng tiếng của Aoni Production.
Thông tin chi tiết
Vai lồng tiếng nổi bật
Nhân vật chính trong anime được in đậm.
Yagami Taichi trong Digimon Adventure, Digimon Adventure 02
Ikkyū trong Tiểu hòa thượng Ikkyū
Cross trong Ginga Nagareboshi Gin
Corazón Muto trong Allison & Lillia
Dai trong Dragon Quest: The Adventure of Dai
Hilda trong Outlaw Star
Kiteretsu trong Cuốn từ điển kì bí
Mamiya trong Fist of the North Star
Papii (1st voice) trong Yūsei Shōnen Papii
Rally Cheyenne trong Silent Möbius
Rui Kisugi trong Cat's Eye
Shashi-oh trong RG Veda
Yūko Inoue Prefectural Earth Defense Force
Zofis trong Zatch Bell!
Taeko Miyauchi trong Chihayafuru
"Big Mom" Charlotte Linlin trong One Piece (tập 571)
Saniwa trong Kurozuka (novel)
Madam Exorcist – Inuyasha
Chigusa Tsukikage trong the 2005 version of Glass Mask
Theagan trong Deltora Quest
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin của Fujita Toshiko Aoni Production
Fujita Toshiko trên trang thông tin Seiyuu
Nữ diễn viên lồng tiếng Nhật Bản
Nhạc sĩ anime
Chết vì ung thư vú
Nữ ca sĩ Nhật Bản
Ca sĩ anime
|
2579850
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sybra%20ceylonensis
|
Sybra ceylonensis
|
Sybra ceylonensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Sybra
|
2916132
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Audea%20stenophaea
|
Audea stenophaea
|
Audea stenophaea là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Audea
|
2608219
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ectropis%20mochlosema
|
Ectropis mochlosema
|
Ectropis mochlosema là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Ectropis
|
2651237
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scopula%20concinnaria
|
Scopula concinnaria
|
Scopula concinnaria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
C
|
15114270
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dihya%20%28ca%20s%C4%A9%29
|
Dihya (ca sĩ)
|
Dihya (tên thật là Zohra Aïssaoui) là một ca sĩ người Algeria của âm nhạc Chaoui. Dihya sinh năm 1950, làng Taghit gần Tighanimine đến Amar Aïssaoui Taghit và Ourida Meghamri của T'kout. Bà chuyển đến Pháp năm 1958 khi 8 tuổi.
Danh sách đĩa hát
Eker d! Eker d! (1981)
Usin d! Usin d! (1982)
Dzaïr essa (2005)
Tham khảo
Nadia Bouseloua, Azeddine Guerfi, Rachid Mokhtari, Philippe Thiriz, Aurès, Vivre La Terre Chaouie - La cantatrice vô hình, Chihab Éditions, Alger, 2011.
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1950
Nữ ca sĩ Algérie
|
2659731
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Synegia%20plumbea
|
Synegia plumbea
|
Synegia plumbea là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Synegia
|
2624114
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hypoxystis%20obscurata
|
Hypoxystis obscurata
|
Hypoxystis obscurata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hypoxystis
|
2594709
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Siccia%20stictica
|
Siccia stictica
|
Siccia stictica là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Siccia
|
2927142
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Perigea%20albistriata
|
Perigea albistriata
|
Perigea albistriata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Perigea
|
12317524
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam%20b%E1%BB%99%20h%E1%BB%95
|
Tam bộ hổ
|
Tam bộ hổ (Trung quốc gọi là 三步虎) là một thế trận khai cuộc trong cờ tướng với cách di chuyển quân của bộ ba (Xe Pháo Mã) ba nước dịch chuyển quần uyển chuyển như bước đi của con hổ nên thế trận này được gọi là tam bộ hổ.
Giới thiệu
Đây là lối chơi rõ ràng không cần phải khéo léo, bạn đầu thế trận nạy được sử dụng cho bên đi sau khi bên đi trước chậm ra xe, nhưng sau này người ta nghiên cứu thêm tam bộ hổ ở cánh ngược.
Nước biến trong khai cuộc
Tam bộ hổ cánh thuận
Nước 1 Pháo 2 bình 5, Mã 8 tiến 7
Nước 2 Mã 2 tiến 3, Xe 9 bình 8
Nước 3 Tốt 3 tiến 1, Pháo 8 bình 9
Tam bộ hổ cánh nghịch
Nước 1 Pháo 2 bình 5, Mã 2 tiến 3,
Nước 2 Mã 2 tiến 3, Pháo 2 bình 1,
Nước 3 Xe 1 bình 2, Xe 1 bình 2,
Xem thêm
Thuận pháo
Tiên nhân chỉ lộ
Bình phong mã
Nghịch pháo
Thiệt hoạt xa
Điệp pháo
Liễm pháo
Sĩ giác pháo
Đơn đề mã
Quá cung pháo
Phi tượng cuộc
Liên kết ngoài
http://thanglongkydao.com/archive/index.php/t-3271.html
http://cotuongvietnam.vn/threads/4480-Tuyen-chon-100-van-tam-bo-ho-pha-tran-trung-phao-hay-nhat
http://kydao.net/khai-cuc/70/phao-dau-vs-tam-bo-ho
http://www.youtube.com/watch?v=1-0b6P0kqwY
Khai cuộc cờ tướng
|
2657435
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Semiothisa%20transvisata
|
Semiothisa transvisata
|
Semiothisa transvisata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
T
|
2592691
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alcis%20nigrocinctata
|
Alcis nigrocinctata
|
Alcis nigrocinctata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Alcis
|
15115381
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Edna%20Ermyntrude%20Bourne
|
Edna Ermyntrude Bourne
|
Edna Ermyntrude "Ermie" Bourne là một chính trị gia đến từ Barbados, người phụ nữ đầu tiên được bầu vào Hạ viện của Barbados. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1951, Bourne được bầu làm đại diện cho giáo xứ St Andrew và phục vụ cho đến năm 1961.
Tham khảo
Nữ chính khách Barbados
|
2939675
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ophiuche%20scissalis
|
Ophiuche scissalis
|
Ophiuche scissalis là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ophiuche
|
3282822
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wildfire%20%28album%20c%E1%BB%A7a%20Rachel%20Platten%29
|
Wildfire (album của Rachel Platten)
|
Wildfire là album phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Hoa Kỳ Rachel Platten, được ấn định phát hành vào ngày 1 tháng 1 năm 2016, bởi hãng Columbia Records.
Album bao gồm "Fight Song", phát hành vào tháng 2 năm 2015, đạt đến vị trí thứ 6 tại Billboard Hot 100, và đứng đầu bảng xếp hạng tại Scotland và Vương quốc Anh. Đĩa đơn thứ hai từ album, "Stand by You", được phát hành vào ngày 11 tháng 9 năm 2015.
Quảng bá
Đĩa đơn
Vào ngày 19 tháng 2 năm 2015, "Fight Song" được phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên từ EP đầu tay của cô Fight Song. "Fight Song" đạt đến vị trí thứ 6 trên Billboard Hot 100.
"Stand by You" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thú hai từ Wildfire vào 11 tháng 9 năm 2015. Bài hát đang đứng tại vị trí thứ 85 trên Billboard Hot 100.
Tour lưu diễn
Để hõ trợ cho album, Rachel Platten đã mở ra tour lưu diễn The Wildfire Tour. Tour sẽ bắt đầu từ ngày 26 tháng 12 năm 2016 tại Dallas, Texas.
Danh sách bài hát
Lịch sử phát hành
Tham khảo
Album năm 2016
Album đầu tay năm 2016
Album của Rachel Platten
|
13676831
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sandro%20Galli
|
Sandro Galli
|
Sandro Galli (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1987) là một hậu vệ bóng đá người Thụy Sĩ, hiện tại thi đấu cho SR Delémont ở Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Thụy Sĩ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1987
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ
Cầu thủ bóng đá FC Thun
Cầu thủ bóng đá FC SR Delémont
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ
|
14817620
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Siganus%20magnificus
|
Siganus magnificus
|
Siganus magnificus là một loài cá dìa sinh sống ở phía đông Ấn Độ Dương. Loài này thỉnh thoảng được nuôi làm cá cảnh. Loài cá này phát triển đến chiều dài 24 cm.
Phạm vi và phân bố
S. Magnificus là loài đặc hữu của biển Andaman. Loài này sống ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương trên thế giới. Loài này chỉ được tìm thấy trong các cộng đồng rạn san hô quanh Quần đảo Simalian, đến tận Java, Indonesia. Loài này là vùng nhiệt đới, dao động từ 15 độ đến 0 độ. Nó thường được tìm thấy ở độ sâu giữa 2 m- 30m. Chúng sống ở nhiệt độ nước từ 24 độ C đến 28 độ C.
Chú thích
Tham khảo
M
Động vật được mô tả năm 1977
Cá Thái Lan
|
19091899
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Contagion%20%28phim%202011%29
|
Contagion (phim 2011)
|
Contagion (tạm dịch: Sự truyền nhiễm) là một bộ phim điện ảnh đề tài giật gân của Mỹ năm 2011 do Steven Soderbergh làm đạo diễn. Phim quy tụ dàn diễn viên hùng hậu gồm Marion Cotillard, Matt Damon, Laurence Fishburne, Jude Law, Gwyneth Paltrow, Kate Winslet, Bryan Cranston, Jennifer Ehle và Sanaa Lathan. Nội dung phim xoay quanh một chủng virus lây lan rộng qua những giọt hô hấp li ti hoặc các mầm bệnh vô tri, những nỗ lực của các nhà nghiên cứu y khoa học và quan chức y tế công cộng nhằm nhận biết và ngăn chặn dịch bệnh, sự mất trật tự xã hội trong một đại dịch và quá trình giới thiệu liều vắc-xin để ngăn dịch lây lan. Nhằm tạo tương tác tốt giữa các mạch truyện, phim đã sử dụng kĩ thuật "điện ảnh siêu liên kết" kể chuyện theo nhiều góc nhìn, vốn phổ biển trong các bộ phim của Soderbergh.
Sau lần hợp tác trong The Informant! (2009), Soderbergh và nhà biên kịch Scott Z. Burns tiến hành thảo luận về một tác phẩm điện ảnh miêu tả sự lây lan nhanh chóng của một chủng virus, lấy cảm hứng từ những đại dịch như dịch SARS 2002–2004 và đại dịch cúm 2009. Burns đã tìm lời khuyên từ đại diện của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng như các chuyên gia y khoa là W. Ian Lipkin và Lawrence "Larry" Brilliant. Quá trình ghi hình chính khởi động tại Hồng Kông vào tháng 9 năm 2010 và tiếp tục thực hiện tại các địa điểm như Chicago, Atlanta, Luân Đôn, Geneva và San Francisco đến tháng 2 năm 2011.
Contagion ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Venezia lần thứ 68 ở Venezia, Ý vào ngày 3 tháng 9 năm 2011 và ra rạp vào ngày 9 tháng 9 năm 2011. Về mặt thương mại, phim thu về 136,5 triệu USD so với kinh phí 60 triệu USD bỏ ra. Tác phẩm đã được giới phê bình ngợi khen nhờ lối kể chuyện cũng như diễn xuất, đồng thời còn được giới khoa học đón nhận tốt bởi họ tán dương độ chính xác của phim. Bộ phim đã trở nên tái nổi tiếng trong bối cảnh diễn ra đại dịch COVID-19 2019-20.
Cốt truyện
Trở về từ một chuyến đi công tác ở Hồng Kông, Beth Emhoff (Paltrow) dừng chân nghỉ tại Chicago và gặp một người yêu cũ để ân ái. Hai ngày sau, tại ngôi nhà của gia đình mình nằm ở ngoại ô Minneapolis, cô ngã gục vì bị đột quỵ. Chồng cô là Mitch Emhoff (Damon) đưa cô tới bệnh viện, nhưng rồi cô qua đời mà chưa rõ nguyên nhân gây bệnh. Mitch trở về nhà và thấy cậu con trai riêng của anh cũng tử vong. Mitch bị cách ly nhưng rồi được phát hiện có khả năng miễn dịch, anh trở về nhà cùng cô con gái tuổi mới lớn Jory.
Tại Atlanta, đại diện của Bộ An ninh Nội địa gặp gỡ Bác sĩ Ellis Cheever (Fishburne) thuộc Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) và bày tỏ lo ngại rằng căn bệnh là một tác nhân sinh học và dự kiến sẽ gây ra nỗi kinh hoàng vào dịp cuối tuần của Lễ Tạ ơn. Cheever bèn biệt phái Bác sĩ Erin Mears (Winslet), một cán bộ của Dịch vụ tình báo dịch tễ tới Minneapolis điều tra. Mears lần ra dấu vết của dịch đến từ Beth. Cô thương lượng với các quan chức địa phương nhưng họ không sẵn lòng chuẩn bị các nguồn lực y tế công cộng để phản ứng khi dịch bùng phát. Kết quả là sau đó Mears nhiễm bệnh và tử vong. Khi dịch bệnh lây trên diện rộng, một số thành phố bị đặt trong tình trạng phong tỏa, kế đó là nạn cướp bóc và bạo lực hoành hành.
Tại CDC, Bác sĩ Ally Hextall (Ehle) xác định rằng chủng virus là một hỗn hợp vật liệu di truyền từ các virus trên cơ thể lợn và dơi, với tên gọi MEV-1. Nghiên cứu diễn ra trong một hầm thuốc bởi các nhà khoa học không thể nuôi cấy tế bào để phát triển một chủng virus MEV-1 mới đã được phân loại. Giáo sư của Đại học California, Bác sĩ Ian Sussman (Gould) đã kháng lệnh phá hủy các mẫu phẩm từ Cheever và nuôi cấy thành công một tế bào MEV-1 mới có nguồn gốc từ bào thai dơi. Chính bước đột phá này giúp Hextall bắt đầu nghiên cứu chế ra vắc-xin. Các nhà khoa học xác định rằng virus lây qua những giọt hô hấp li ti và các mầm bệnh vô tri, với phạm vi sinh sôi gấp bốn lần khi virus biến đổi; họ dự đoán rằng 1/12 dân số thế giới sẽ bị nhiễm bệnh với tỷ lệ tử vong dao động từ 25–30%.
Nhà học thuyết âm mưu Alan Krumwiede (Law) đăng các video về virus trên trang blog cá nhân. Trong một video, anh cho biết mình đã tự chữa khỏi bệnh nhờ áp dụng phương thức vi lượng đồng căn có nguồn gốc từ forsythia. Thế là vô số người đi săn tìm và vét sạch forsythia ở nhiều quầy thuốc. Trong một buổi phỏng vấn trên truyền hình, Krumwiede bật mí rằng Cheever đã bí mật thông báo cho gia đình và bè bạn của ông rời khỏi Chicago trước khi thành phố này bị cách ly. Tiếp đó Cheever được thông báo rằng ông sẽ bị điều tra. Krumwiede thì giả vờ bị bệnh để tăng doanh số bán hàng của forsythia, nhưng sau cùng đã bị bắt giữ vì tội thông đồng và gian lận đầu tư.
Nhờ sử dụng một loại virus sống, Hextall đã chế ra một loại vắc-xin tiềm năng. Nhằm rút ngắn thời gian cần thiết để đạt đồng thuận từ các bệnh nhân bị nhiễm, Hextall tự tiềm liều vắc-xin vào cơ thể cô và ghé thăm người cha bị nhiễm bệnh. Kết quả là cô không bị nhiễm MEV-1 và liều vắc-xin được cho là có hiệu quả. Tiếp đó CDC tổ chức một buổi lễ quay xổ số theo ngày sinh để tặng các lô vắc-xin. Tính đến lúc đó, số ca tử vong vì bệnh dịch đã chạm mốc 2,5 triệu người tại Mỹ nói riêng và 26 triệu người toàn thế giới nói chung.
Từ trước những sự kiện kể trên, một chuyên gia dịch tễ học của Tổ chức Y tế Thế giới, Bác sĩ Leonora Orantes (Cotillard) và các quan chức y tế công cộng theo dõi những cuộn băng ghi hình các tiếp xúc của Beth tại một sòng bạc ở Ma Cao và xác định cô là bệnh nhân số 0. Một quan chức chính quyền ở Macau là Sun Feng đã bắt cóc Orantes với mục đích có được những lô vắc-xin chữa MEV-1 cho ngôi làng của anh và giữ nữ bác sĩ ở đó trong nhiều tháng. Để rồi khi các quan chức của WHO cung cấp cho họ vắc-xin, cô mới được trả tự do. Khi Orantes biết tin lô vắc-xin được trao cho ngôi làng là giả dược, cô đã quay lại đó để cảnh báo họ.
Trong một cảnh hồi tưởng cuối phim, một chiếc xe ủi đốn hạ một cây chuối trong lúc làm nhiệm vụ dọn rừng nhiệt đới ở Trung Quốc, làm xáo trộn môi trường sống tự nhiên của bầy dơi. Khi một con dơi tìm đến trang trại lợn để trú ẩn, nó làm rơi một mẩu chuối xuống đất và mẩu này bị một con lợn ăn mất. Kế đó chính con lợn này bị đem cho một đầu bếp ở sòng bạc Macau giết mổ và làm thịt, rồi ông này truyền virus cho Beth thông qua một cái bắt tay.
Phân vai
Marion Cotillard vai Bác sĩ Leonora Orantes, một chuyên gia dịch tễ học của Tổ chức Y tế Thế giới.
Mục tiêu chính của Orantes là truy tìm nguồn gốc mầm bệnh MEV-1. Cotillard vốn là một người hâm mộ các tác phẩm của Soderbergh và lần đầu gặp vị đạo diễn này tại Los Angeles, California. Nữ diễn viên bị kịch bản phim làm mê hoặc bởi cô "vô cùng quan tâm đến vi trùng. Tôi đã luôn... sợ hãi bởi những căn bệnh kiểu như vậy. Vì vậy... nó là thứ tôi thật sự để ý đến." Soderbergh cho biết Orantes "bị rơi vào [nhiều] tình huống và phải đương đầu với các vấn đề văn hóa cũng như khoa học, mà đôi khi chúng xung đột với nhau", đồng thời nhấn mạnh rằng cô ấy có một thái độ "chuyên nghiệp" nhưng bướng bỉnh, "biệt lập" và "vô tư", dù cho "những điều xảy đến với cô trong suốt cốt truyện tạo nên một thay đổi đáng kể về mặt cảm xúc."
Matt Damon vai Mitch Emhoff
Damon coi nhân vật của mình như hiện thân của "mọi người" — một cá nhân được coi như "một trong những bộ mặt của nhân loại về chủng siêu virus" sau cái chết của vợ và cậu con trai riêng. Soderbergh còn lưu ý cả vốn kiến thức nông cạn về y học và khoa học kiểu "cá nhân điển hình" của Mitch, dù việc giữ cho tình huống thật sôi nổi và hấp dẫn lại gây thách thức cho vị đạo diễn, vì ông lo ngại rằng Emhof sẽ bị biến thành nhân vật một chiều. Soderbergh thấy rằng Damon thông hiểu khái niệm và chú tâm đến những mối lo ngại của các nhà sản xuất. Soderbergh nói, "Bạn không bao giờ bắt anh ấy diễn...màn thể hiện của anh chẳng kiêu căng hay ngượng ngùng gì, cứ như thể máy quay không đặt ở đó vậy." Nhà biên kịch Scott Z. Burns đã gửi lại bản sao một kịch bản với mẩu giấy đính kèm ghi, "hãy đọc thứ này và đi rửa tay đi." Damon nhớ lại, "Tôi chỉ muốn được góp mặt trong bộ phim này. Đó là một kịch bản tuyệt vời, hấp dẫn và [có tình tiết] thật sự nhanh, rất thú vị và ghê sợ, nhưng cũng có thể vô cùng cảm động."
Laurence Fishburne vai Bác sĩ Ellis Cheever
Soderbergh bày tỏ sự ngưỡng mộ khả năng hóa thân vào một nhân vật mạnh mẽ và quyết đoán của Fishburne trong các bộ phim trước. Về phía Fishburne, ông thấy Cheever là một bác sĩ "thông minh" và "thạo giỏi", có tài thao lược bằng việc đưa ra những quyết định dựa theo lý trí và logic. Trong một lần trao đổi với W. Ian Lipkin, vị giáo sư và nhà virus học của Đại học Columbia, nam diễn viên thấy rằng nội tâm phức tạp của nhân vật không tồn tại trong con người ông. Fishburne bộc bạch, "Những chuyện riêng tư như việc Ellis Cheever nói với hôn thê và vợ sắp cưới Sanaa Lathan rằng hãy rời khỏi thị trấn, bỏ hết mọi thứ đang làm hay không nói chuyện với ai. Như thế thật sự dễ dàng. Theo tôi thì bất kì ai rơi vào tỉnh cảnh đó đều sẽ làm như vậy."
Jude Law vai Alan Krumwiede
Krumwiede là một nhà học thuyết âm mưu giàu nhiệt huyết; theo góc nhìn của Law nhân vật giống như một bệnh nhân số 0 dành cho "dịch bệnh của nỗi sợ hãi và hoảng loạn". Soderbergh nói về Krumwiede, "Chúng tôi nhất định muốn anh ta có cái nét của một vị cứu tinh". Vị đạo diễn từng trò chuyện với Law trong quá trình sáng tạo nhân vật, trong đó hai người thảo luận với nhau về ngoại hình và cách hành xử của một nhà học thuyết âm mưu phản chính phủ điển hình. Nhà sản xuất Gregory Jacobs bình luận, "Điều thú vị là bạn không thật sự chắc chắn về anh ta. Có thật là chính phủ đang che giấu điều gì đó và liệu liều thuốc thảo dược mà anh ta nói có tác dụng thật không? Tôi thấy chúng ta [thường hay] ngờ vực, không vào lúc này thì vào lúc khác rằng chúng ta đang không nắm trong tay toàn bộ sự thật, và theo đúng nghĩa đó Krumwiede đại diện cho góc nhìn của khán giả."
Gwyneth Paltrow vai Beth Emhoff
Paltrow miêu tả Beth là một "bà mẹ của công việc" – nhân vật trung tâm trong quá trình điều tra. Mặc dù là một trong những nạn nhân đầu tiên của virus, nhưng Paltrow tin rằng Beth đã "may mắn" bởi nữ diễn viên cho rằng những người sống sót qua dịch bệnh đang bị bỏ lại để đối mặt với các điều kiện khó khăn mới nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày, chẳng hạn như tìm kiếm đồ ăn và nước uống. Trong một lần ghi hình tại Hồng Kông, Soderbergh đã hướng dẫn Paltrow chụp những bức hình sẽ được dùng trong phim; cô thừa nhận rằng mình tỏ ra e ngại về khoản này. Nữ diễn viên cho biết, "Tôi chỉ là một vị khách du lịch đang chụp ảnh...Tôi cảm thấy có đôi chút áp lực. Khi Steven Soderbergh giao bạn nhiệm vụ chụp ảnh, bạn nên mang về những tấm hình tử tế."
Kate Winslet vai Bác sĩ Erin Mears, một cán bộ của Dịch vụ tình báo dịch tễ
Với mục đích nghiên cứu nhân vật của mình, Winslet đã ghé thăm Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC, nay nằm ở Atlanta, Georgia) nhằm tham vấn ý kiến với các cán bộ đã/đang công tác tại Dịch vụ tình báo dịch tễ, qua đó có được góc nhìn sâu sắc không chỉ trong cuộc sống hàng ngày, mà còn là loại người đủ năng lực làm việc. "Đây là những người có thể bị gửi đi các vùng chiến sự, nơi một chủng virus mới bùng phát. Nỗi sợ hãi không phải là một lựa chọn. Nếu họ cảm thấy thế họ [phải] học cách gạt nó qua một bên." Winslet thấy rằng Mear có thể truyền kiến thức về dịch bệnh tới "những người không có chuyên môn" vì thế người xem có thể nắm rõ phạm vi [ảnh hưởng] của dịch mà không cần nhồi nhét kiến thức khoa học không cần thiết vào cốt truyện.
Sản xuất
Những dự tính để thai nghén Contagion lại diễn ra trùng với lúc Burns hợp tác với Soderbergh trong The Informant! (2009). Ban đầu bộ đôi định làm một bộ phim đề tài tiểu sử dựa trên Leni Riefenstahl, một nhà tiên phong của điện ảnh Đức trong thập niên 1930 và một nhân vật nổi bật của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa. Để rồi Soderbergh liên lạc với Burns để hoãn dự án, bởi ông thấy một bộ phim về Riefenstahl sẽ khó mà thu hút khán giả. Sau khi suy nghĩ về mảng lây nhiễm bệnh, Burns đề xuất rằng thay vào đó họ nên làm một bộ phim xoay quanh tình cảnh của một đại dịch—"một bản phim điện ảnh đề tài đại dịch có yếu tố giật gân thú vị". Mục tiêu chính của ông là dựng nên một tác phẩm giật gân về y khoa "mang cảm giác như có thể xảy ra [ngoài đời thật]."
Burns đã tham vấn Lawrence "Larry" Brilliant – người nổi tiếng với công tác dẹp bệnh đậu mùa – để phát triển nhận thức chính xác về một biến cố đại dịch. Ông từng xem một trong những bài thuyết trình trên TED của Brilliant và nó khiến ông bị mê hoặc, rồi nhận ra "[nếu] góc nhìn của mọi người trong lĩnh vực đó không mang hàm ý rằng 'Nếu chuyện này sẽ xảy ra', liệu đó có phải ám chỉ rằng 'Khi nào chuyện này sẽ xảy ra'?". Brilliant đã giới thiệu Burns tới một chuyên gia khác, ông W. Ian Lipkin. Với sự giúp sức của các bác sĩ kể trên, các nhà sản xuất có thể thu được những góc nhìn phụ từ những đại diện của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Burns còn gặp tác giả của cuốn The Coming Plague của nhà văn Laurie Garrett. Cuốn sách năm 1995 của nữ văn sĩ giúp Burns cân nhắc một loạt các tình tiết tiềm năng cho bộ phim. Ông muốn có một quan chức từ CDC và sau cùng quyết định sử dụng một nhà dịch tễ học, vì vai đó yêu cầu tương tác với khán giả trong lúc truy dấu dịch bệnh.
Chủ đề và phân tích
Steven Soderbergh bị thúc đẩy làm một bộ phim điện ảnh "siêu thực tế" về y tế công cộng và phản ứng của giới khoa học trước một đại dịch. Phim sử lối kể chuyện mang "phong cách siêu liên kết" (thường chuyển cảnh liên tục giữa các vị trí địa lý và con người cách xa nhau) nhằm nhấn mạnh những mối nguy mới tầm vóc lịch sử của mạng lưới toàn cầu hóa đương đại và những phẩm chất bất diệt của con người thể hiện trong nghịch cảnh (gợi nhớ đến các phương pháp xử lý đại dịch nổi tiếng trong văn học, như cuốn La peste của Albert Camus). Tác phẩm khai thác nhiều đề tài khác nhau, như các yếu tố gây hoảng loạn đám đông và làm sụp đổ trật tự xã hội, quá trình giới khoa học mô tả đặc tính và ngăn chặn một mầm bệnh chưa rõ lai lịch, cân bằng những động cơ hành vi cá nhân với trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp khi phải đối mặt với một mối đe dọa sống còn, những mặt hạn chế và hệ quả của phản ứng y tế công cộng, và sự kết nối mật thiết phủ khắp giữa các cá thể có thể đóng vai trò như yếu tố trung gian lây bệnh. Soderbergh đã thừa nhận những nét nổi bật của các chủ đề hậu tận thế, được tôn lên qua các phản ứng với sự kiện 11 tháng 9 và cơn bão Katrina. Bộ phim còn dự định truyền tải một cách thực tế những phản ứng "dữ dội" và "báo động" của xã hội và giới khoa học với một đại dịch. Những đại dịch có thật ngoài đời như dịch SARS 2002–2004 và đại dịch cúm 2009 đã trở thành những nguồn cảm hứng và ảnh hưởng trong phim. Chuỗi truyền nhiễm liên quan đến dơi và lợn gợi nhắc đến nguồn gốc của virus Nipah (làm lây nhiễm các tế bào trong hệ hô hấp và thần kinh giống hệt như virus trong phim) đến từ Malaysia vào năm 1997, mang nét tương đồng liên quan đến sự xáo trộn của một bầy dơi bởi nạn phá rừng.
Đón nhận
Doanh thu phòng vé
Ngày 3 tháng 9 năm 2011, Contagion có buổi chiếu ra mắt tại Liên hoan phim Venezia lần thứ 68 ở Venezia, Ý và phát hành mở rộng hơn vào ngày 9 tháng 9. Tại thị trường Hoa Kỳ–Canada, Contagion có mặt tại 3.222 cụm rạp, trong đó có 254 suất chiếu tại các rạp IMAX. Nhiều chuyên gia phân tích thương mại của Mỹ đưa ra dự đoán rằng phim sẽ thu về 20–25 triệu USD tiền bán vé trong dịp cuối tuần mở màn và thực tế đúng như vậy, tác phẩm mang về 8 triệu USD trong ngày khởi chiếu và 23,1 triệu USD trong cả tuần. Tính tổng cộng, 10% doanh thu (2,3 triệu USD) đến từ các suất chiếu IMAX. Bằng cách giành chiến thắng trước đối thủ cạnh tranh The Help, Contagion đã trở thành phim điện ảnh ăn khách nhất tuần. Trên phương diện nhân khẩu học, số khán giả đến xem đầu tiên được chia đều cho cả hai giới theo hãng Warner Bros. thống kê, trong khi 80% người xem ở độ tuổi từ 25 trở lên. Contagion không đạt thành tích tốt ở dịp cuối tuần kế tiếp khi gặt hái 14,5 triệu USD tiền bán vé, nhưng vẫn cán đích ở vị trí số 2 sau bản tái chiếu rạp của Vua sư tử (1994). Tuần thứ 3 chứng kiến doanh số phòng vé giảm tới 40%, nâng tổng số tiền kiếm được là 8,7 triệu USD. Tính đến tuần thứ 4, Contagion tụt xuống hạng 9 trên bảng xếp hạng phòng vé với 5 triệu USD, và số cụm rạp giảm còn 2.744. Phim kết thúc đợt chiếu vào ngày 15 tháng 12 năm 2011, lúc bấy giờ tổng doanh thu nội địa của tác phẩm là 75,6 triệu USD.
Đánh giá chuyên môn
Contagion đón nhận nhiều đánh giá tích cực từ giới phê bình điện ảnh. Trang hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes cho biết 85% phê bình gia chấm phim một bài nhận xét tích cực, dựa theo 265 bài đánh giá, qua đó đạt điểm trung bình 7,07/10. Các chuyên gia của trang web nhận định, "Căng thẳng, cốt truyện chặt chẽ và được hỗ trợ bởi một dàn diễn viên xuất chúng, Contagion là một bộ phim điện ảnh đề tài thảm họa đặc biệt thông minh pha chút sự đáng sợ". Trên chuyên trang phê bình Metacritic, phim nhận số điểm 70/100 dựa theo 38 bài nhận xét, đa số là "những nhận định tích cực".
Tái nổi tiếng
Năm 2020, Contagion trở nên tái nổi tiếng bởi sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 có nhiều nét tương đồng so với đại dịch miêu tả trong phim. Tính đến tháng 3 năm 2020, đây là bộ phim điện ảnh nổi tiếng thứ 7 trên iTunes, xếp ở hạng hai danh mục dữ liệu trên Warner Bros. so với hạng 270 của phim vào tháng 12 năm 2019, đồng thời có lượt truy cập trung bình trên các website lậu – tăng 5.609% vào tháng 1 năm 2020 so với tháng trước. HBO Now còn ra thông cáo rằng Contagion là tựa phim được xem nhiều nhất trong 2 tuần liên tiếp.
Chú thích
Liên kết ngoài
Movieclips Trailers 14 thg 7, 2011
Contagion (2011) trên IMFDb
Phim năm 2011
Phim tiếng Anh
Phim hành động giật gân thập niên 2010
Phim Mỹ
Phim hành động giật gân Mỹ
Phim về mạng xã hội
Phim về bùng phát virus
Phim lấy bối cảnh ở Atlanta
Phim lấy bối cảnh ở Hồng Kông
Phim lấy bối cảnh ở Ma Cao
Phim lấy bối cảnh ở San Francisco
Phim lấy bối cảnh ở Thụy Sĩ
Phim IMAX
Phim của Warner Bros.
Phim về gian dâm
Phim thảm hoạ của Mỹ
Phim về bệnh tật
Phim giật gân Mỹ
Nhạc nền phim của Cliff Martinez
Phim lấy bối cảnh ở San Francisco, California
Phim lấy bối cảnh ở khu vực vịnh San Francisco
Phim quay tại Georgia
Phim quay tại Illinois
Phim của Participant Media
|
14382681
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Ukraina%20t%E1%BA%A1i%20Nga
|
Người Ukraina tại Nga
|
Người Ukraina tại Nga (, ) tạo thành nhóm người di cư lớn nhất của người Ukraina. Năm 2010, 1,9 triệu người Ukraina sống ở Nga, chiếm hơn 1,4% tổng dân số Liên bang Nga và bao gồm nhóm dân tộc lớn thứ ba - sau sắc tộc Nga và Tatar. Ước tính 340.000 người sinh ra ở Ukraina (chủ yếu là thanh niên) định cư hợp pháp tại Nga mỗi năm. Sau khi Chiến tranh Donbass bùng nổ vào năm 2014, hơn 420.000 người xin tị nạn và người tị nạn từ Ukraina đã đăng ký tại Nga vào tháng 11 năm 2017.
Lịch sử
Lịch sử ban đầu
Đại hoàng tử Kiev Vladimir II Monomakh thành lập Công quốc Vladimir-Suzdal, và con trai ông Yuri Dolgoruki thành lập thành phố Moskva năm 1147. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 12, sự nổi bật của Rus ' bắt đầu suy giảm khi vai trò trung tâm của Kiev trở nên bị tranh chấp bởi các nguyên tắc xung quanh ngày càng mạnh mẽ và độc lập hơn. Con trai của Dolgoruki Andrei I Bogolyubsky đã cướp phá Kiev vào năm 1169, một sự kiện cho phép Công quốc Vladimir-Suzdal giữ vai trò lãnh đạo của nhà nước Nga hiện đại.
Việc sa thải chính Kiev vào tháng 12 năm 1240 trong cuộc xâm lược của người Mông Cổ đã dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng của nhà nước Rus. Đối với nhiều người dân ở đây, sự tàn bạo của các cuộc tấn công của người Mông Cổ đã phong ấn số phận của nhiều người chọn tìm nơi trú ẩn an toàn ở Đông Bắc. Năm 1299, Chủ tịch Thủ đô Kiev đã được Metropolitan Maximus chuyển đến Vladimir, giữ nguyên danh hiệu của Kiev. Khi Vladimir-Suzdal, và sau đó là Đại công tước Moskva tiếp tục phát triển không bị cản trở, mối liên kết tôn giáo chính thống giữa họ và Kiev vẫn mạnh mẽ. Các phái viên tiếp tục được gửi đến Moskva từ Kiev Pechersk Lavra. Các nghệ nhân, thợ xây dựng, thợ thủ công và giáo dân chuyên nghiệp cũng đã tới Moskva, nơi họ có thể dễ dàng kiếm sống hơn.
Người Nam Ruthian đã tìm thấy chính mình trong một tiểu bang mới của Đại công quốc Litva. Sau khi liên minh của Jogaila và Vương quốc Ba Lan vào năm 1386, nhà nước này chính thức trở thành người Công giáo trong vai trò lãnh đạo. Điều này đã cô lập phần lớn dân số Chính thống giáo, và chẳng mấy chốc, nhiều nhà lãnh đạo Ruthian đáng chú ý đã bắt đầu rời đến Moskva. Vào năm 1408, một nhóm quý tộc do Švitrigaila dẫn đầu cùng với giám mục Chernihiv cùng với một nhóm binh sĩ quan trọng đào thoát đến Moskva. Những người khác theo sau. Thương mại mặc dù ban đầu lẻ tẻ, đi qua Chernihiv và Putyvl.
Các cuộc Chiến tranh Nga-Litva thường xuyên có nghĩa là vào năm 1448, Thủ đô Moskva, mặc dù Byzantium sụp đổ, đã giành được quyền tự trị hoàn toàn cho Giáo hội Chính thống Nga. Danh hiệu của Kiev vẫn thuộc về Đô thị Kiev, thuộc thẩm quyền của Tổ phụ Constantinople.
Sự di cư đến Sa hoàng của Nga tiếp tục phát triển vào thế kỷ 16. Những ví dụ nổi bật bao gồm Michael Glinski, người đã tổ chức một cuộc nổi loạn mạnh mẽ chống lại sự cai trị của Litva vào tháng 2 năm 1508, tất cả những người tham gia cuộc nổi dậy, những người sẽ nhận được một danh hiệu tẩy chay cùng với các ngôi làng và vùng đất xung quanh Medyn để định cư. Vào giữa thế kỷ 16, Hetman Dmytro Vyshnevetsky người Ukraina đã đến thăm Moskva, nơi ông phục vụ trong triều đình của Sa hoàng Ivan IV và nhận lại thành phố Belyov trên sông Tulavà các ngôi làng xung quanh và nhà dân như là phần thưởng. Thương mại cũng tăng trưởng đáng kể trong thời kỳ này, và nhiều Slobodas của Ukraina đã được thành lập tại các thành phố của Nga.
Nhiều người định cư Ukraina đã định cư ở các khu vực nằm giữa Zasechnaya cherta cũ và tuyến phòng thủ mới sẽ bảo vệ Nga khỏi các cuộc đột kích thường xuyên của Nogais và Người Tatar Krym. Điều này đã được biết đến như Sloboda Ukraina, và các pháo đài ban đầu, như Kursk, Voronezh và Kharkovđược thành lập và định cư bởi những người nông dân Ukraina phục vụ các đồn bốt đóng quân ở đó. Theo các bài viết của thương nhân người Anh D. Fletcher năm 1588, những thị trấn đồn trú này có 4300 binh sĩ trong đó 4000 người đến từ Ukraina. Số lượng người định cư Ukraina ở biên giới phía nam của Nga đã tăng lên sau các cuộc nổi dậy không thành công chống lại người Ba Lan. Kết quả là, phần lớn dân số trở nên hỗn hợp.
Thế kỷ 17 và 18
Sau Hiệp ước Pereyaslav năm 1654, di cư sang Nga từ Ukraina tăng lên. Ban đầu, đây là đến Sloboda Ukraina, nhưng cũng đến vùng Don và khu vực sông Volga. Ngoài ra còn có một cuộc di cư đáng kể đến Moskva, đặc biệt là bởi các nhà hoạt động của nhà thờ: linh mục và tu sĩ, học giả và giáo viên, nghệ sĩ, dịch giả, ca sĩ và thương nhân. Một thuộc địa được xây dựng ở Moskva có tên là Malorossiysky dvor. Năm 1652, 12 ca sĩ dưới sự chỉ đạo của Ternopolsky chuyển đến Moskva, 13 sinh viên tốt nghiệp của trường đại học Kiev-Mogilla chuyển đến dạy cho các quý ông Moskva. Nhiều linh mục và quản trị viên nhà thờ di cư từ Ukraina, đặc biệt là Tu viện Andreyevsky các giáo sĩ Ukraina thành lập. Điều này có ảnh hưởng lớn đến Nhà thờ Chính thống Nga, và các chính sách của Thượng phụ Nikon đã dẫn đến nhóm Cựu giáo ly khai. Ảnh hưởng của các giáo sĩ Ukraina tiếp tục tăng lên, đặc biệt là sau năm 1686, khi Tòa gím mục Kiev được chuyển từ Thượng phụ Constantinople sang Thượng phụ Moskva.
Ngay sau đó, việc bãi bỏ Tòa thượng phụ bởi Peter I, Stephen Yavours, người Ukraina đã trở thành giám mục Moskva, tiếp theo là Feofan Prokopovich. Demetrius của Rostov trở thành Tobol và Siberia, và từ 1704 Rostov và Yaroslavl. Có hơn 70 vị trí hàng giáo phẩm Chính thống giáo là dân di cư từ Kieve tới. Học sinh của trường đại học Kiev-Mohyla bắt đầu các trường học và hội thảo ở nhiều trường đại học Nga. Đến năm 1750, hơn 125 tổ chức như vậy đã được mở. Kết quả là, những sinh viên tốt nghiệp này thực tế đã kiểm soát giáo hội Nga bằng các vị trí chủ chốt (cho đến gần cuối thế kỷ 18). Theo Prokopovich, Viện Hàn lâm Khoa học Nga được khai trương vào năm 1724, được chủ trì từ năm 1746 bởi Kirill Razumovsky người Ukraina.
Triều đình Moskva có một dàn hợp xướng được thành lập vào năm 1713 với 21 ca sĩ đến từ Ukraina. Nhạc trưởng trong một khoảng thời gian là A. Vedel. Năm 1741, 44 nam, 33 nữ và 55 nữ được chuyển đến Sankt Peterburg từ Ukraina để hát và giải trí. Năm 1763, nhạc trưởng của dàn hợp xướng triều đình là M. Poltoratsky và sau này là Dmitry Bortniansky. Nhà soạn nhạc Maksym Berezovsky cũng làm việc tại Sankt Peterburg vào thời điểm đó. Một sự hiện diện quan trọng của Ukraina cũng ghi nhận trong Học viện Nghệ thuật.
Sự hiện diện của Ukraina trong Quân đội Nga cũng tăng lên đáng kể, nhiều nhất là ngay sau Trận Poltava năm 1709. Một số lượng lớn người Ukraina định cư quanh Sankt Peterburg và được thuê trong việc xây dựng thành phố, các pháo đài và kênh đào khác nhau.
Một loại người di cư riêng biệt là những người bị chính phủ Nga trục xuất về Moskva để thể hiện tình cảm chống Nga. Những người bị trục xuất được đưa đến Moskva ban đầu để điều tra, và sau đó bị đày đến Siberia, Arkhangelsk hoặc Quần đảo Solovetsky. Trong số những người bị trục xuất có các ngôi sao sáng cossack của Ukraina như D. Mhohohrishny, Ivan Samoylovych và Petro Doroshenko. Những người khác bao gồm tất cả gia đình của hetman Ivan Mazepa, A. Vojnarovsky và những người trong lực lượng Cossack của Mazepa đã trở về Nga. Một số người bị giam cầm trong suốt quãng đời còn lại như Pavlo Polubotok,Pavlo Holovaty, P. Hloba và Petro Kalnyshevsky.
Thế kỷ 19
phải|nhỏ|Bản đồ dân tộc Nga châu Âu trước Thế chiến thứ nhất.
phải|nhỏ|Ukraina Xanh tên tiếng Ukraina lịch sử của vùng đất ở vùng Viễn Đông của Nga
Bắt đầu từ thế kỷ 19, đã có một cuộc di cư liên tục từ Belarus, Ukraina và Bắc Nga để định cư các khu vực xa xôi của Đế quốc Nga. Lời hứa về đất đai màu mỡ tự do là một yếu tố quan trọng đối với nhiều nông dân cho đến năm 1861, sống dưới thời nông nô. Trong thời kỳ thuộc địa của những vùng đất mới, một đóng góp đáng kể đã được thực hiện bởi người dân tộc Ukraina. Ban đầu, người Ukraina thuộc địa các vùng lãnh thổ biên giới ở vùng Kavkaz. Hầu hết những người định cư này đến từ Bờ trái Ukraina và Slobozhanshchyna và chủ yếu định cư ở khu vực Stavropol và Terek. Một số khu vực nhỏ gọn của người Don, người Volga và người Ural cũng đã được giải quyết.
Người Ukraina đã tạo ra các khu định cư lớn ở Nga thường trở thành đa số ở một số trung tâm nhất định. Họ tiếp tục bồi dưỡng truyền thống, ngôn ngữ và kiến trúc của họ. Cấu trúc và chính quyền làng của họ khác một chút so với dân số Nga bao quanh họ. Trường hợp dân cư bị pha trộn, quá trình Nga hóa thường diễn ra. Quy mô và khu vực địa lý của các khu định cư Ukraina lần đầu tiên được nhìn thấy trong quá trình Tổng điều tra của Đế quốc Nga năm 1897. Điều tra dân số này chỉ lưu ý ngôn ngữ, không phải dân tộc. Tuy nhiên, tổng cộng 22.380.551 người nói tiếng Ukraina đã được ghi lại. Trong các lãnh thổ châu Âu của Nga, 1.020.000 người Ukraina, ở châu Á (không bao gồm người da trắng), 209.000 người đã được ghi nhận. Từ năm 1897-1914, sự di cư mạnh mẽ của người Ukraina đến người Ural và châu Á vẫn tiếp tục, và được đo là 1,5 triệu trước khi ngừng năm 1915.
Thế kỉ 20
Hình thành biên giới Ukraina
phải|nhỏ|Bản đồ dân tộc học của Ukraina, cho thấy ranh giới dân tộc học của người dân tộc Ukraina vào đầu thế kỷ 20.
Cuộc điều tra dân số đầu tiên của Đế quốc Nga, được tiến hành vào năm 1897 đã đưa ra số liệu thống kê về việc sử dụng ngôn ngữ trong Đế quốc Nga theo biên giới hành chính. Việc sử dụng rộng rãi tiếng Nga nhỏ (và trong một số trường hợp là sự thống trị) đã được ghi nhận ở chín Thống đốc phía tây nam và tỉnh Kuban. Khi biên giới tương lai của nhà nước Ukraina được đánh dấu, kết quả của cuộc điều tra dân số đã được xem xét. Kết quả là, biên giới dân tộc học của Ukraina trong thế kỷ 20 lớn gấp đôi so với Cossack Hetmanate được sáp nhập vào Đế quốc Nga vào ngày 17.
Một số khu vực có dân cư hỗn hợp gồm cả dân tộc Ukraina và Nga cũng như các dân tộc thiểu số khác. Chúng bao gồm lãnh thổ của Sloboda và Donbass. Những vùng lãnh thổ nằm giữa Ukraina và Nga. Điều này đã để lại một cộng đồng lớn của các dân tộc Ukraina ở phía biên giới Nga. Biên giới của Cộng hòa Nhân dân Ukraina tồn tại phần lớn được bảo tồn bởi Ukraina Xô viết.
Trong quá trình giữa những năm 1920, quá trình cải cách hành chính một số vùng lãnh thổ, ban đầu dưới Ukraina Xô viết đã được nhượng lại cho SFSR của Nga, như các thành phố Taganrog và Shakhty ở phía đông Donbass. Vào thời điểm đó, Ukraina Xô viết đã giành được một số vùng lãnh thổ được hợp nhất vào Sumy Oblast ở vùng Sloboda.
Di cư thời Liên bang Xô viết
phải|nhỏ|Số lượng và tỷ lệ người Ukraina trong dân số của các khu vực của Nga Xô viết (điều tra dân số năm 1926)
Liên Xô đã chính thức là một đất nước đa văn hóa với không chính thức ngôn ngữ quốc gia. Trên giấy tờ, tất cả các ngôn ngữ và văn hóa đều được bảo đảm bảo vệ nhà nước trên toàn Liên minh. Tuy nhiên, trên thực tế, người Ukraina đã được trao cơ hội để phát triển văn hóa của họ một cách có ý nghĩa chỉ trong phạm vi hành chính của Cộng hòa Ukraina, nơi người Ukraina có tư cách là một quốc gia đặc quyền. Khi nhiều người Ukraina di cư đến các khu vực khác của Liên Xô, sự tách biệt về văn hóa thường dẫn đến sự đồng hóa của họ, đặc biệt là ở Nga, nơi có tỷ lệ di cư cao nhất ở Ukraina.
Ở Siberia, 82% người Ukraina bước vào những cuộc hôn nhân hỗn hợp, chủ yếu là với người Nga. Điều này có nghĩa là ngoài Ukraina Xô viết, có rất ít hoặc không có điều khoản nào để tiếp tục chức năng người di cư. Do đó, báo chí tiếng Ukraina đã sớm được tìm thấy ở các thành phố lớn như Moskva. Các thuộc tính văn hóa của Ukraina như quần áo và thực phẩm quốc gia đã được bảo tồn. Theo một nhà xã hội học Liên Xô, 27% người Ukraina ở Siberia đọc tài liệu in bằng tiếng Ukraina và 38% sử dụng ngôn ngữ tiếng Ukraina. Thỉnh thoảng, các nhóm người Ukraina sẽ đến thăm Siberia. Tuy nhiên, hầu hết người Ukraina ở đó đã đồng hóa.
Do thực tế là người Ukraina nổi bật trong Gulags of Norilsk và Vorkuta Người Ukraina đã tiếp tục là dân tộc đa số ở các thành phố này. Khoảng 80% dân số ở Norilsk năm 1989 có ít nhất một tổ tiên người Ukraina. Theo Volodymyr Kubiyovych và Aleksandr Zhukovsky, khu vực lãnh thổ dân tộc Ukraina bên ngoài biên giới của Ukraina Xô viết (1970) nơi một dân tộc Ukraina sinh sống được ước tính là 146.500 km2, và diện tích các vùng lãnh thổ hỗn hợp quốc gia chiếm khoảng 747.600 vuông cây số.
Tôn giáo
Tôn giáo
Đại đa số người Ukraina ở Nga là tín đồ của Giáo hội Chính thống Nga. Các giáo sĩ Ukraina có một vai trò rất có ảnh hưởng đối với Chính thống giáo Nga trong thế kỷ 17 và 18. Gần đây, dân số di cư kinh tế ngày càng tăng từ Galicia đã thành công trong việc thành lập một số nhà thờ Công giáo Ukraina, và có một số nhà thờ thuộc Giáo hội Chính thống giáo Ukraina Tòa thượng phụ Kiev (Kiev Patriarchate), nơi Thượng phụ Filaret đồng ý chấp nhận các nhóm ly khai đã bị Nga trục xuất Giáo hội chính thống vì vi phạm giáo luật. Một số người khẳng định vào năm 2002, rằng bộ máy quan liêu của Nga liên quan đến tôn giáo đã cản trở sự mở rộng của hai nhóm trên. Theo Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina, giáo phái của họ chỉ có một tòa nhà thờ ở khắp nước Nga.
Xem thêm
Người Nga
Người Ukraina
Người Liên Xô
Chú thích
Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Ukraina
Nhóm sắc tộc ở Nga
|
2643029
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pingasa%20dispensata
|
Pingasa dispensata
|
Pingasa dispensata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Động vật được mô tả năm 1860
Pingasa
|
2842314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lepanus%20furcifer
|
Lepanus furcifer
|
Lepanus furcifer là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
Lepanus
|
2601982
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chloroclystis%20pugnax
|
Chloroclystis pugnax
|
Chloroclystis pugnax là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Chloroclystis
|
2576565
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amata%20megista
|
Amata megista
|
Amata megista là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
M
|
2585664
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zaplous%20annulatus
|
Zaplous annulatus
|
Zaplous annulatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Zaplous
|
15016390
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Borkowo%20Wielkie%2C%20T%E1%BB%89nh%20West%20Pomeranian
|
Borkowo Wielkie, Tỉnh West Pomeranian
|
Borkowo Wielkie () là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Radowo Małe, thuộc quận Łobez, West Pomeranian Voivodeship, ở phía tây bắc Ba Lan.
Nó nằm khoảng phía nam của Radowo Małe, phía tây obez và về phía đông bắc của thủ đô khu vực Szczecin.
Tham khảo
|
15462050
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%20tu%E1%BA%A7n%20t%C3%ACnh%20d%E1%BB%A5c
|
Đi tuần tình dục
|
Đi tuần tình dục hoặc cruising, là đi bộ hoặc lái xe về một địa phương để tìm kiếm bạn tình, thường là của một loại tình dục ẩn danh, tình dục ngẫu nhiên, tình một đêm. Thuật ngữ này cũng được sử dụng khi công nghệ được sử dụng để tìm kiếm tình dục thông thường, chẳng hạn như sử dụng trang web Internet hoặc dịch vụ điện thoại.
Xem thêm
Glory hole
Tham khảo
Liên kết ngoài
"Cuốn sách nhỏ màu đen: Cuốn sách này có thể giúp bạn tránh khỏi rắc rối" từ Quỹ giáo dục và bảo vệ pháp lý Lambda; cũng có sẵn ở đây. Ngoài ra được xuất bản dưới dạng "Cuốn sách nhỏ màu đen: Cuốn sách này sẽ giúp bạn không gặp rắc rối" ở định dạng PDF; cũng có sẵn ở đây. Một bài viết cung cấp lời khuyên pháp lý về đi tuần tình dục. Lưu ý rằng nếu một người thực sự mang bài viết này trên một trong khi bay thì nó có thể được sử dụng làm bằng chứng về ý định.
Đồng tính nam
Thuật ngữ LGBT
Quan hệ thân mật
Tính dục người
Tình dục ngẫu nhiên
|
15236760
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gegenschein
|
Gegenschein
|
Gegenschein ( Tiếng Đức có nghĩa là "ánh chói ngược") là một điểm sáng mờ nhạt trên bầu trời đêm, xung quanh điểm đối nhật. Sự tán xạ ngược của ánh sáng mặt trời bởi bụi liên hành tinh gây ra hiện tượng quang học này.
Giải trình
Giống như ánh sáng hoàng đạo, gegenschein là ánh sáng mặt trời bị phân tán bởi bụi liên hành tinh. Hầu hết bụi này đang quay quanh Mặt trời trong khoảng mặt phẳng hoàng đạo, với mật độ các hạt có thể có tại điểm Lagrangian L2 trong hệ thống Trái Đất - Mặt Trời.
Nó được phân biệt với ánh sáng hoàng đạo bởi góc phản xạ cao của ánh sáng mặt trời chiếu vào các hạt bụi. Nó tạo thành một ánh sáng hình bầu dục, sáng hơn một chút đối diện trực tiếp với Mặt trời trong dải ánh sáng hoàng đạo. Cường độ của gegenschein tương đối được tăng cường, bởi vì mỗi hạt bụi được nhìn thấy trong pha tròn.
Lịch sử
Gegenschein được mô tả đầu tiên bởi nhà thiên văn học và giáo sư dòng Tên người Pháp (1692–1776) vào năm 1730. Những quan sát sâu hơn được thực hiện bởi nhà thám hiểm người Đức Alexander von Humboldt trong cuộc hành trình Nam Mỹ từ năm 1799 đến 1803. Chính Humboldt là người đã đặt ra hiện tượng tên tiếng Đức là Gegenschein.
Nhà thiên văn học người Đan Mạch Theodor Brorsen đã công bố những cuộc điều tra kỹ lưỡng đầu tiên về gegenschein vào năm 1854, nói rằng Pezenas là người đầu tiên nhìn thấy nó. TW Backhouse đã phát hiện ra nó một cách độc lập vào năm 1876, cũng như Edward Emerson Barnard vào năm 1882. Trong thời hiện đại, gegenschein không thể nhìn thấy ở hầu hết các khu vực có người ở trên thế giới do ô nhiễm ánh sáng.
Xem thêm
Điểm đối nhật
Bóng của trái đất
Heiligenschein
Đám mây bụi liên hành tinh
Đám mây Kordylewski
Hiệu ứng xung đối, sự sáng rõ của một bề mặt thô hoặc một tập hợp của nhiều hạt khi được chiếu sáng từ ngay phía sau người quan sát
Sylvanshine
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chụp ảnh thiên văn của gegenschein
"Ánh sáng hoàng đạo và Gegenschein", một bài tiểu luận của JE Littleton
NASA Astronomy Picture of the Day: The Gegenschein Over Chile (7 May 2008)
Chisholm, Hugh, ed. (1911). "Gegenschein". Encyclopædia Britannica (tái bản lần thứ 11). Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
Từ và cụm từ tiếng Đức
Hiện tượng quang học
Quan sát thiên văn
Số liên kết bản mẫu Interlanguage link
|
19831582
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20thuy%E1%BA%BFt%20nh%C3%B3m%20t%E1%BB%95%20h%E1%BB%A3p
|
Lý thuyết nhóm tổ hợp
|
Trong toán học, lý thuyết nhóm tổ hợp nghiên cứu các nhóm tự do, và khái niệm của biểu diễn của nhóm bằng các phần tử sinh và các quan hệ. Nó được sử dụng trong tô pô hình học, nhóm nền tảng của phức đơn có biểu diễn tập hợp tự nhiên.
Một chủ đề rất gần gũi là lý thuyết nhóm hình học mà ngày nay thường bao trùm cả lý thuyết nhóm tổ hợp, sử dụng các kỹ thuật bên ngoài tổ hợp.
Đồng thời nó cũng chứa nhiều bài toán chưa giải được bằng thuật toán, nổi bật trong số đó là bài toán từ cho nhóm và bài toán Burnside.
Lịch sử
Xem để tìm hiểu rõ chi tiết lịch sử của lý thuyết nhóm tổ hợp.
Dạng ban đầu bắt nguồn từ vi tích phân icosian năm 1856 của William Rowan Hamilton, khi đó ông đang nghiên cứu nhóm đối xứng hai mươi mặt qua đồ thị cạnh của khối hai mươi mặt.
Nền tảng của lý thuyết nhóm tổ hợp được phát triển bởi Walther von Dyck, học trò của Felix Klein, trong đầu những năm 1880, ông là người đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống các nhóm bằng các phần tử sinh và quan hệ của nó.
Tham khảo
|
2585868
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Epidesma%20phlebitis
|
Epidesma phlebitis
|
Epidesma phlebitis là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Epidesma
|
3214455
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giorgione
|
Giorgione
|
Giorgione (tiếng Ý: [dʒordʒone]; tên lúc sinh Giorgio Barbarelli da Castelfranco; khoảng 1477 / 8-1510) Là một họa sĩ người Ý thời cao trào Phục hưng ở Venice, người có sự nghiệp đã bị đứt đoạn khi ông qua đời khi vừa qua tuổi 30.
Giorgione được biết đến với đặc trưng đầy chất thi vị khó hiểu trong tác phẩm của ông dù chỉ có khoảng sáu bức tranh còn sót lại được thừa nhận chắc chắn là do ông sáng tác. Sự không chắc chắn về danh tính và ý nghĩa tác phẩm của ông và đã khiến ông là một trong những nhân vật bí ẩn nhất của nền hội họa châu Âu.
Cùng với Titian, người trẻ hơn, họ là những người sáng lập của trường phái hội họa Venice riêng biệt của nền hội họa Phục hưng Ý, trường phái đạt được nhiều tác động của nó thông qua màu sắc và tâm trạng, và theo truyền thống tương phản với sự phụ thuộc vào một disegno tuyến tính hơn của trường phái hội họa Florence.
Vệ Nữ ngủ là một trong số rất ít những tác phẩm mà người ta biết chắc chắn là của ông, ông mất sớm vì mắc bệnh dịch hạch. Titian đã hoàn thành nốt bức tranh này.
Một vài tác phẩm
Tham khảo
Họa sĩ Ý
Họa sĩ Phục hưng
Sinh thập niên 1470
Mất năm 1510
|
2611230
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Geolyces%20jocata
|
Geolyces jocata
|
Geolyces jocata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Geolyces
|
13465206
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yal%C3%A7%C4%B1n%20Ayhan
|
Yalçın Ayhan
|
Yalçın Ayhan (sinh ngày 1 tháng 5 năm 1982) là một cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ thi đấu ở vị trí trung vệ cho Yeni Malatyaspor.
Quốc tế
Vào tháng 11 năm 2016 Ayhan lần đầu tiên được triệu tập vào đội hình Thổ Nhĩ Kỳ trong trận đấu với Kosovo.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Guardian Stats Centre
Yalçın Ayhan TFF Profile
Sinh năm 1982
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
Cầu thủ bóng đá Kayseri Erciyesspor
Cầu thủ bóng đá Sakaryaspor
Cầu thủ bóng đá Manisaspor
Cầu thủ bóng đá Antalyaspor
Cầu thủ bóng đá Istanbulspor
Cầu thủ bóng đá Gaziantepspor
Cầu thủ bóng đá Orduspor
Cầu thủ bóng đá Kasımpaşa S.K.
Cầu thủ bóng đá İstanbul Başakşehir F.K.
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Người Şişli
Hậu vệ bóng đá
|
15750804
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quan%20h%E1%BB%87%20Hoa%20K%E1%BB%B3%20%E2%80%93%20Li%C3%AAn%20X%C3%B4
|
Quan hệ Hoa Kỳ – Liên Xô
|
Quan hệ giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (1922–1991) kế thừa mối quan hệ trước đó từ năm 1776 tới 1917 và diễn ra trước mối quan hệ hiện nay bắt đầu từ năm 1992. Quan hệ ngoại giao đầy đủ giữa hai nước được thiết lập muộn vào năm 1933 do sự thù địch lẫn nhau. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hai nước trở thành đồng minh trong một thời gian ngắn. Về cuối cuộc chiến, những dấu hiệu đầu tiên về sự mất lòng tin và thù địch giữa hai nước sau chiến tranh bắt đầu xuất hiện, sau đó leo thang thành cuộc Chiến tranh Lạnh; một thời kỳ mối quan hệ giữa hai bên mang tính chất thù địch, căng thẳng, xen lẫn những khoảng hòa hoãn.
So sánh giữa hai nước
Các nhà lãnh đạo của Liên Xô và Hoa Kỳ từ 1917 tới 1991.
Quan hệ trước Thế chiến II
1917–1932
Năm 1921, sau khi phe Bolshevik nắm quyền kiểm soát nước Nga, giành chiến thắng trong cuộc Nội chiến, tiêu diệt hoàng tộc, từ chối trả khoản nợ thời Sa hoàng, và kêu gọi một cuộc cách mạng giai cấp lao động trên toàn thế giới, Nga trở thành một quốc gia bị cô lập.
Thái độ thù địch của Hoa Kỳ với chính quyền Bolshevik không phải chỉ để chống lại sự nổi lên của một cuộc cách mạng chống tư sản. Mỹ, do lo sợ quân Nhật tràn vào lãnh thổ do Nga kiểm soát và sự ủng hộ của họ với lực lượng quân Tiệp Khắc theo phe Đồng Minh, cử một lượng nhỏ lính tới miền Bắc Nga và Xibia. Sau khi Lenin lên nắm quyền trong cuộc Cách mạng Tháng Mười, ông rút nước Nga khỏi Chiến tranh thế giới thứ nhất, tạo cơ hội cho Đức tổ chức lại quân để đối mặt với lực lượng Đồng minh ở Mặt trận phía Tây.
Nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm cản trở chính quyền Bolshevik có ít những sự can thiệp quân sự trực tiếp hơn so với hàng loạt hình thức hỗ trợ của họ với các nhóm phản đối Bolshevik, đặc biệt là với lực lượng Bạch vệ. Hỗ trợ chủ yếu là các nhu yếu phẩm và lương thực. Tổng thống Woodrow Wilson khi đó đang phải đối mặt với nhiều vấn đề và ông không muốn can thiệp quá sâu vào nước Nga do lo sợ dư luận Nga và ông tin rằng nhiều người Nga không tham gia vào Hồng Quân, với hy vọng cuộc cách mạng sẽ dần đi theo hướng dân chủ hơn. Một cuộc xâm lược quy mô lớn sẽ khiến người Nga đoàn kết hơn và tạo ra hình ảnh nước Mỹ như một quốc gia bành trướng xâm lược.
Ngoài cuộc Nội chiến Nga, quan hệ hai nước cũng bị cản trở do nhiều đề nghị đòi bồi thường của các công ty Mỹ sau khi các khoản đầu tư của họ tại Nga bị quốc hữu hóa.
Những người đứng đầu chính sách ngoại giao Mỹ kiên quyết cho rằng Liên Xô là một mối đe dọa tới những giá trị của nước Mỹ. Bộ trưởng Ngoại giao Charles Evans Hughes từ chối việc công nhận Liên Xô, khẳng định với những người đứng đầu công đoàn rằng: "những người đang kiểm soát Moskva chưa từ bỏ ý định phá hoại các chính quyền đang tồn tại ở mọi nơi mà họ có thể trên khắp thế giới." Bộ trưởng Ngoại giao Franck Kellogg cảnh báo rằng tổ chức quốc tế của Kremlin, "Quốc tế Cộng sản" đang ráo riết lên kế hoạch lật đổ các quốc gia khác, bao gồm cả Hoa Kỳ, nhằm "phá hoại trật tự sẵn có". Trong nội bộ Bộ Ngoại giao, tới năm 1924, Cục Phụ trách các vấn đề Đông Âu bị chi phối bởi Robert F. Kelley, một người mang tư tưởng thù địch rất mạnh mẽ với chủ nghĩa cộng sản; ông là người đào tạo ra thế hệ các chuyên gia trong đó có George Kennan và Charles Bohlen. Kelley tin rằng Kremlin đã lên kế hoạch kêu gọi công nhân khắp thế giới nổi dậy chống lại chủ nghĩa tư bản.
Trong lúc đó, Anh và các quốc gia châu Âu khác nối lại quan hệ với Moskva, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, mặc dù các nước này vẫn nghi ngờ về một cuộc lật đổ của những người cộng sản và tức giận trước việc Kremlin từ chối trả các khoản nợ trước đó. Bên ngoài Washington, một số người Mỹ ủng hộ nối lại các mối quan hệ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ. Henry Ford, người cho rằng thương mại quốc tế là cách tốt nhất để tránh các cuộc giao tranh, đã sử dụng thương hiệu Ford của mình để xây dựng một ngành công nghiệp xe tải giới thiệu những chiếc máy kéo tại Nga. Kiến trúc sư Albert Kahn trở thành người tư vấn cho tất cả các công trình xây dựng công nghiệp tại Liên Xô năm 1930. Một vài trí thức cảnh tả cũng thể hiện sự quan tâm của mình. Sau năm 1930, một số nhà hoạt động đã trở thành thành viên hoặc đồng tình với đường lối của Đảng Cộng sản tại Hoa Kỳ, và kêu gọi ủng hộ Liên Xô. Các tổ chức công đoàn tại Mỹ chia làm hai nhóm: trong khi Liên đoàn Lao động Mỹ (American Federation of Labor - AFL) trở thành một thành trì chống cộng, thì các thành phần cánh tả vào cuối thập niên 1930 đã thành lập Liên hiệp các Tổ chức Công nghiệp (Congress of Industrial Organizations - CIO). Những người cộng sản đã đóng vai trò quan trọng trong CIO cho tới khi tất cả họ bị thanh trừng trong khoảng thời gian 1946-47, và các tổ chức lao động về sau đi theo quan điểm chống Xô viết mạnh mẽ.
Công nhận năm 1933
Tới năm 1933, những nỗi sợ cũ về mối đe dọa cộng sản đã tan dần, và cộng đồng doanh nghiệp Mỹ, cùng với báo chí, đã kêu gọi công nhận ngoại giao với Liên Xô. Cộng đồng doanh nghiệp mong muốn được giao thương quy mô lớn với Liên Xô. Chính phủ Hoa Kỳ mong muốn được nhận lại đôi chút từ những khoản cho vay cũ thời Sa hoàng, và cam kết không hỗ trợ cho các phong trào lật đổ trong nước. Tổng thống Franklin D. Roosevelt là người mở đầu, với sự hỗ trợ từ người bạn thân của mình, cố vấn Henry Morgenthau, Jr. và chuyên gia về Nga William Bullitt, bỏ qua Bộ Ngoại giao. Roosevelt thực hiện một cuộc khảo sát ý kiến công chúng, khi đó được tiến hành bằng cách hỏi 1100 biên tập viên báo chí; 63% ủng hộ việc công nhận Liên Xô và 27% phản đối. Roosevelt gặp riêng với các nhà lãnh đạo Công giáo để thuyết phục họ. Ông mời Ngoại trưởng Maxim Litvinov tới Washington để tham dự một loạt các cuộc họp cấp cao vào tháng 11 năm 1933. Ông và Roosevelt đồng thuận về các vấn đề tự do tôn giáo cho người Mỹ làm việc tại Liên Xô. Phía Liên Xô cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của Mỹ, và đảm bảo không có tổ chức nào tại Liên Xô đang hoạt động nhằm phá hoại Hoa Kỳ hay lật đổ chính quyền Hoa Kỳ. Cả hai bên đồng ý hoãn vấn đề nợ sang một thời điểm khác. Roosevelt sau đó công bố một thỏa thuận nhằm bình thường hóa quan hệ trở lại. Bước đi này nhận được một vài phản hồi tiêu cực.
Tuy vậy, vấn đề nợ cũ không có tiến triển, và ít có những sự trao đổi bổ sung. Hai nhà sử học Justus D. Doenecke và Mark A. Stoler cho rằng: "Hai quốc gia sớm vỡ mộng về thỏa thuận đạt được." Nhiều doanh nhân Mỹ mong đợi nhiều hơn về vấn đề thương mại quy mô lớn, nhưng điều này đã không được thực hiện.
Roosevelt bổ nhiệm William Bullitt làm đại sứ từ 1933 tới 1936. Bullitt tới Moskva với những tham vọng lớn cho quan hệ Xô–Mỹ, nhưng quan điểm của ông với sự lãnh đạo của chính quyền Xô viết trở nên xấu đi. Tới cuối nhiệm kỳ của mình, Bullitt công khai thể hiện thái độ thù địch với chính quyền Xô viết. Ông trở thành một nhà chống cộng đầy thẳng thắn trong suốt quãng đời còn lại.
Thế Chiến II (1939–45)
Trước khi Đức quyết định xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, mối quan hệ Xô–Mỹ vẫn còn căng thẳng, do những nguyên nhân như cuộc xâm lược của Liên Xô vào Phần Lan, Hiệp ước Molotov–Ribbentrop, Liên Xô chiếm đóng các nước Baltic và việc Đức cùng Liên Xô tấn công Ba Lan, khiến cho Liên Xô bị khai trừ khỏi Hội Quốc liên. Trước cuộc xâm lược năm 1941, Liên Xô tham gia ký kết một Hiệp ước Hỗ trợ Lẫn nhau với Anh Quốc, và nhận viện trợ từ chương trình Lend-Lease của Mỹ, làm dịu căng thẳng Xô–Mỹ, và đưa những kẻ thù trước đây gần nhau để cùng chống lại Đức Quốc xã và phe Trục.
Mặc dù các hoạt động hợp tác giữa Hoa Kỳ và Liên Xô là ít hơn đáng kể so với các nước thuộc khối Đồng Minh khác, Hoa Kỳ vẫn cung cấp cho Liên Xô một số lượng lớn vũ khí, tàu chiến, máy bay, toa xe, tư liệu chiến lược và lương thực thông qua chương trình Lend-Lease. The Americans and the Soviets were as much for war with Germany as for the expansion of an ideological sphere of influence. Trong cuộc chiến, Tổng thống Truman đã nói rằng ông không quan tâm lính Đức hay lính Nga chết, miễn là một trong hai bên thua trận.
Hiệp hội Văn hóa Mỹ Nga (tiếng Nga: Американо–русская культурная ассоциация) được thành lập tại Hoa Kỳ vào năm 1942 nhằm thúc đẩy trao đổi văn hóa giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, với chức danh chủ tịch danh dự được trao cho Nicholas Roerich. Bản báo cáo thường niên đầu tiên của tổ chức được đưa ra một năm sau. Tổ chức đã không còn hoạt động lâu sau khi Nicholas Roerich mất năm 1947.
Tính tổng cộng, Hoa Kỳ thông qua Lend-Lease đã cung cấp cho Liên Xô khoản vật chất tương đương 11 tỷ USD: hơn 400.000 xe jeep và xe tải; 12.000 xe bọc thép (bao gồm 7.000 xe tăng, khoảng 1.386 trong số đó thuộc dòng M3 Lees và 4.102 là M4 Shermans); 11.400 máy bay (4.719 trong số đó thuộc dòng Bell P-39 Airacobra) và 1,75 triệu tấn lương thực.
Xấp xỉ khoảng 17,5 triệu tấn thiết bị quân sự, phương tiện di chuyển, vật tư công nghiệp và lương thực đã được chuyển từ phương Tây tới Liên Xô, 94% trong đó tới từ Hoa Kỳ. Để so sánh, đã có tổng cộng 22 triệu tấn hàng được vận chuyển tới châu Âu để cung cấp cho quân đội Mỹ từ tháng 1 năm 1942 tới tháng 5 năm 1945. Số hàng được Mỹ vận chuyển tới Liên Xô thông qua Hành lang Ba Tư được cho là đủ, theo tiêu chuẩn của Quân đội Hoa Kỳ, để duy trì cho 60 sư đoàn chiến đấu.
Từ ngày 1 tháng 10 năm 1941 tới ngày 31 tháng 5 năm 1945, Hoa Kỳ đã đem tới Liên Xô lượng hàng hóa như sau: 427.284 xe tải, 13.303 phương tiện chiến đấu, 35.170 xe máy, 2.328 phương tiện phục vụ quân giới, 2.670.371 tấn nhiên liệu (xăng và dầu) hay 57,8% số nhiên liệu hàng không octan cao, 4.478.116 tấn lương thực (thịt đóng hộp, đường, bột mì, muối, v.v.), 1.911 đầu máy hơi, 66 đầu máy diesel, 9.920 toa xe trần, 1.000 xe lật, 120 toa xe chở dầu và 35 phương tiện máy móc hạng nặng. Lượng quân giới được cung cấp (đạn dược, pháo, mìn, các vật liệu nổ) chiếm 53% tổng sản phẩm quốc nội. Tiêu biểu nhất là một nhà máy chế tạo lốp được vận chuyển toàn bộ từ Nhà máy River Rouge của công ty Ford sang tận Liên Xô. Giá trị của số hàng và dịch vụ được cung cấp vào năm 1947 là khoảng 11 tỷ USD.
Bản ghi nhớ của Harry Hopkins, Trợ lý Đặc biệt của Tổng thống, Washington, D.C., 10 tháng 8 năm 1943:
Chiến tranh Lạnh (1947–91)
Kết thúc Thế chiến II là sự chia rẽ trở lại giữa hai quốc gia. Sự mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu sau thất bại của Đức khiến cho các nền kinh tế thị trường tự do ở phương Tây lo lắng, cụ thể là Hoa Kỳ, quốc gia đã thiết lập nên sự chi phối về mặt kinh tế và chính trị của mình tại Tây Âu. Hai quốc gia ủng hộ hai ý thức hệ chính trị và kinh tế trái ngược nhau và cạnh tranh sự ảnh hưởng quốc tế của mình trên những lĩnh vực này. Điều này đã làm kéo dài một cuộc đấu tranh kinh tế, ý thức hệ và địa chính trị—bắt đầu từ khi Học thuyết Truman được đưa ra vào ngày 12 tháng 3 năm 1947 tới tận khi Liên Xô tan rã vào ngày 26 tháng 12 năm 1991—được gọi là Chiến tranh Lạnh, một thời kỳ kéo dài gần 45 năm.
Liên Xô thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của nước này vào năm 1949, kết thúc thế độc nhất của Hoa Kỳ trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân. Hoa Kỳ và Liên Xô tham gia vào một cuộc đua vũ trang kéo dài cho tới khi Liên Xô tan rã. Andrei Gromyko là Ngoại trưởng Liên Xô, và cũng là người giữ chức ngoại trưởng lâu nhất trên thế giới.
Sau khi Đức thua trận, Hoa Kỳ muốn giúp đỡ về kinh tế cho các đồng minh Tây Âu bằng Kế hoạch Marshall. Hoa Kỳ cũng mở rộng Kế hoách Marshall cho Liên Xô, nhưng với những điều khoản như vậy, người Mỹ biết Liên Xô sẽ không bao giờ chấp nhận cái mà chính quyền Xô viết coi là một nền dân chủ của giai cấp tư sản, trái với những đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản Stalin. Với tầm ảnh hưởng đang phát triển của mình ở Đông Âu, Liên Xô muốn chống lại điều này bằng việc thành lập Hội đồng Tương trợ Kinh tế vào năm 1949, về cơ bản cũng giống như Kế hoạch Marshall của Mỹ, mặc dù đây giống như một thỏa thuận hợp tác kinh tế hơn là một kế hoạch tái thiết rõ ràng. Hoa Kỳ và các đồng minh Tây Âu muốn thắt chặt mối quan hệ với nhau và cản trở Liên Xô. Nỗ lực tiêu biểu nhất là việc thành lập NATO, về cơ bản là một thỏa thuận quân sự. Liên Xô đáp trả bằng việc lập Khối Warszawa, với kết quả tương tự như Khối phía Đông.
Nixon làm giảm bớt căng thẳng
Giai đoạn giảm căng thẳng bắt đầu vào năm 1969, là một yếu tố cốt lõi trong chính sách ngoại giao của Tổng thống Richard Nixon và cố vấn cấp cao Henry Kissinger. Họ muốn kết thúc chính sách ngăn chặn và đạt được mối quan hệ thân thiện hơn với Liên Xô và Trung Quốc. Hai nước này khi đó đang ở thế đối đầu và Nixon mong họ sẽ đi cùng với Washington để không cho đối thủ có được lợi thế. Một trong những điều kiện của Nixon là cả hai nước phải ngừng hỗ trợ cho miền Bắc Việt Nam trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, và điều đó đã được thực hiện. Nixon và Kissinger muốn thúc đẩy đối thoại sâu rộng hơn với chính quyền Xô viết, trong đó có các cuộc họp thượng đỉnh định kỳ và đàm phán về vấn đề kiểm soát vũ khí cùng các thỏa thuận song phương khác. Brezhnev đã gặp gỡ Nixon tại các cuộc họp thượng đỉnh ở Moskva năm 1972, Washington năm 1973, và một lần nữa tại Moskva năm 1974. Cả hai người trở thành những người bạn. Trong tiếng Nga, giai đoạn này được gọi là разрядка (razryadka, nghĩa nôm na là "nới lỏng căng thẳng").
Thời kỳ này được đánh dấu qua các hiệp ước được hai bên ký kết như SALT I và Hiệp ước Helsinki. Một hiệp ước khác, START II, đã được hai bên thảo luận nhưng chưa từng được Hoa Kỳ phê chuẩn. Các nhà sử học vẫn đang tranh luận về thành công của thời kỳ giảm căng thẳng này tới nỗ lực nhằm đạt tới hòa bình.
Sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, hai siêu cường đồng ý lập một đường dây nóng trực tiếp giữa Washington D.C. và Moskva (hay còn được gọi là điện thoại đỏ), cho phép nhà lãnh đạo hai nước có thể nhanh chóng liên hệ nhau khi khẩn cấp, đồng thời giảm khả năng những cuộc khủng hoảng tương tự có thể leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn diện. The U.S./USSR détente was presented as an applied extension of that thinking. Hiệp ước SALT II vào cuối thập niên 1970 nối tiếp những thành công của cuộc đàm phán SALT I, đảm bảo cho sự cắt giảm vũ khí hơn nữa của cả Liên Xô và Hoa Kỳ. Hiệp ước Helsinki, mà trong đó Liên Xô cam kết các cuộc bầu cử tự do tại châu Âu, được gọi là sự nhượng bộ lớn của chính quyền Xô viết để đảm bảo hòa bình.
Thời kỳ hòa hoãn kết thúc sau khi sự can thiệp của Liên Xô tại Afghanistan, khiến cho Hoa Kỳ quyết định tẩy chay Thế vận hội 1980 tại Moskva. Việc Ronald Reagan được bầu làm tổng thống vào năm 1980, phần lớn dựa trên chiến dịch tranh cử phản đối chính sách hòa hoãn của ông, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ hòa hoãn và căng thẳng Chiến tranh Lạnh trở lại. Trong buổi họp báo đầu tiên, Tổng thống Reagan nói: "Hòa hoãn là một con đường một chiều mà Liên Xô đã dùng để theo đuổi những mục đích của họ." Sau sự kiện này, quan hệ hai nước trở nên căng thẳng hơn do sự bất ổn tại Ba Lan, chấm dứt các cuộc đàm phán SALT II, và cuộc tập trận của NATO vào năm 1983 đã suýt chút nữa đưa hai siêu cường tới bờ vực chiến tranh hạt nhân.
Chiến tranh Lạnh trở lại
Afghanistan 1979
Thời kỳ hòa hoãn kết thúc khi Liên Xô xâm lược Afghanistan vào năm 1979. Hoa Kỳ, Pakistan và các đồng minh ủng hộ quân nổi dậy. Để trừng phạt Moskva, Hoa Kỳ đã rút khỏi Thế vận hội Moskva. Tổng thống Jimmy Carter áp đặt lệnh cấm vận lên sản phẩm lúa mì từ Mỹ. Điều này thực chất gây ra hậu quả xấu tới nông dân Mỹ hơn là tới nền kinh tế Xô viết, và Tổng thống Ronald Reagan phải nối lại giao thương vào năm 1981. Các quốc gia khác cũng bán các sản phẩm ngũ cốc của riêng mình cho Liên Xô, đồng thời nước này cũng có nguồn dự trữ lớn và sản lượng thu hoạch tốt.
Reagan lên án "Đế quốc tà ác"
Reagan làm căng thẳng thêm cuộc Chiến tranh Lạnh, thúc đẩy việc đảo ngược chính sách hòa hoãn đã được bắt đầu từ năm 1979 sau khi Liên Xô xâm lược Afghanistan. Reagan sợ rằng Liên Xô đã đạt lợi thế quân sự trước Hoa Kỳ, và chính quyền Reagan hy vọng việc tăng cường chi tiêu quốc phòng sẽ giúp quân đội Hoa Kỳ đạt thế dẫn đầu và làm suy yếu nền kinh tế Xô viết. Reagan ra lệnh mua sắm vũ khí quy mô lớn cho Quân đội Hoa Kỳ, trực tiếp cấp ngân sách tài trợ cho các dòng máy bay ném bom B-1 Lancer, B-2 Spirit, các tên lửa hành trình, tên lửa MX và kế hoạch 600 tàu cho Hải quân. Đáp trả việc Liên Xô triển khai tên lửa SS-20, Reagan chỉ đạo việc triển khai tên lửa Pershing của NATO tại Tây Đức. Ông cũng mạnh mẽ lên án Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản, mô tả Liên Xô là một "đế quốc tà ác".
Kết thúc Chiến tranh Lạnh
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Malta vào tháng 12 năm 1989, cả hai nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Liên Xô tuyên bố kết thúc Chiến tranh Lạnh. Năm 1991, hai nước trở thành đối tác trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh chống lại Iraq, một đồng minh lâu năm của Liên Xô. Ngày 31 tháng 7 năm 1991, hiệp ước START I nhằm cắt giảm số đầu đạn hạt nhân được triển khai tại hai nước đã được ký kết bởi Tổng bí thư Mikhail Gorbachev và Tổng thống George Bush. Tuy nhiên, nhiều người coi Chiến tranh Lạnh chỉ thực sự kết thúc vào cuối năm 1991 với sự tan rã của Liên Xô.
Xem thêm
Chính sách đối ngoại Đế quốc Nga tới 1917
Đế quốc Xô viết
Chiến tranh Lạnh
Tham khảo
Đọc thêm
Bennett, Edward M. Franklin D. Roosevelt and the Search for Security: American-Soviet Relations, 1933-1939 (1985)
Bennett, Edward M. Franklin D. Roosevelt and the Search for Victory: American-Soviet Relations, 1939-1945 (1990).
Browder, Robert P. "The First Encounter: Roosevelt and the Russians, 1933" United States Naval Institute proceedings (May 1957) 83#5 pp 523–32.
Browder, Robert P. The origins of Soviet-American diplomacy (1953) pp 99–127 Online free to borrow
Cohen, Warren I. The Cambridge History of American Foreign Relations: Vol. IV: America in the Age of Soviet Power, 1945-1991 (1993).
Crockatt, Richard. The Fifty Years War: The United States and the Soviet Union in world politics, 1941-1991 (1995).
Diesing, Duane J. Russia and the United States: Future Implications of Historical Relationships (No. Au/Acsc/Diesing/Ay09. Air Command And Staff Coll Maxwell Afb Al, 2009). online
Dunbabin, J.P.D. International Relations since 1945: Vol. 1: The Cold War: The Great Powers and their Allies (1994).
Foglesong, David S. The American mission and the 'Evil Empire': the crusade for a 'Free Russia' since 1881 (2007).
Gaddis, John Lewis. Russia, the Soviet Union, and the United States (2nd ed. 1990) online free to borrow covers 1781-1988
Gaddis, John Lewis. The United States and the Origins of the Cold War, 1941-1947 (2000).
Garthoff, Raymond L. Détente and confrontation: American-Soviet relations from Nixon to Reagan (2nd ed. 1994) In-depth scholarly history covers 1969 to 1980. online free to borrow
Garthoff, Raymond L. The Great Transition: American-Soviet Relations and the End of the Cold War (1994), In-depth scholarly history, 1981 to 1991,
Glantz, Mary E. FDR and the Soviet Union: the President's battles over foreign policy (2005).
LaFeber, Walter. America, Russia, and the Cold War 1945-2006 (2008).
Leffler,, Melvyn P. The Specter of Communism: The United States and the Origins of the Cold War, 1917-1953 (1994).
Nye, Joseph S. ed. The making of America's Soviet policy (1984)
Saul, Norman E. Distant Friends: The United States and Russia, 1763-1867 (1991)
Saul, Norman E. Concord and Conflict: The United States and Russia, 1867-1914 (1996)
Saul, Norman E. War and Revolution: The United States and Russia, 1914-1921 (2001)
Saul, Norman E. Friends or foes?: the United States and Soviet Russia, 1921-1941 (2006) online free to borrow
Saul, Norman E. The A to Z of United States-Russian/Soviet Relations (2010)
Saul, Norman E. Historical Dictionary of Russian and Soviet Foreign Policy (2014).
Sibley, Katherine AS. "Soviet industrial espionage against American military technology and the US response, 1930–1945." Intelligence and National Security 14.2 (1999): 94-123.
Sokolov, Boris V. "The role of lend‐lease in Soviet military efforts, 1941–1945." Journal of Slavic Military Studies 7.3 (1994): 567-586.
Stoler, Mark A. Allies and Adversaries: The Joint Chiefs of Staff, the Grand Alliance, and US Strategy in World War II. (UNC Press, 2003).
Taubman, William. Gorbachev (2017) excerpt
Taubman, William. Khrushchev: The Man and His Era (2012), Pulitzer Prize
Taubman, William. Stalin’s American Policy: From Entente to Détente to Cold War (1982).
Thomas, Benjamin P.. Russo-American Relations: 1815-1867 (1930).
Trani, Eugene P. "Woodrow Wilson and the decision to intervene in Russia: a reconsideration." Journal of Modern History 48.3 (1976): 440-461. online
Unterberger, Betty Miller. "Woodrow Wilson and the Bolsheviks: The 'Acid Test' of Soviet–American Relations." Diplomatic History 11.2 (1987): 71-90. online
White, Christine A. British and American Commercial Relations with Soviet Russia, 1918-1924 (UNC Press, 2017).
Zubok, Vladislav M. A Failed Empire: The Soviet Union in the Cold War from Stalin to Gorbachev (1209)
Quan hệ quốc tế năm 1933
Liên Xô
Hoa Kỳ
Liên Xô
|
2596616
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Talara%20proxima
|
Talara proxima
|
Talara proxima là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Talara
|
19818617
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20ph%E1%BB%A5
|
Thượng phụ
|
Thượng phụ có thể là:
Thượng phụ (hay Trưởng phụ, Mục thủ), là các giám mục bậc cao nhất trong Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương, và Cảnh giáo.
Thượng Phụ (尚父), danh xưng kính trọng của các Hoàng đế Trung Hoa dành cho các nhân vật có vai trò rất quan trọng trong triều đình.
Khương Tử Nha (thời Tây Chu), người đầu tiên được nhắc tới với danh xưng này.
Đổng Trác (thời Đông Hán)
Quách Tử Nghi (thời Nhà Đường)
Lý Phụ Quốc (thời Nhà Đường)
Vương Hành Du (thời Nhà Đường)
Lưu Thủ Quang (thời Ngũ đại Thập quốc)
Tiền Lưu (thời Ngũ đại Thập quốc)
Vương Tông Khản (thời Ngũ đại Thập quốc)
Lý Biện (thời Ngũ đại Thập quốc)
Tương tự với Thượng Phụ, các Hoàng đế Trung Hoa còn dùng danh xưng Á Phụ (亞父) hay Trọng Phụ (仲父).
Á Phụ Phạm Tăng (thời Tây Hán)
Á Phụ Liêu Thái Tông (thời Nhà Liêu)
Trọng Phụ Quản Trọng (thời Xuân Thu Chiến Quốc)
Trọng Phụ Lã Bất Vi (thời Nhà Tần)
Trọng Phụ Trương Chiêu (thời Tam Quốc)
Trọng Phụ Vương Đạo (thời Đông Tấn)
zh:尚父
|
3282605
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hai%20Mi%C3%AAn
|
Hai Miên
|
Hai Miên (1862-1899) là thông ngôn, ông Phán, tri huyện hàm thời Pháp thuộc tại miền Nam Việt Nam. Ông nổi tiếng là một người ăn chơi nhưng hay giúp đỡ người thất cơ, lỡ vận. Ông được người dân tin yêu, kính mến nên dân Chợ Cầu Muối, Sài Gòn đã lập đình để thờ ông. Các bài vè, thơ nói về ông được nhiều người biết đến và lưu truyền lại.
Cuộc đời
Hai Miên tên thật là Huỳnh Công Miên, ông sinh năm 1862 tại tỉnh Gò Công (nay thuộc vùng Gò Công Đông, Tiền Giang). Ông là con của Huỳnh Công Tấn một lãnh binh tay sai đắc lực của thực dân Pháp chuyên đàn áp người dân. Vì là gia đình có thế lực và giàu có nên năm 17 tuổi, Hai Miên được cha đưa sang Pháp học trường La Seyne gần Toulouse. Ông học ở đó 4 năm nhưng không đạt được bất cứ bằng cấp gì, may thay cũng do thời gian đi học mà ông Hai Miên nói được rất trôi chảy tiếng Pháp. Vì vậy khi về lại Việt Nam, ông được chọn làm thông ngôn, sau đó thăng dần lên các chức phán và Tri huyện. Quan Tri huyện Hai Miên làm việc cho Pháp dưới trướng Tổng đốc Trần Bá Lộc. Thời đó, mọi người đều nghĩ Huỳnh Công Miên sẽ giống tính cách của cha ông, chuyên đàn áp những người Việt chống đối sự cai trị của thực dân. Thế nhưng với trường hợp của Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn và Cậu Hai Huỳnh Công Miên được người đời cho là trường hợp khác thường "cây đắng sanh trái ngọt" khi ông hoàn toàn không giống bản tính của cha mình.
Khi Tổng đốc Bá Lộc đem quân ra Khánh Hòa để dẹp cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng, Hai Miên cũng được cho theo. Thế nhưng khi chứng kiến tổng đốc bắt mẹ Mai Xuân Thưởng để buộc người này ra hàng và sự đàn áp của quân lính với dân thường, Hai Miên đã xin từ chức. Ông chọn cho mình một cuộc sống giang hồ, ngồi ghe để chu du khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Giàu có và quyền lực do thừa hưởng gia tài đồ sộ của cha để lại, Hai Miên càng có đủ điều kiện để phá phách. Ông coi tiền như rác, mỗi ngày đều đi đá gà, rượu chè, bài bạc... Công tử Hai Miên được giới giang hồ thời đó gọi là "miễn tử lưu linh" do ông được miễn sưu thuế, có thể đi khắp nơi mà không sợ bị "hỏi giấy". Ông nổi danh khắp nơi, từ dân đến quan đều tỏ ra e ngại thiếu gia chịu chơi này.
Các giai thoại
Tương truyền, danh Cậu Hai Miên là một công tử ăn chơi khét tiếng Nam Kỳ Lục tỉnh với lối sống theo kiểu giang hồ hảo hán, hoang đàng. Nhưng lại làm những việc nghĩa hiệp "giữa đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha". Hai Miên đã từng tống tiền quan tham biện tỉnh Mỹ Tho Do nể uy quyền của quan lớn Tấn, cha của Hai Miên, nên ông quan Tây đành bảo "Hết tiền, cậu cứ xuống kho lấy xài". Cậu Hai Miên từng đánh cặp rằn Tây do ức hiếp dân phu đào ao tại Trường Đua ở Gò Công, ông coi thường quan Tây, trừng trị quan người Việt như hương quản, do cầm roi cá đuối đánh đập dân làng..
Tại Bạc Liêu có gia đình ông chủ Thời rất thế lực và nổi tiếng hách dịch. Ông Thời có cô con gái tên là Hai Sáng. Dân chúng trong vùng sợ cha con họ đến nỗi không dám nói đến chữ Sáng như "buổi sáng", "sáng mai", mà phải nói lại "buổi sớm"; "sớm mơi". Một lần đoàn ghe của cậu Hai Miên ngao du tới đây. Nghe kể về ông chủ Thời và cô Hai Sáng, Hai Miên rất tức giận. Ông đã cho ghe ghé lại, ra lệnh bắt trói cô Hai Sáng và kéo lên cột buồm. Ông chủ Thời thấy vậy vội vã xuống năn nỉ, thương lượng với Cậu Hai Miên xin chuộc cô Hai Sáng bằng một bao lớn tiền giấy bạc. Ông Hai Miên bằng lòng, mở trói cho cô Hai Sáng, rồi cùng gia nhân ôm bao giấy bạc xuống ghe, chèo đi. Từ đó, ông chủ Thời và con gái đã bớt hống hách với dân làng. Nhưng riêng Bà Hai Sáng thì vẫn còn căm lắm, bà nghĩ cách để trả thù cho bằng được ông Hai Miên để rửa hận.
Qua đời
Ngày mùng 6 tháng 12 năm Kỷ Hợi, 1899, sau khi đi ngao du nhiều nơi, ông Hai Miên về nhà ở vùng Cầu Kho. ông bị cô Hai Sáng bày mưu trả thù. Cô Hai Sáng lúc đó đã thuê hơn 40 tay giang hồ "đâm thuê chém mướn" cầm dao xắt chuối bao vây Cậu Hai Miên. Mặc dù giỏi võ, nhưng ông Hai đã không đương cự lại nổi số quá đông nên qua đời, hưởng dương 38 tuổi. Trước năm 1975, mộ của Cậu Hai Miên nằm trong vuông đất ở đường Phát Diệm, Sài Gòn. Mộ được xây bằng đá xanh, có dựng bia, nhưng vì lâu ngày đã bị rêu phong cỏ mọc, đọc không rõ .
Gia đình
Cha của Hai Miên, Huỳnh Công Miên là Lãnh Binh Tấn tức Huỳnh Công Tấn, là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân vào những năm gần cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ, Việt Nam. ông này là người thôn An Long (Yên luông nhị thôn), huyện Tân Hòa (Gò Công), trước thuộc tỉnh Định Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang. Năm 1874, Sau khi Huỳnh Tấn mất, Chủ tỉnh Pháp là E. Puech (1873 - 1874) cho xây dựng "đài ghi công" ông tại tỉnh Gò Công (nay là thị xã Gò Công). Trên đó có khắc dòng chữ: "À la mémoire du Lanh binh Huynh Cong Tan, chevalier de la Légion d'honneur, tidèle serviteur de France". Nghĩa là: "Kỷ niệm Huỳnh Công Tấn, Bắc Đẩu Bội tinh, công bộc trung thành của nước Pháp". Năm 1945, đài này bị người dân đập phá hoàn toàn.
Cha mẹ của Hai Miên có năm người con: Hai Miên là con trai thứ hai, con trai út là Huỳnh Công Viễn, ông bà có ba người con gái giữa, trong đó hai người con gái là nữ tu của đạo Công giáo và một người chết khi còn nhỏ.
Vợ của ông Hai Miên là bà Lê Thị Túy. Bà Tuý là em gái quan cai tổng Lê Quang Chiểu (người Phong Điền, Cần Thơ), một tiểu thư khuê các, văn hay chữ tốt, nhà ở vùng Tân Hòa, nay là khu vực phường Cầu Kho và phường Nguyễn Cư Trinh (quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).
Tri ân
Để ghi nhận những đóng góp và tri ân ông Hai Miên, người dân Sài Gòn xưa đã xây dựng nên Đình Nhơn Hòa để thờ ông, đình rộng hơn 1.500 m2, còn có tên gọi là Đình Cậu Hai Miên hay Đình Cầu Muối. Ngôi đình này đã được công nhận là "Di sản kiến trúc dân tộc cổ truyền", hiện toạ lạc tại số 27 Cô Giang, thuộc phường Cầu Ông Lãnh, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Trong dân gian cũng lưu truyền bài vè ca ngợi khi phách của cậu Hai Miên. Bài "Vè cậu Hai Miên" cùng với vè Sáu Trọng và vè Thông Chánh đã bị thực dân Pháp thời đó cấm. Trong bài vè, cậu Hai Miên được nhắc với danh xưng ngộ nghĩnh là "lưu linh miễn tử" .
Xem thêm
Chợ Cầu Muối
Lãnh Binh Tấn
Thơ Thầy Thông Chánh
Thơ Sáu Trọng
Vè cậu Hai Miên
Sách tham khảo
Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa. Nhà xuất bản TP. HCM, 1991.
Huỳnh Minh, Gò Công xưa. Nhà xuất bản Thanh Niên, 2001.
Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nhà xuất bản Văn nghệ TP. HCM, 1994.
Ghi chú
Liên kết ngoài
Di Tích Đình Nhơn Hòa , vinalo.com
Đình Nhơn Hòa, wikimapia.org
Cộng sự thực dân Pháp
Người Gò Công
Người Sài Gòn
Xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc
|
2933297
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Margelana%20discrepans
|
Margelana discrepans
|
Margelana discrepans là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Margelana
|
19571511
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20v%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Shizuoka
|
Sân vận động Shizuoka
|
là một sân vận động thể thao được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động nằm ở thành phố Fukuroi, tỉnh Shizuoka, Nhật Bản, mặc dù bản thân sân vận động chỉ là trung tâm của Công viên Thể thao Ogasayama lớn hơn kéo dài sang vùng lân cận Kakegawa. Sân vận động có sức chứa 50.889 chỗ ngồi. Sân hiện là địa điểm chính cho các sự kiện thể thao lớn ở tỉnh Shizuoka, bao gồm cả điền kinh, được trang bị đầy đủ các cơ sở vật chất.
Các trận đấu Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
Các trận đấu sau đây đã được diễn ra tại Sân vận động Shizuoka trong World Cup 2002:
Tham khảo
Liên kết ngoài
Official site of Ecopa
Các sân vận động giải vô địch bóng đá thế giới 2002 ở Nhật Bản
Địa điểm bóng đá Nhật Bản
Sân vận động rugby union Nhật Bản
Địa điểm điền kinh Nhật Bản
Shimizu S-Pulse
Júbilo Iwata
Điểm tham quan ở Shizuoka (tỉnh)
Địa điểm thể thao Shizuoka (tỉnh)
Fukuroi, Shizuoka
|
19612032
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A3ng%20bi%E1%BB%83n%20Aegea
|
Mảng biển Aegea
|
{{Infobox tectonic plate
| image = File:AegeanPlate.png
| caption = Dịch:
Eurasian Plate: Mảng Á-Âu
Persia-Tibet-Burma Orogeny: Kiến tạo sơn Ba Tư—Tây Tạng—Miến Điện
Anatolian Plate: Mảng Tiểu Á
African Plate: Mảng Châu Phi
Arabian Plate: Mảng Ả Rập
| alt = Mảng Aegea
| type = Micrô
| move_direction = Phía tây nam
| move_speed = 37 mm/năm
| geo_features = Biển Aegea, Hy Lạp
}}
Mảng biển Aegea (còn được gọi là Mảng "Hy Lạp" (Hellenic Plate'') hay Mảng Aegea) là một mảng kiến tạo nhỏ ở phía đông biển Địa Trung Hải dưới phía nam Hy Lạp và viễn tây Thổ Nhĩ Kỳ. Bờ phía nam của mảng đó là một khu bị hút chìm ở phía nam Crete, nơi mà mảng châu Phi bị cuốn vào dưới mảng biển Aegea. Theo phía bắc là mảng Á-Âu, có một ranh giới phân kỳ chịu trách nhiệm sự hình thành của Vịnh Corinth.
Chú thích
Liên kết ngoài
Mảng kiến tạo
Biển Aegea
Địa chất học Hy Lạp
Địa chất học Thổ Nhĩ Kỳ
|
2619417
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gymnoscelis%20globulariata
|
Gymnoscelis globulariata
|
Gymnoscelis globulariata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Gymnoscelis
|
2702485
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crambus%20laqueatellus
|
Crambus laqueatellus
|
Crambus laqueatellus là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Động vật được mô tả năm 1860
Crambus
|
19692971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C5%8Dnin%20%28h%E1%BB%8Dc%20sinh%29
|
Rōnin (học sinh)
|
Ở Nhật Bản, là một học sinh vừa mới tốt nghiệp THCS hoặc THPT nhưng chưa đủ điều kiện để nhập học tiếp ở bậc cao hơn, vậy nên họ phải ôn luyện bên ngoài hệ thống nhà trường chính khóa hướng tới đầu vào trong một năm nào đó ở tương lai. Rōnin có thể ôn tập tại một cơ sở giáo dục gọi là yobikō.
Xem thêm
Học thêm
Dek siw
Jaesusaeng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Rōnin-sei no Tanjō thesis at Keio University
Áp lực học tập trong văn hóa Á Đông
Thuật ngữ tiếng Nhật
Kiểm tra và thi cử ở Nhật Bản
|
2570880
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Prionacalus%20woytkowskii
|
Prionacalus woytkowskii
|
Prionacalus woytkowskii là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Prionacalus
|
2941647
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xestia%20kenteana
|
Xestia kenteana
|
Xestia kenteana là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xestia
|
2809488
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lissonota%20complicator
|
Lissonota complicator
|
Lissonota complicator là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
C
|
19345756
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%9Bp%20t%E1%BA%BF%20b%C3%A0o%20h%E1%BA%A1ch
|
Lớp tế bào hạch
|
(hoặc được gọi là thuộc hạch) là một lớp của võng mạc bao gồm của tế bào hạch võng mạc và di chuyển tế bào đuôi ngắn của võng mạc.
Trong hoàng điểm, lớp hình thành một vài tầng.
Các tế bào có hình dạng bình; bề mặt bên trong tròn của mỗi phần còn lại trên địa tầng và gửi đi một sợi trục được kéo dài vào nó.
Từ đầu đối diện, rất nhiều đuôi gai kéo dài vào lớp rối bên trong, nơi chúng phân nhánh và hình thành các tầng bằng phẳng ở các cấp độ khác nhau.
Các tế bào hạch có kích thước khác nhau, và các sợi nhánh của các tế bào nhỏ hơn như là một quy tắc xuất hiện trong lớp rối bên trong ngay khi chúng xâm nhập vào nó; trong khi những tế bào lớn hơn phân nhánh gần với lớp hạt nhân bên trong.
Chú thích
Liên kết ngoài
Giải phẫu mắt người
Phân loại mắt người
|
2937818
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stiria%20iticys
|
Stiria iticys
|
Stiria iticys là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Stiria
|
3235461
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20H%C3%A0%20Lan%20bay%20%28v%E1%BB%9F%20Opera%29
|
Người Hà Lan bay (vở Opera)
|
Người Hà Lan bay, WWV 63 (tiếng Đức: Der fliegende Holländer), hay còn có tên gọi khác là Người thủy thủ phiêu lãng, là vở opera bảng tiếng Đức của nhà soạn nhạc opera nổi tiếng Richard Wagner. Đây là một trong những bằng chứng chứng tỏ sự đa tài của Wagner khi ông vừa là người soạn nhạc, vừa là người viết lời cho tác phẩm này. Vì gia cảnh quá nghèo, Wagner đã phải bán đi lời tiếng Pháp có cái tên Le vaisseau fantôme cho Opéra Paris. Nhà soạn nhạc này đã mất cả năm 1841 để hòa thành tác phẩm. Tác phẩm được công diễn lần đầu tiên vào năm 1843 tại Dresden Court Opera, buổi công diễn này đã không gây được tiếng vang lớn.
Chú thích
Opera
|
2916755
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euagrotis%20nigrovittata
|
Euagrotis nigrovittata
|
Euagrotis nigrovittata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Euagrotis
|
13825818
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B2%20Pie%20Rouge%20des%20Plaines
|
Bò Pie Rouge des Plaines
|
Bò Pie Rouge des Plaines là giống bò sữa hiện đại có nguồn gốc từ Pháp. Giống bò này được tạo ra vào khoảng năm 1970 bằng cách lai tạo giống bò truyền thống của vùng Brittany, ở miền tây bắc nước Pháp, với bò cái đỏ của giống Meuse-Rhine-Yssel và giống bò Deutsche Rotbunte của Đức.
Pie Rouge des Plaines tập trung chủ yếu ở Brittany, nơi có khoảng 80% tổng đàn; nó cũng được phân bố ở Normandy, và - ở một mức độ ít hơn - ở Trung tâm Massif. Tổng số lượng ước tính khoảng 60 000, với khoảng 3 500 con bò được đăng ký trong cuốn sách về giống. Tinh dịch đông lạnh từ khoảng 150 con bò đực có sẵn cho việc thụ tinh nhân tạo.
Giống gốc Armorican đã trở nên hiếm hoi: nó được FAO liệt kê là "cực kỳ nguy cấp" năm 2007. Năm 2005, số lượng bò giống này được ước tính vào khoảng 240 đầu, và năm 2014 là 263 con.
Đặc điểm
Pie Rouge des Plaines có màu đỏ, có sừng hình lưỡi liềm ngắn. Da, mõm và niêm mạc nhợt nhạt. Bò có sức đề kháng tốt với bịnh nhũ phòng viêm.
Sử dụng
Pie Rouge des Plaines có khả năng sản xuất sữa tốt. Năng suất sữa là 8000 kg trong thời gian cho con bú là 329 ngày. Sữa có 4,3% chất béo và 3,3% protein. Sản xuất thịt cũng góp phần tạo ra lợi nhuận khi nuôi giống bò này.
Tham khảo
Giống bò
|
19546585
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A1%20Tinh
|
Tạ Tinh
|
Tạ Tinh (; ? – ?), không rõ tên tự, là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc đời
Tạ Tinh không rõ quê quán, có nguồn cho rằng Tạ Tinh là tộc nhân của Tạ phu nhân, chính thê của Tôn Quyền, quê ở huyện Sơn Âm, quận Cối Kê, Dương Châu.
Năm 219, thừa dịp Quan Vũ đánh Tương Dương, Lã Mông cho quân đánh úp Kinh Châu. Tạ Tinh chỉ huy bộ binh cùng Lý Dị chỉ huy thủy quân, tổng cộng 3.000 người, theo Lục Nghị đánh tan quân phòng thủ Kinh Châu do Chiêm Yến, Trần Phượng chỉ huy. Trần Phượng bị bắt sống rồi đầu hàng. Lục Nghị lại dẫn dắt Lý Dị, Tạ Tinh đánh bại quân của Thái thú Phòng Lăng Đặng Phụ, Thái thú Nam Hương Quách Mục, cùng mấy nghìn di binh của Văn Bố, Đặng Khải.
Không còn ghi chép gì về Tạ Tinh sau đó.
Trong văn hóa
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, Tạ Tinh xuất hiện ở hồi 82, là bộ tướng của Tôn Hoàn, có sức khoẻ muôn người không địch nổi. Ngô Ban tấn công Nghi Đô do Tôn Hoàn trấn thủ, cho Trương Bào ra trận. Trương Bào đánh với Tạ Tinh hơn 30 hiệp. Tạ Tinh thua chạy. Lý Dị xông ra cứu viện, nhờ Đàm Hùng bắn tên khiến Trương Bào ngã ngựa, định chém thì bị Quan Hưng chém chết. Hôm sau, Tôn Hoàn tấn công nhưng thua trận, bị Ngô Ban cùng Phùng Tập, Trương Nam đánh đuổi. Tạ Tinh đụng phải Trương Bào, bị một mâu đâm xuống ngựa. Tôn Hoàn tổn thất Lý Dị, Tạ Tinh, Đàm Hùng cùng nhiều quân sĩ, phải sai người đến chỗ Chu Nhiên cầu cứu.
Tham khảo
Trần Thọ, Bùi Tùng Chi chú, Tam quốc chí.
La Quán Trung, Tam quốc diễn nghĩa.
Ghi chú
Chú thích
Sinh thế kỷ 2
Mất thế kỷ 3
Nhân vật quân sự Tam Quốc
Nhân vật quân sự Đông Ngô
Nhân vật Tam quốc diễn nghĩa
|
2717015
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pyrausta%20lethalis
|
Pyrausta lethalis
|
Pyrausta lethalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Pyrausta
|
2604502
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ctimene%20inversa
|
Ctimene inversa
|
Ctimene inversa là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Ctimene
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.