id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
381
| title
stringlengths 1
211
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
19334060
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1%20l%E1%BB%ABa%20d%E1%BB%91i
|
Tự lừa dối
|
Tự lừa dối là một quá trình từ chối hoặc hợp lý hóa sự liên quan, ý nghĩa hoặc tầm quan trọng của bằng chứng đối lập và lập luận logic. Tự lừa dối liên quan đến việc thuyết phục bản thân về một sự thật (hoặc thiếu sự thật) để người ta không tiết lộ bất kỳ sự tự hiểu biết nào về sự lừa dối.
Lịch sử tóm tắt
Trong khi Freudian phân tích ý thức và tâm trí vô thức thống trị lĩnh vực này, ngày càng nhiều nhà khoa học tâm lý trở nên tò mò về cách hai thế giới dường như tách biệt này có thể làm việc cùng nhau trong thập niên 70. Tuy nhiên, do thiếu các mô hình cơ học có sẵn cho dòng nghiên cứu này, cuộc tranh luận đã bị tạm dừng. Sau đó, trọng tâm đã được chuyển sang nghiên cứu liên quan đến tầm nhìn trong tâm lý học xã hội.
Lý thuyết hóa
Phân tích
Các mô hình truyền thống của tự lừa dối được mô hình hóa sau khi lừa dối cá nhân, trong đó A cố ý có được B để tin rằng một số đề xuất p, tất cả các dù đã biết hoặc tin tưởng thực sự ¬ p (phủ định của p). Lừa dối như vậy là cố ý và đòi hỏi sự lừa dối để biết hoặc tin ¬ p và người bị lừa dối để tin p. Trong chế độ truyền thống này, những người tự lừa dối phải (1) giữ niềm tin trái ngược và (2) cố tình tự giữ lấy một niềm tin mà họ biết hoặc tin thực sự là sai.
Tuy nhiên, quá trình hợp lý hóa có thể che khuất ý định tự lừa dối. Brian McLaughlin minh họa rằng sự hợp lý hóa như vậy trong một số trường hợp nhất định cho phép hiện tượng này. Khi một người, người không tin p, cố tình làm cho mình tin hoặc tiếp tục tin p bằng cách tham gia vào các hoạt động đó, và kết quả là vô tình khiến bản thân tin tưởng hoặc tiếp tục tin tưởng p thông qua suy nghĩ thiên vị, anh ta tự lừa dối mình theo cách thích hợp để tự lừa dối. Không có ý định gian dối là cần thiết cho việc này.
Tham khảo
Lỗi sai
Lừa dối
Khái niệm hiện sinh
Thiên kiến nhận thức
|
19760107
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Greenwich%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Greenwich Việt Nam
|
Greenwich Việt Nam là chương trình liên kết quốc tế của Trường Đại học FPT và Đại học Greenwich, Vương Quốc Anh từ năm 2009. Với sứ mệnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế, Greenwich Việt Nam đào tạo chương trình đại học nguyên bản từ Đại học Greenwich, Vương Quốc Anh.
Tính đến nay, đã có gần 20.000 sinh viên theo học Greenwich Việt Nam tại cả 4 cơ sở: Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM và Cần Thơ.
Lịch sử hình thành
Năm 2008, trong một lần đọc báo Tuổi trẻ, Tiến sĩ Lê Trường Tùng - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học FPT, lãnh đạo sáng tập Greenwich Việt Nam tình cờ đọc được một tin quảng cáo về Đại học Greenwich thu hút người học ở Việt Nam sang học tập tại Singapore. Khi đó, ông đã nghĩ: tại sao sinh viên Việt Nam lại phải sang Singapore học mà không học tại ngay đất nước của mình?. Thời điểm đó, FPT đã chủ động liên hệ với Đại học Greenwich, Anh Quốc, đồng thời cử người sang làm việc trực tiếp. Chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn sau đó, cơ sở đầu tiên của Greenwich được mở tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Tiến sĩ Lê Trường Tùng khẳng đinh: “Greenwich Việt Nam không đơn thuần là nơi sinh viên có thể học chương trình chất lượng cao với chi phí phù hợp mà đây còn là đại diện giáo dục đại học của Anh Quốc tại Việt Nam và là biểu hiện của ngoại giao giáo dục giữa hai quốc gia. Thông qua giáo dục, chúng tôi trao đổi chuyên môn, trao đổi văn hóa và góp phần tăng cường quan hệ quốc tế giữa hai quốc gia”.
Bằng cấp
Sinh viên theo học tại Greenwich Việt Nam khi tốt nghiệp nhận bằng cử nhân do ĐH Greenwich (Vương quốc Anh) cấp, hoàn toàn giống với bằng của sinh viên học tập trực tiếp tại Vương quốc Anh. Bằng này có giá trị toàn cầu.
Bằng cấp của Greenwich Việt Nam đều được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công nhận và được Cơ quan thẩm định chất lượng giáo dục đại học Anh Quốc (Quality Assurance Agency for Higher Education) kiểm định. Bằng cấp này đều do Đại học Greenwich tại Anh Quốc trao.
Hệ thống cơ sở
Greenwich Việt Nam nằm trong hệ thống các cơ sở đào tạo chương trình của Đại học Greenwich, Anh Quốc tại hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ gồm: Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Trung Quốc,...
Greenwich Việt Nam có 4 cơ sở và 1 trung tâm đổi mới sáng tạo:
Greenwich Việt Nam - Cơ sở Hà Nội
Đây là một trong 2 cơ sở đầu tiên của Greenwich Việt Nam, trước đây tọa lạc trên đường Tôn Thất Thuyết, Nam Từ Liêm. Kể từ năm 2021, cơ sở Hà Nội chính thức chuyển về số 2 Phạm Văn Bạch, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội nằm ở ngã tư Phạm Văn Bạch - Dương Đình Nghệ - Trung Kính.
Chiều ngày 30/5/2022, Greenwich Việt Nam khánh thành cơ sở mới tại trung tâm quận Cầu Giấy, Hà Nội đánh dấu việc mở rộng quy mô đào tạo chương trình đại học nước ngoài từ năm 2022.
Phát biểu tại sự kiện khai trương cơ sở Hà Nội, Giáo sư Jane Roscoe - Phó hiệu trưởng Đại học Greenwich đánh giá cao mối quan hệ đối tác bền chặt trong hơn 15 năm qua giữa Đại học Greenwich và FPT mà Greenwich Việt Nam là đại diện.
Greenwich Việt Nam - cơ sở Hà Nội nằm sát bên cạnh tòa soạn Báo Lao Động, kế đó là Đại sứ quán Hoa Kỳ mới cũng như Tòa nhà FPT Tower của Tập đoàn FPT.
Greenwich Việt Nam - Cơ sở TP.HCM
Greenwich Việt Nam - Cơ sở TP.HCM cũng được thành lập cùng cơ sở Hà Nội. Trước đây, cơ sở được chia làm 2 địa điểm nằm lần lượt trên đường Phạm Phú Thứ và Nguyễn Xí. Từ năm 2021, cơ sở TP.HCM chính thức chuyển về số 20 Cộng Hòa, phường 12, quận Tân Bình, TP.HCM.
Sáng ngày 18/3/2022, Greenwich Việt Nam tổ chức lễ cắt băng khai trương cơ sở mới tại TPHCM với sự tham gia của Tổng Lãnh sự Anh tại TPHCM Oliver Todd.
Greenwich Việt Nam - Cơ sở Đà Nẵng
Sau hơn 12 năm có mặt tại Việt Nam và 4 năm đến với thành phố Đà Nẵng, Greenwich Việt Nam đang vững bước trên con đường trở thành ngôi trường đại học quốc tế chất lượng toàn diện ở khu vực miền Trung.
Tiến sĩ Nguyễn Duy Nghiêm - Giám đốc Greenwich Việt Nam cơ sở Đà Nẵng chia sẻ: "Đà Nẵng nói riêng mà khu vực miền Trung nói chung là một trong những vùng có nhiều tiềm năng về kinh tế và tri thức. Học sinh miền Trung siêng năng, hiếu học, có tư duy tốt. Những phẩm chất này cần được nuôi dưỡng ở môi trường giáo dục chất lượng toàn diện để các em có thể phát triển năng lực nghề nghiệp và sở hữu lợi thế cạnh tranh toàn cầu."
"Đây chính là động lực quan trọng để Greenwich Việt Nam cơ sở Đà Nẵng nỗ lực từng ngày trở thành trung tâm đào tạo cử nhân quốc tế tại khu vực miền Trung."
Greenwich Việt Nam - Cơ sở Cần Thơ
Năm 2018, Greenwich Việt Nam chính thức có mặt tại Cần Thơ, trở thành đơn vị tiên phong trong tổ chức đào tạo chương trình đại học quốc tế tại Cần Thơ nói riêng và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Tại Greenwich Việt Nam – cơ sở Cần Thơ, học sinh, sinh viên miền Tây được thụ hưởng nền giáo dục chuẩn Anh Quốc với chi phí hợp lý. Sinh viên theo học tại Greenwich Việt Nam được công nhận là sinh viên chính quy tập trung của Trường Đại học FPT học theo chương trình liên kết với Đại học Greenwich.
Greenwich Innovation Centre
Bên cạnh 4 cơ sở đào tạo chương trình đại học quốc tế tại Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM và Cần Thơ, mới đây, Greenwich Việt Nam vừa thành lập thêm trung tâm khởi nghiệp sáng tạo và nghiên cứu khoa học.
Ngày 23/4/2022, Greenwich Việt Nam – đơn vị đào tạo chương trình cử nhân của Đại học Greenwich, Vương Quốc Anh tại Việt Nam vừa tổ chức lễ khai trương Trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và nghiên cứu khoa học Greenwich Innovation Centre tại Tòa nhà FPT, đường số 1, KCN An Đồn, Phường An Hải Bắc, Quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng.
Tham dự lễ khai trương có đại diện trường Đại học Greenwich, Vương quốc Anh, ban lãnh đạo Greenwich Việt Nam, đại diện Trung tâm Hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Đà Nẵng cùng các đại diện doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương trình đào tạo
Chương trình chuẩn bị tiếng Anh
Chương trình tiếng Anh Level 5 tại nước ngoài
Chương trình tiếng Anh học thuật
Chương trình tiếng Anh chuyên ngành
Chương trình cử nhân
Cử nhân Quản trị kinh doanh
Cử nhân quản trị kinh doanh
Cử nhân quản trị kinh doanh (Marketing)
Cử nhân quản trị kinh doanh (Kinh doanh quốc tế)
Cử nhân quản trị kinh doanh (Truyền thông và quan hệ công chúng)
Cử nhân quản trị kinh doanh (Sự kiện)
Cử nhân Công nghệ thông tin
Cử nhân công nghệ thông tin
Cử nhân công nghệ thông tin (Trí tuệ nhân tạo)
Cử nhân Đồ họa và Thiết kế kỹ thuật số
Năm 2022, Greenwich Việt Nam triển khai chương trình học bổng với tổng trị giá 130 tỷ đồng, chia làm nhiều suất học bổng giá trị từ 25 triệu đồng đến 100% học phí toàn chương trình.
Hoạt động đào tạo
Sinh viên Greenwich xác lập kỷ lục Việt Nam
"Change 2022" của Greenwich Việt Nam xác lập kỷ lục triển lãm do sinh viên tổ chức có số lượng tác phẩm đồ họa ứng dụng AR nhiều nhất, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam công bố.
Triển lãm “Change 2022” diễn ra từ ngày 4/6/2022, quy tụ gần 500 tác phẩm đồ họa, trong đó có 254 phiên bản tác phẩm đồ họa số tích hợp công nghệ thực tế ảo tăng cường (AR) do sinh viên Greenwich Việt Nam, ngành thiết kế đồ họa thực hiện ở các môn học chuyên ngành và đồ án tốt nghiệp. Đây là triển lãm thường niên, nằm trong chương trình đào tạo cử nhân ngành thiết kế đồ họa tại Greenwich Việt Nam. Sau quá trình tiếp nhận hồ sơ và xem xét kỹ lưỡng, tổ chức Kỷ lục Việt Nam trực thuộc Trung ương Hội Kỷ lục gia Việt Nam đã chính thức công bố và trao bằng xác lập kỷ lục cho đơn vị này khi sở hữu và tổ chức thành công triển lãm tác phẩm đồ họa ứng dụng công nghệ thực tế ảo tăng cường (Augmented Reality - AR) do sinh viên thực hiện có số lượng nhiều nhất Việt Nam.
Trại hè tại Đại học Greenwich, Anh Quốc - Greenwich Global Summer School
Vào ngày 30/7/2022, nhóm sinh viên Greenwich Việt Nam được tuyển chọn từ Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM và Cần Thơ đã bay sang London, Anh Quốc để tham gia khóa học mùa hè Global Greenwich Summer School do Đại học Greenwich, Anh Quốc tổ chức và đài thọ chi phí cho các sinh viên quốc tế.
Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có sinh viên Greenwich tham gia khóa học hè năm nay gồm: Hong Kong, Malaysia, Việt Nam, Hà Lan, Hy Lạp, Kenya, Ghana, Malawi và Bangladesh, Việt Nam là nước có số lượng sinh viên tham gia đông đảo nhất.
Chương trình được Đại học Greenwich tổ chức từ 31/7 – 8/8/2022 để kết nối sinh viên Greenwich trên toàn cầu, giúp sinh viên quốc tế có cơ hội trải nghiệm cuộc sống và văn hóa UK cũng như đời sống sinh viên ở trụ sở chính tại London, Anh.
Xem thêm
Danh sách trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
Danh sách trường đại học, học viện và cao đẳng tại Hà Nội
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ Greenwich Việt Nam
Trang chủ Đại học Greenwich
Trang đối tác quốc tế của Đại học Greenwich
Tập đoàn FPT
Tổ chức giáo dục FPT
University of Greenwich
Tổ chức dịch vụ giáo dục tại Việt Nam
|
3367283
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C6%B0%C6%A1ng%20s%C3%A0ng
|
Xương sàng
|
Xương sàng là một xương lẻ thuộc khối xương sọ ngăn cách khoang mũi và não. Xương này nằm tại trần của ổ mũi, giữa hai ổ mắt. Xương sàng có khối lượng nhẹ do cấu trúc dạng bọt biển. Đây là một trong những xương tạo nên ổ mắt.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Các xương đầu và cổ
|
2843178
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onthophagus%20binodulus
|
Onthophagus binodulus
|
Onthophagus binodulus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
B
|
2842246
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heliocopris%20tyrannus
|
Heliocopris tyrannus
|
Heliocopris tyrannus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
Heliocopris
|
2652471
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scopula%20plumbearia
|
Scopula plumbearia
|
Scopula plumbearia là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
P
|
3254687
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Higashi-Hiroshima
|
Ga Higashi-Hiroshima
|
là một ga đường sắt trên tuyến Sanyo Shinkansen ở Higashihiroshima, Hiroshima, Nhật Bản, do West Japan Railway Company (JR West) vận hành.
Tuyến
Ga Higashi-Hiroshima phục vụ tuyến Sanyo Shinkansen từ ở phía đông đến ở phía tây.
Các ga lân cận
Tham khảo
Liên kết ngoài
JR West station information
Ga đường sắt ở Hiroshima
Sanyō Shinkansen
Nhà ga mở cửa vào 1988
|
19611746
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Ba%20l%C3%BD%20Azerbaijan
|
Địa lý Azerbaijan
|
Azerbaijan là quốc gia ở vùng Kavkaz, điểm cầu nối giữa châu Âu và Tây Á. Địa lý Azerbaijan có ba đặc điểm chính: Biển Caspi tạo thành ranh giới tự nhiên ở phía đông; dãy núi Đại Kavkaz ở phía bắc; trong khi trung tâm đất nước là vùng đất bằng rộng lớn. Tổng diện tích đất liền của Azerbaijan là 86.600 km vuông, ít hơn 1% diện tích đất liền của Liên Xô cũ. Trong số ba quốc gia ngoại Kavkaz, Azerbaijan là nước có diện tích đất liền lớn nhất. Azerbaijan có hai đơn vị hành chính đặc biệt là Cộng hòa tự trị Nakhchivan – bị Armenia ngăn cách với phần còn lại của đất nước, và Khu tự trị Nagorno-Karabakh, nằm hoàn toàn trong Azerbaijan. Nagorno-Karabakh hiện là vùng lãnh thổ đang tranh chấp với Armenia.
Azerbaijan tọa lạc ở phía nam dãy Kavkaz. Nước này giáp biển Caspi về phía đông, Gruzia và Nga về phía bắc, Iran về phía nam, và Armenia về phía tây nam và tây. Một phần Nakhchivan giáp với Thổ Nhĩ Kỳ về phía tây bắc. Baku là thủ đô của Azerbaijan. Đây đồng thời là bến cảng lớn nhất trên biển Caspi và từ lâu đã trở thành trung tâm của ngành công nghiệp dầu mỏ Azerbaijan.
Lãnh thổ và biên giới
Diện tích
Tổng: 86.600 km² – hạng: 113
Đất: 82.629 km²
Nước: 3.971 km²
Ghi chú: Bao gồm cả Cộng hòa tự trị Nakhchivan và khu Nagorno-Karabakh; Xô viết tối cao Azerbaijan vào ngày 26 tháng 11 năm 1991 đã hủy bỏ quyền tự trị của Nagorno-Karabakh.
So sánh diện tích
Úc: lớn hơn Tasmania
Canada: lớn hơn New Brunswick
Anh Quốc: lớn hơn một chút so với Scotland
Hoa Kỳ: nhỏ hơn một chút so với Maine
EU: nhỏ hơn một chút so với Bồ Đào Nha
Đường biên giới
Tổng: 2.468 km
Giáp với: Armenia (với lãnh thổ chính Azerbaijan) 566 km, Armenia (với lãnh thổ tách rời Nakhchivan) 221 km, Gruzia 428 km, Iran (với lãnh thổ chính Azerbaijan) 432 km, Iran (với lãnh thổ tách rời Nakhchivan) 700 km, Nga 338 km, Thổ Nhĩ Kỳ 17 km
Đường bờ biển
Gần như nội lục, nhưng có bờ dài 713 km với Biển Caspi.
Yêu sách biển
Không
Địa hình
vùng đất bằng rộng lớn (phần lớn nằm dưới mực nước biển) với dãy Đại Kavkaz ở phía bắc, vùng núi cao ở phía tây
Độ cao cực trị
Điểm thấp nhất: Biển Caspi –28 m
Điểm cao nhất: Bazarduzu Dagi 4.485 m (nằm trên biên giới với Nga)
Điểm cao nhất nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Azerbaijan: Shah Dagi 4.243 m
Đảo
Tài nguyên và sử dụng đất
Tài nguyên thiên nhiên
Dầu mỏ, khí tự nhiên, quặng sắt, kim loại màu, bô xít
Đất sử dụng
Đất canh tác: 22,95%
Đất trồng thường xuyên: 2,79%
Khác: 74,26% (ước tính năm 2012)
Đất thủy lợi
14.250 km² (2010)
Tổng tài nguyên nước có thể tái tạo
34,68 km³ (2011)
Sử dụng nước ngọt (hộ gia đình/công nghiệp/nông nghiệp)
Tổng: 12,21 km³/năm (4%/18%/78%)
Bình quân: 1.384 m³/năm (2010)
Tham khảo
Tài liệu tham khảo chính
Liên kết ngoài
Địa lý Azerbaijan
|
2920104
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calyptra%20sodalis
|
Calyptra sodalis
|
Calyptra sodalis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Calyptra
|
2569421
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phaedinus%20abnormalis
|
Phaedinus abnormalis
|
Phaedinus abnormalis là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Phaedinus
|
2904953
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acanthodelta%20caeruleoalba
|
Acanthodelta caeruleoalba
|
Acanthodelta caeruleoalba là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Acanthodelta
|
16078951
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u%20t%C3%ACnh%20Iraq%202019
|
Biểu tình Iraq 2019
|
Các cuộc biểu tình ở Iraq năm 2019, còn có biệt danh là Cuộc cách mạng Tishreen và Intifada Iraq năm 2019, là một loạt các cuộc biểu tình đang diễn ra bao gồm các cuộc biểu tình, tuần hành, biểu tình ngồi và bất tuân dân sự. Họ bắt đầu vào ngày 1 tháng 10 năm 2019, một ngày được các nhà hoạt động dân sự thiết lập trên phương tiện truyền thông xã hội, lan rộng khắp các tỉnh miền trung và miền nam Iraq, để phản đối 16 năm tham nhũng, thất nghiệp và các dịch vụ công không hiệu quả, trước khi họ leo thang kêu gọi lật đổ chính quyền và ngăn chặn sự can thiệp của Iran vào Iraq. Chính phủ Iraq đã bị cáo buộc sử dụng đạn, bắn tỉa, nước nóng và hơi cay chống lại người biểu tình. Các cuộc biểu tình đã dừng lại vào ngày 8 tháng 10 và được nối lại vào ngày 24 tháng 10. Thủ tướng Adil Abdul-Mahdi tuyên bố vào ngày 29 tháng 11 rằng ông sẽ từ chức. Theo BBC, họ kêu gọi chấm dứt hệ thống chính trị tồn tại kể từ cuộc xâm lược do Hoa Kỳ lãnh đạo đã lật đổ Saddam Hussein và đã bị đánh dấu bởi sự chia rẽ bè phái. Đây là tình trạng bất ổn lớn nhất kể từ khi chính quyền Saddam Hussein chấm dứt.
Tham khảo
Iraq năm 2019
Biểu tình năm 2019
|
2644207
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Prasinocyma%20delicata
|
Prasinocyma delicata
|
Prasinocyma delicata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Prasinocyma
|
13827856
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Artyom%20Molodtsov
|
Artyom Molodtsov
|
Artyom Igorevich Molodtsov (; sinh ngày 8 tháng 10 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Nga. Anh thi đấu cho FC Fakel Voronezh.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Anh ra mắt chuyên nghiệp tại Russian Second Division năm 2007 cho F.K. Saturn Yegoryevsk.
Molodtsov ra mắt chuyên nghiệp cho F.K. Saturn Moskva Oblast vào ngày 14 tháng 7 năm 2010 trong trận đấu tại Cúp quốc gia Nga trước FC Sakhalin Yuzhno-Sakhalinsk.
Liên kết ngoài
Profile by RFPL
Tham khảo
Sinh năm 1990
Người Saratov
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Nga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Nga
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá F.K. Saturn Ramenskoye
Cầu thủ bóng đá FC Amkar Perm
Cầu thủ bóng đá F.K. Torpedo Moskva
Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga
Cầu thủ bóng đá F.K. Shinnik Yaroslavl
Cầu thủ bóng đá F.K. Sokol Saratov
Cầu thủ bóng đá FC Sakhalin Yuzhno-Sakhalinsk
Cầu thủ bóng đá F.K. Mordovia Saransk
Cầu thủ bóng đá FC Fakel Voronezh
|
2752629
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ceromya%20xanthosoma
|
Ceromya xanthosoma
|
Ceromya xanthosoma là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ceromya
|
2913828
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Argyrogramma%20misantlae
|
Argyrogramma misantlae
|
Argyrogramma misantlae là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Argyrogramma
|
13735768
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3i%20c%C3%A1ch%20ti%E1%BB%81n%20l%C6%B0%C6%A1ng%20%E1%BB%9F%20Li%C3%AAn%20X%C3%B4%2C%201956%E2%80%931962
|
Cải cách tiền lương ở Liên Xô, 1956–1962
|
Trong thời kỳ của Khrushchev, đặc biệt từ năm 1956 đến 1962, Liên Xô đã cố gắng thực hiện các cải cách lớn về tiền lương nhằm thay đổi tư duy của người lao động công nghiệp Liên Xô khỏi tư duy vượt quá chỉ tiêu đã đặc trưng cho nền kinh tế Liên Xô trong thời kỳ Stalin và hướng tới một hệ thống khuyến khích tài chính hiệu quả hơn.
Bối cảnh
Hệ Thống
Trong thời kỳ Stalin, Liên Xô đã cố gắng đạt được tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng cường sản xuất công nghiệp. Vào năm 1927-1928, tổng sản xuất của các hàng hóa của Liên Xô đạt 6 tỷ rúp, nhưng đến năm 1932, sản xuất hàng năm đã tăng lên 23.1 tỷ rúp. Nhà máy và doanh nghiệp công nghiệp được khuyến khích tích cực "đạt được mọi giá", với sự nhấn mạnh mạnh mẽ đặt vào việc vượt quá các mục tiêu đã nêu ra để sản xuất càng nhiều càng tốt. Ví dụ, khẩu hiệu cho Kế hoạch Năm Năm đầu tiên, "Kế hoạch Năm Năm trong Bốn Năm!", kêu gọi người lao động hoàn thành các mục tiêu của nhà nước sớm hơn dự kiến một năm.
Sản xuất cấp bách và vội vã rất phổ biến trong công nghiệp Liên Xô, và đặc biệt là quá trình được gọi là "storming" (tiếng Nga: штурмовщина, phát âm là shturmovshchina) đã lây lan rộng rãi; điều này liên quan đến các chương trình khẩn cấp trong đó nhà máy cố gắng thực hiện toàn bộ chỉ tiêu sản xuất hàng tháng của họ trong một khoảng thời gian rất ngắn. Điều này thường là kết quả của thiếu hụt nguyên liệu công nghiệp khiến nhà máy không có nguồn lực để hoàn thành sản xuất cho đến khi hàng tồn kho mới đến vào cuối tháng. Các công nhân sau đó làm việc càng nhiều giờ càng tốt để đáp ứng mục tiêu sản xuất hàng tháng đúng thời hạn; điều này làm cho họ kiệt sức và không thể làm việc vào đầu tháng sau (mặc dù việc thiếu hụt nguyên liệu khiến cho lúc này họ cũng không có gì để sản xuất).
Nhằm khuyến khích các công nhân làm việc chăm chỉ và sản xuất càng nhiều càng tốt, hầu hết người lao động ở Liên Xô được trả tiền theo hệ thống tính theo số lượng sản phẩm hoàn thành; mức lương của họ phụ thuộc vào mức công việc họ thực hiện cá nhân. Người lao động Liên Xô được giao chỉ tiêu cá nhân cho số lượng công việc họ nên hoàn thành và họ sẽ nhận được mức lương cơ bản (stavka) nếu hoàn thành đúng 100% chỉ tiêu của họ. Mức lương cho công việc sẽ tăng khi sản xuất vượt quá mức này. Nếu một công nhân sản xuất 120% của chỉ tiêu cá nhân của mình trong tháng (ví dụ, nếu anh ta nên sản xuất 1.000 sản phẩm, nhưng thực tế sản xuất 1.200) thì anh ta sẽ nhận được mức lương cơ bản cho 100% đầu tiên, một mức lương cao hơn cho 10% đầu tiên của sự vượt quá và một mức lương cao hơn nữa cho 10% tiếp theo. Các nhà chức trách Liên Xô hy vọng điều này sẽ khuyến khích tinh thần Stakhanovite, tức là vượt quá chỉ tiêu, trong số lực lao động Liên Xô. Vào năm 1956, khoảng 75% người lao động Liên Xô được trả tiền dựa trên hệ thống tính theo số lượng sản phẩm hoàn thành, do đó, đa số người lao động Liên Xô có thể tăng đáng kể thu nhập của họ bằng cách tăng sản lượng sản phẩm.
Tỷ lệ lương trung bình ở Liên Xô được công bố khá ít thường xuyên. Một số học giả ở phương Tây tin rằng điều này là do chính phủ Liên Xô muốn che giấu mức thu nhập trung bình thấp. Alec Nove viết vào năm 1966 (khi số liệu về tiền lương được công bố lần đầu tiên kể từ Thế chiến thứ hai) rằng việc không minh bạch về lương trung bình nhằm ngăn người lao động Liên Xô khám phá ra sự chênh lệch lớn tồn tại giữa các mức lương trong các ngành kinh tế Liên Xô khác nhau.
Tham Khảo
Lịch sử kinh tế thập niên 1950
Lịch sử kinh tế thập niên 1960
Phi Stalin hóa
|
13818759
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dibyo%20Previan%20Caesario
|
Dibyo Previan Caesario
|
Dibyo Previan Caesario (4 tháng 6 năm 1992 – 30 tháng 5 năm 2017) là một cầu thủ bóng đá người Indonesia. Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho Persita Tangerang ở Indonesia Super League.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Anh ghi bàn đầu tiên trong thất bại 2–1 trước Persib Bandung vào ngày 31 tháng 8 năm 2014.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile at ligaindonesia.co.id
Profile at goal.com
Sinh năm 1992
Mất năm 2017
Cầu thủ bóng đá nam Indonesia
|
2941004
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ovios%20nealces
|
Ovios nealces
|
Ovios nealces là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ovios
|
2769171
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thelymorpha%20marmorata
|
Thelymorpha marmorata
|
Thelymorpha marmorata là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Thelymorpha
|
3525479
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20n%E1%BB%AF%20U-17%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202015
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ U-17 châu Âu 2015
|
Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ U-17 châu Âu 2015 diễn ra từ tháng 9 năm 2014 tới tháng 4 năm 2015 nhằm xác định bảy đội tuyển dự vòng chung kết cùng chủ nhà Iceland. Có tổng cộng 43 đội tuyển thuộc UEFA tham dự vòng loại.
Giải đấu vòng loại gồm hai vòng.
Vòng một
Các đội Pháp, Đức và Tây Ban Nha được đặc cách vào thẳng vòng hai. 40 đội còn lại được chia làm 10 bảng, chọn ra 21 đội (10 đội nhất, 10 đội nhì và 1 đội thứ ba xuất sắc nhất) lọt vào vòng hai.
Giờ thi đấu từ ngày 25 tháng 10 năm 2014 trở về trước là CEST (UTC+2), còn về sau là giờ CET (UTC+1).
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Bảng 7
Bảng 8
Tám bàn thắng của Signe Bruun trong trận gặp Kazakhstan cân bằng kỷ lục của Vivianne Miedema cũng trước Kazakhstan vào năm 2012.
Bảng 9
Bảng 10
Xếp hạng đội thứ ba
Chỉ các trận đấu với đội nhất bảng và nhì bảng mới được sử dụng để xác định thứ hạng.
Vòng hai
Hai mươi tư đội được chia thành sáu bảng, chọn ra bảy đội (6 đội nhất và đội nhì xuất sắc nhất) lọt vào vòng chung kết.
Thời gian thi đấu từ ngày 28 tháng 3 năm 2015 trở về trước là CET (UTC+1), trở về sau là CEST (UTC+2).
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Xếp hạng đội nhì bảng
Chỉ các trận đấu với đội nhất bảng và thứ ba mới được sử dụng để xác định thứ hạng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
UEFA.com
Kết quả trên RSSSF.com
2015
UEFA
UEFA
Thể thao trẻ năm 2014
Thể thao trẻ năm 2015
|
3239481
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4i%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ma%20qu%C3%A1i
|
Ngôi trường ma quái
|
Ngôi trường ma quái () là một bộ phim kinh dị ra mắt năm 2015 do Lee Hae-young làm đạo diễn với sự tham gia của Park Bo-young và Uhm Ji-won.
Nội dung
Cha Ju Ran bị bệnh lao và thể trạng yếu ớt, cô bị mẹ kế bắt phải chuyển vào sống ở trường nội trú. Tại ngôi trường kì quái này, Ju Ran đã trải qua quãng thời gian vô cùng khó khăn để thích ứng vì bị bạn cùng trường xa lánh. Hong Yeon Deok và cô hiệu trưởng là những người duy nhất chịu tiếp xúc với Ju Ran. Dần dần Ju Ran bắt đầu chơi thân với Yeon Deok, cô luôn mơ về ngày cả hai được cử đi Tokyo, chuyến đi chỉ dành cho những người khỏe nhất. Tuy nhiên, lần lượt những học sinh trong trường đột nhiên mất tích một cách bí ẩn sau khi có những biểu hiện rất kỳ lạ. Ju Ran là người duy nhất có thể nhìn thấy những người bị mất tích và Hong Yeon Deok tin cô. Một đêm, cả hai cùng lẻn vào phòng của cô hiệu trưởng để tìm nhật ký các bạn bị mất tích xem có manh mối gì không. Tại đây, hai cô bé đã phát hiện ra một bí mật kinh hoàng: ngôi trường này thực chất là một trại thí nghiệm quân nhân siêu năng mà vật thử thuốc tốt nhất là các thiếu nữ chưa thành niên. Cha Ju Ran cùng Hong Yeon Deok bỏ trốn nhưng Cha Ju Ran bị bắt lại và đưa lên bàn mổ. Lúc này, quân đội Nhật không tin vào các thí nghiệm của cô hiệu trưởng nữa nên bãi nhiệm cô và yêu cầu hủy bỏ toàn bộ công trình nghiên cứu. Cha Ju Ran nhân cơ hội này tỉnh dậy và phát hiện Hong Yeon Deok quay lại cứu cô và bị dìm chết trong bể nước phòng thí nghiệm. Tức giận trước cái chết của bạn, Cha Ju Ran bộc phát sức mạnh giết cô hiệu trưởng cũng như quân Nhật để trả thù. Phim kết thúc bằng cảnh Cha Ju Ran ôm xác Hong Yeon Deok trong phòng thí nghiệm lúc này đã đóng thành băng.
Phân vai
Park Bo-young vai Cha Ju-ran
Uhm Ji-won vai Headmistress
Park So-dam vai Yeon-deok
Kong Ye-ji vai Yuka
Joo Bo-bi vai Kihira
Shim Hee-seop vai Kenji
Park Seong-yeon vai Life teacher
Ko Won-hee vai Shizuko
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim Hàn Quốc
Phim kinh dị Hàn Quốc
Phim năm 2015
Phim tiếng Triều Tiên
|
11316713
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kenneth%20Branagh
|
Kenneth Branagh
|
Sir Kenneth Charles Branagh (; sinh ngày 10 tháng 12 năm 1959) là một diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất và nhà biên kịch người Bắc Ireland sinh ra ở Belfast. Branagh được đào tạo tại Học viện Nghệ thuật Sân khấu Hoàng gia ở Luân Đôn, và vào năm 2015 đã kế tục Richard Attenborough làm Chủ tịch của nó. Ông đã đạo diễn hoặc đóng vai chính trong một số bộ phim chuyển thể của William Shakespeare, bao gồm Henry V (mà ông được đề cử cho Giải Oscar) cho giải Oscar cho Nam diễn viên xuất sắc nhất và giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất và đạo diễn xuất sắc nhất, Much Ado About Nothing (1993), Othello (1995), Hamlet (1996)(mà ông đã được đề cử cho Học viện cho Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất), Love's Labour's Lost (2000), và As You Like It (2006).
Branagh cũng đóng vai chính trong nhiều bộ phim truyền hình khác bao gồm Fortunes of War (1987), Woody Allen's Celebrity (1998), Wild Wild West (1999), The Road to El Dorado (2000), Conspiracy (2001), Harry Potter and the Chamber of Secrets (2002), Warm Springs (2005), vai thiếu tướng Henning von Tresckow in Valkyrie (2008), The Boat That Rocked (2009), Wallander (2008–2016), My Week with Marilyn (2011) trong vai Sir Laurence Olivier (Giải thưởng Viện hàn lâm) được đề cử cho Giải Oscar cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, và trong vai Royal Navy Commander Bolton trong phim hành động Dunkirk (2017). Ông đã đạo diễn những bộ phim nổi tiếng như Dead Again (1991), trong đó ông cũng đóng vai chính, Swan Song (1992) (Academy Award được đề cử cho Phim ngắn ngắn hay nhất, Mary Shelley's Frankenstein (1994) trong đó ông diễn chính, The Magic Flute (2006), Sleuth (2007), phim bom tấn siêu anh hùng Thor (2011), phim hành động Jack Ryan: Shadow Recruit (2014) trong đó ông cũng đồng diễn viên chính Cinderella (2015) của Walt Disney, và diễn vai thám tử lừng danh Hercule Poirot trong tác phẩm của Agatha Christie chuyển thể thành phim Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (2017) và Án mạng trên sông Nile (2022).
Ông cũng tường thuật trong các bộ phim tài liệu của BBC Walking with Dinosaurs (đóng vai chính vào năm 1999) (cũng như The Ballad of Big Al), Walking with Beasts (2001) và Walking with Monsters (2005). Branagh đã được đề cử cho năm giải thưởng của Viện Hàn lâm, năm Quả cầu vàng, và đã giành được ba BAFTA, và một Emmy. Ông được phong tước hiệp sỹ vào dịp sinh nhật năm 2012 và được phong tước vào ngày 9 tháng 11 năm 2012.
Tiểu sử
Branagh sinh ra trong gia đình có ba người con, được sinh ra ở Belfast, con trai của Frances (nhũ danh Harper) và William Branagh, một người thợ sửa ống nước và người thợ mộc, người điều hành một công ty chuyên lắp ghép và trần treo. Năm 9 tuổi, anh chuyển đến Reading, Berkshire, Anh, để thoát khỏi the Troubles. Ông được giáo dục tại Trường tiểu học Grove, Trường Tiểu học Whiteknights, sau đó là Trường Trung học Meadway, Tilehurst, nơi ông diễn xuất trong các tác phẩm của trường như Toad of Toad Hall và Oh, What a Lovely War!. Ở trường, anh đã nhận được Received Pronunciation để tránh bị bắt nạt. Trên danh tính của mình ngày hôm nay, ông đã nói, "Tôi cảm thấy Ireland. Tôi không nghĩ rằng bạn có thể đưa Belfast ra khỏi cậu bé này", và ông cho rằng "tình yêu của ông về ngôn từ" đối với di sản của ông Ailen. Ông được biết là đã tham dự Hội đọc sách và điện ảnh (nghiệp dư) của Reading và bây giờ là một thành viên của Progress Theatre và bây giờ ông là người bảo trợ. Branagh tiếp tục đào tạo tại Học viện Nghệ thuật Sân khấu Hoàng gia ở Luân Đôn.
Tham khảo
Sinh năm 1960
Nhân vật còn sống
Cựu sinh viên Học viện Nghệ thuật Sân khấu Hoàng gia
Người giành giải BAFTA cho Đạo diễn xuất sắc nhất
Đạo diễn phim tiếng Anh
Người đoạt giải Primetime Emmy
|
19551641
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20%C3%9Ac%20M%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng%202021%20-%20%C4%90%C6%A1n%20xe%20l%C4%83n%20quad
|
Giải quần vợt Úc Mở rộng 2021 - Đơn xe lăn quad
|
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Grand Slam, nội dung đơn xe lăn quad tăng từ 4 lên thành 8 tay vợt.
Dylan Alcott là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, giành chức vô địch thứ 7 liên tiếp, đánh bại Sam Schröder trong trận chung kết, 6–1, 6–0.
Hạt giống
Kết quả
Chung kết
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kết quả trên ausopen.com
Giải quần vợt Úc Mở rộng 2021
Giải quần vợt Úc Mở rộng, Đơn xe lăn quad 2021
|
2581368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chionaema%20klapperichi
|
Chionaema klapperichi
|
Chionaema klapperichi là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chionaema
|
19532568
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u%20K%E1%BA%BF%20Nguy%C3%AAn
|
Lưu Kế Nguyên
|
Lưu Kế Nguyên (chữ Hán:劉繼元,? - 992), là người cai trị cuối cùng của vương quốc Bắc Hán của Trung Quốc trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Ông là cháu trai của Lưu Minh. Ông cai trị Bắc Hán từ năm 968 đến năm 979, khi ông đầu hàng quân Tống dưới quyền của Hoàng đế Tống Thái Tông.
Lưu Kế Nguyên tự xưng là người kế tục hợp pháp của Nhà Bắc Hán (đôi khi gọi là Đông Hán) ở Sơn Tây, căn cứ quyền lực truyền nối nhiều đời của tộc Sa Đà.
Quan hệ với láng giềng
Vương quốc này nằm kẹp giữa hai nước lớn mạnh hơn là nhà Tống về phía nam và nhà Liêu của người Khiết Đan về phía bắc. Lưu Kế Nguyên đã thiết lập quan hệ truyền thống với Khiết Đan, nước bảo hộ cho Bắc Hán, do đó khiến Bắc Hán tồn tại lâu hơn bất kỳ vương quốc nào khác trong 10 nước thời Ngũ Đại.
đến năm 979, khi ông đầu hàng quân Tống dưới quyền của Hoàng đế Tống Thái Tông, Bắc Hán Được sát nhập vào Đại Tống.
Vua Bắc Hán
Các vua Bắc Hán
Tham khảo
Mất năm 992
Vua Bắc Hán
Hậu Hán
|
2571646
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Psapharochrus%20nigromaculatus
|
Psapharochrus nigromaculatus
|
Psapharochrus nigromaculatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Psapharochrus
|
15476270
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Robert%20Charroux
|
Robert Charroux
|
Robert Charroux là bút danh nổi tiếng nhất của Robert Joseph Grugeau (7 tháng 4 năm 1909 – 24 tháng 6 năm 1978). Ông là một tác giả người Pháp được biết đến với các tác phẩm viết về chủ đề phi hành gia cổ đại.
Nghề nghiệp
Charroux làm việc cho bưu điện Pháp và đã viết tám tác phẩm hư cấu trong khoảng thời gian 1942-1946 bằng bút danh Saint-Saviol. Ông cũng đã viết kịch bản cho mục truyện tranh của Pháp, Atomas, về một siêu anh hùng hoạt động bằng năng lượng nguyên tử, xuất hiện trên tạp chí hàng tuần Mon Journal vào cuối những năm 1940. Đối với cùng một tạp chí Charroux đã viết một cuộc phiêu lưu khoa học viễn tưởng dưới dạng truyện đăng dài kỳ, Prof. Barthelemy's Flying Island (Đảo bay của Giáo sư Barthelemy). Đầu tiên ông bắt đầu sử dụng bút danh Charroux vào năm 1942, đó trở thành bút danh thông thường của ông từ năm 1962 trở đi.
Robert Charroux kết hôn với Yvette Bernuchot vào tháng 4 năm 1930. Họ sinh sống ở rue St Sulpice tại Paris vào cuối những năm 1950.
Năm 1976, ông bắt đầu thực hiện kế hoạch được chôn cất tại nghĩa trang vùng Charroux.
Nhà du hành vũ trụ cổ
Charroux là người tiên phong của lý thuyết về các phi hành gia cổ đại, xuất bản ít nhất sáu tác phẩm phi hư cấu trong thể loại này trong thập kỷ cuối cùng của cuộc đời ông, bao gồm One Hundred Thousand Years of Man's Unknown History (Một trăm ngàn năm lịch sử chưa được biết đến của loài người, 1963, 1970), Forgotten Worlds (Thế giới bị lãng quên, 1973), Masters of the World (Chúa tể thế giới, 1974), The Gods Unknown (Những vị thần vô danh, 1974) và Legacy of the Gods (Di sản của các vị thần, 1974).
Ảnh hưởng đến tác phẩm đầu tiên của Charroux (trong phiên bản năm 1963) dựa trên những cuốn sách đầu tiên của Erich von Däniken (khoảng 1966), cũng như ảnh hưởng của những cuốn sách đầu tiên của Von Däniken đối với Charroux, nhưng dường như Von Däniken đã được đánh giá cao không kém phần quen thuộc với một tác phẩm trước đó của Pháp, The Morning of the Magicians (Buổi sáng của các Pháp sư) của Louis Pauwels và Jacques Bergier (1960), có khả năng là nguồn cảm hứng trực tiếp cho cả Charroux và Von Däniken. Nhà xuất bản của Charroux đã liên lạc với Von Däniken vào tháng 3 năm 1968 liên quan đến bằng chứng đạo văn, với kết quả là các bản in sau đó của Chariots of the Gods (Cỗ xe của các vị thần) và Return to the Stars (Trở về các vì sao) ít nhất đã đề cập đến Charroux trong thư mục tham khảo.
Các lý thuyết của Charroux liên quan đến các phi hành gia cổ đại đã bị nhà khảo cổ học người Pháp Jean-Pierre Adam chỉ trích vào năm 1975. Các tác phẩm của ông đều được mô tả là giả lịch sử.
Quan điểm khác
Một số người xem các tác phẩm của ông là ví dụ về chủ nghĩa Celt. Chủ nghĩa Celt, tương tự như chủ nghĩa Bắc Âu, là một phong trào dân tộc phổ biến ở Pháp và các nước Celt vào đầu thế kỷ 20. Ông đề nghị trong cuốn sách Lost Worlds: Scientific Secrets of the Ancients (Thế giới đã mất: Bí mật khoa học của người xưa), rằng người Maya và người Peru cổ đại là dân di cư Celt cổ đại. Theo Charroux, nến Paracas và những hình vẽ trên cao nguyên Nazca được tạo ra bởi một nền văn minh tiền Celt, có lẽ giống như những người đã tạo ra hình vẽ Người khổng lồ ở Wilmington tại Sussex nước Anh. Ông cũng liên quan đến các vị thần da trắng được đề cập trong Popul Vuh để chỉ người Celt cổ xuất xứ từ lục địa Hyperborea.
Viết trong cuốn Lost Worlds Charroux đã từ chối thuyết tiến hóa, thay vào đó, ông lập luận cho sự thoái hóa của con người. Charroux tuyên bố rằng nhân loại đang thụt lùi và vượt trội trong quá khứ; ông tuyên bố rằng "Atlantis và Mu không phải là giấc mơ của các nhà tâm linh, mà là thực tế của một kỷ nguyên bí ẩn". Ông giải thích thêm rằng người Atlantis và người Hyperborea là tổ tiên của người hiện đại, và những người đầu tiên trên Trái Đất ban đầu đều là những cư dân có nguồn gốc ngoài hành tinh.
Không giống như hầu hết các nhà văn theo thuyết phi hành gia cổ đại, Charroux rất quan tâm đến chủ nghĩa chủng tộc. Theo Charroux, Hyperborea nằm giữa Iceland và Greenland và là quê nhà của một chủng tộc da trắng Bắc Âu với mái tóc vàng và đôi mắt xanh. Charroux tuyên bố rằng chủng tộc này có nguồn gốc ngoài Trái Đất và ban đầu đến từ một hành tinh lạnh giá nằm cách xa Mặt Trời. Charroux cũng xác nhận rằng người da trắng thuộc chủng Hyperborea và tổ tiên của họ, người Celt đã thống trị toàn thế giới trong quá khứ cổ đại. Một số trong những niềm tin này đã ảnh hưởng đến chủ nghĩa phát xít bí truyền như tác phẩm của Miguel Serrano.
Rennes-le-Château
Robert Charroux đã phát triển mối quan tâm tích cực đối với kho báu được cho là của Rennes-le-Château, sau những tuyên bố của Noel Corbu trên báo chí địa phương vào năm 1956 rằng nó được phát hiện bởi Bérenger Saunière vào cuối thế kỷ 19. Năm 1958, cùng với vợ Yvette và Denise Carvenne, thành viên của Câu lạc bộ Tìm kiếm Kho báu (mà ông thành lập năm 1951), ông đã mò mẫm ngôi làng và nhà thờ của nó để tìm kho báu bằng máy dò kim loại. Charroux cũng đã phân phát một tờ rơi về điều này mang tên L’ébouriffante histoire du "curé aux milliards" không tồn tại, nhưng được nhắc đến trên các tờ báo của Pháp thời kỳ này. Ông đã mô tả các hoạt động của mình ở đó trong cuốn sách năm 1962 mang tên Trésors du Monde enterrées, emmurés, engloutis (Fayard) được xuất bản bằng tiếng Anh năm 1967.
Ấn phẩm
One Hundred Thousand Years Of Man’s Unknown History (1963) (bản dịch tiếng Anh 1970)
Treasures Of The World (1967)
The Mysterious Unknown (1972)
Lost Worlds: Scientific Secrets of The Ancients and Their Warning For Our Time (1973)
The Mysterious Past (1974)
Legacy Of The Gods (1974)
The Mysteries Of The Andes (1976)
Masters Of The World: Groundbreaking New Revelations About The Ancient Astronauts (1979)
Tham khảo
Sinh năm 1909
Mất năm 1978
Người đề xướng nhà du hành vũ trụ cổ
Người đề xướng Atlantis
Nhà văn Fortean
Nhà phê bình văn học Pháp
Nhà văn khoa học viễn tưởng Pháp
Nhà giả khảo cổ học
Nhà giả sử học
Tiểu thuyết gia Pháp thế kỷ 20
Nhà văn nam Pháp thế kỷ 20
Tiểu thuyết gia Pháp
Nhà văn nam phi hư cấu Pháp
Nhà văn truyện tranh Pháp
|
15125632
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mbolatiana%20Ramanisa
|
Mbolatiana Ramanisa
|
Mbolatiana Ramanisa (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1982) là một cựu vận động viên bơi lội Malagasy, chuyên về các sự kiện tự do chạy nước rút. Ramanisa thi đấu cho Madagascar ở nội dung 50 mét tự do nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2000 ở Sydney. Cô đã nhận được một vé từ FINA, theo chương trình Đại học, trong thời gian nhập cảnh là 28,54. Cô thách thức Bảy bơi lội khác trong nhiệt ba, bao gồm yêu thích hàng đầu của Nigeria Ngozi Monu và 15 tuổi Aruba của Roshendra Vrolijk. Cô mờ dần xuống đoạn đường với tốc độ đủ nhanh để đăng thời gian ở vị trí thứ năm là 29,20, chính xác là một giây sau nhà lãnh đạo Monu. Ramanisa đã thất bại khi không vào được bán kết, khi cô xếp 61 trong tổng số 74 vận động viên bơi lội trong các nội dung vòng loại.
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1982
|
2923015
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oxira%20breviuscula
|
Oxira breviuscula
|
Oxira breviuscula là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Oxira
|
19574609
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Saikhan%2C%20Bulgan
|
Saikhan, Bulgan
|
Saikhan (tiếng Mông Cổ: Сайхан, đẹp đẽ) là một sum của tỉnh Bulgan ở miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 3.747 người.
Địa lý
Sum có diện tích khoảng 2.800 km. Trung tâm sum, Khuremt, nằm cách tỉnh lỵ Bulgan 111 km và thủ đô Ulaanbaatar 420 km. Khu dân cư Saikhan-Ovoo nằm cách Khuremt 25 km về phía đông bắc.
Khí hậu
Saikhan có khí hậu thảo nguyên. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở khu vực này là 3 °C. Tháng ấm nhất là tháng 6, khi nhiệt độ trung bình là 22 °C và lạnh nhất là tháng 12, với -20 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 415 mm. Tháng nhiều mưa nhất là tháng 8, với lượng mưa trung bình 104 mm và khô nhất là tháng 1, với lượng mưa 1 mm.
Kinh tế
Sum có một trường học, bệnh viện, khu dịch vụ và nhà nghỉ.
Người nổi tiếng
Naidangiin Tüvshinbayar - vận động viên judo, người Mông Cổ đầu tiên giành được huy chương vàng tại Thế vận hội
Tham khảo
Sum của tỉnh Bulgan
|
2934136
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rothia%20simplex
|
Rothia simplex
|
Rothia simplex là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
S
Động vật được mô tả năm 1896
|
2589407
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Microhyle%20macularia
|
Microhyle macularia
|
Microhyle macularia là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Microhyle
|
19559046
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ABu%20%C4%91%E1%BA%A7u%20ti%C3%AAn
|
Mẫu đầu tiên
|
Mẫu đầu tiên, một mô hình, hay một sản phẩm được phát hành để xây dựng và thử nghiệm một khái niệm hoặc quá trình hoặc để hoạt động như một mẫu để học hỏi và nhân rộng. Nó là một thuật ngữ được sử dụng trong nhiều khía cạnh của hệ thống: quản lý thông tin, thiết kế, điện tử, phần mềm và lập trình. Một mẫu đầu tiên được thiết kế để thử nghiệm và nâng cao độ chính xác của một thiết kế mới bằng các hệ thống phân tích và người sử dụng. Việc tạo mẫu để cung cấp các thông số kỹ thuật cho một hệ thống thực tế, hệ thống làm việc chứ không phải là một hệ thống lý thuyết. Trong một số mô hình quy trình làm việc, tạo ra một mẫu đầu tiên là bước đi trung gian giữa sự chính thức hóa và sự đánh giá giá trị của một ý tưởng.
Trong hệ thống, mẫu đầu tiên như là một hệ thống con của hệ thống. Mẫu đầu tiên của hệ thống này có thể có nhiều hình thức, có thể là phác thảo trên giấy tờ hoặc trên máy tính. Mẫu đầu tiên có thể mô hình hóa được toàn bộ hệ thống hay chỉ là trên màn hình với những dữ liệu mẫu.
Mô hình mẫu đầu tiên
Mô hình mẫu đầu tiên là một phương pháp phát triển hệ thống trong đó một mô hình mẫu được xây dựng, kiểm tra, sau đó xây dựng lại nếu cần thiết cho đến khi đạt được một mô hình mẫu chấp nhận được, từ mô hình này, một hệ thống hoặc sản phẩm hoàn chỉnh có thể được phát triển.
Trong trường hợp không có thông tin chi tiết cho đầu vào của hệ thống, những yêu cầu cần xử lý, và những yêu cầu đầu ra, mô hình mẫu đầu tiên nên được sử dụng. Mô hình này tăng tính linh hoạt của quá trình phát triển bằng cách cho phép khách hàng tương tác và thử nghiệm với một đại diện của sản phẩm.
Chu trình của mô hình mẫu đầu tiên
Thu thập yêu cầu.
Nhà phát triển và khách hàng xác định những yêu cầu chung, tổng thể, đồng thời cần phải xác định được những yêu cầu cần nhiều sự đầu tư.
Một thiết kế nhanh được đưa ra, tập trung vào những thứ sẽ được hiển thị cho người sử dụng (khách hàng) chẳng hạn như định dạng đầu ra, đầu vào của chương trình…
Sử dụng những đoạn chương trình có sẵn hoặc tự viết để chèn vào phiên bản hiện tại.
Mẫu đầu tiên được đánh giá bởi khách hàng hoặc người sử dụng và nó được sử dụng để tinh chỉnh những yêu cầu cho phần mềm được phát triển.
Quá trình trên được lặp lại cho đến khi mẫu đầu tiên được tinh chỉnh thỏa mãn yêu cầu của người dùng.
Một mô hình mẫu đầu tiên thường thiếu khả năng hiển thị quá trình, đòi hỏi khả năng tạo mẫu nhanh, chỉ được áp dụng vào những hệ thống nhỏ hoặc trung bình, một phần của hệ thống lớn (như giao diện người dùng) hoặc những hệ thống có thời gian sống ngắn.
Dữ liệu mẫu
Dữ liệu mẫu hay mẫu đầu tiên dữ liệu là một dạng của mẫu thử nghiệm chức năng hoặc mẫu thử nghiệm đang hoạt động. Lý giải cho việc tạo ra nó thường là một sự chuyển đổi dữ liệu, tích hợp dữ liệu, và các nguyên liệu được sử dụng như là đầu vào là một thể của tất cả các dữ liệu có liên quan,thứ mà hiện hữu lúc bắt đầu của dự án.
Các mục tiêu của dữ liệu mẫu là để sản xuất:
Một bộ làm sạch dữ liệu và quy tắc chuyển đổi đã được xem xét để sản xuất dữ liệu, chúng đều phù hợp với mục đích.
Một tập dữ liệu là kết quả của những quy tắc được áp dụng cho các trường hợp của những dữ liệu thô có liên quan.
Để đạt được điều này, những kĩ sư tin học sử dụng một giao diện đồ họa tương tác phát triển và thực hiện chuyển đổi và làm sạch dữ liệu thô để sử dụng. Các dữ liệu kết quả sau đó được đánh giá và các quy tắc được cải tiến. Ngoài việc kiểm tra trực quan rõ ràng của các dữ liệu trên màn hình của kĩ sư tin học, các phương pháp đánh giá thông thường và sự chấp nhận tiếp cận là sử dụng phần mềm định hình dữ liệu, và sau đó chèn các dữ liệu kết quả vào một phiên bản thử nghiệm của ứng dụng mục tiêu và thử nghiệm việc sử dụng nó.
Xem thêm
Chứng minh khái niệm
Tạo mẫu nhanh
In 3D
Chú thích
Sản xuất và phát hành
Thiết kế công nghiệp
Mẫu đầu tiên
|
2916665
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Autophila%20myriospea
|
Autophila myriospea
|
Autophila myriospea là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Autophila
|
14200482
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Colin%20Marshall
|
Colin Marshall
|
Colin Marshall (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá người Scotland.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Colin Marshall đã từng chơi cho FC Machida Zelvia.
Thống kê câu lạc bộ
J.League
Tham khảo
Sinh năm 1984
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Scotland
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
Cầu thủ bóng đá FC Machida Zelvia
Cầu thủ bóng đá J2 League
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Nhật Bản
|
19657931
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erste%20Bank%20Open%202021
|
Erste Bank Open 2021
|
Erste Bank Open 2021 là một giải quần vợt nam thi đấu trên mặt sân cứng trong nhà. Đây là lần thứ 47 giải đấu được tổ chức, và là một phần của ATP Tour 500 trong ATP Tour 2021. Giải đấu diễn ra tại Wiener Stadthalle ở Vienna, Áo, từ ngày 25 đến ngày 31 tháng 10 năm 2021.
Nội dung đơn
Hạt giống
Bảng xếp hạng vào ngày 18 tháng 10 năm 2021
Vận động viên khác
Đặc cách:
Andy Murray
Lorenzo Musetti
Dennis Novak
Miễn đặc biệt:
Ričardas Berankis
Vượt qua vòng loại:
Kevin Anderson
Gianluca Mager
Alexei Popyrin
Frances Tiafoe
Thua cuộc may mắn:
Dominik Koepfer
Rút lui
Trước giải đấu
Cristian Garín → thay thế bởi Dominik Koepfer
Ugo Humbert → thay thế bởi Márton Fucsovics
Nội dung đôi
Hạt giống
Bảng xếp hạng vào ngày 18 tháng 10 năm 2021
Vận động viên khác
Đặc cách:
Feliciano López / Stefanos Tsitsipas
Oliver Marach / Philipp Oswald
Vượt qua vòng loại:
Alexander Erler / Lucas Miedler
Thua cuộc may mắn:
Sander Gillé / Dominik Koepfer
Rút lui
Trước giải đấu
Cristian Garín / Cameron Norrie → thay thế bởi Sander Gillé / Dominik Koepfer
Kevin Krawietz / Horia Tecău → thay thế bởi Lloyd Harris / Horia Tecău
Nhà vô địch
Đơn
Alexander Zverev đánh bại Frances Tiafoe, 7–5, 6–4
Đôi
Juan Sebastián Cabal / Robert Farah đánh bại Rajeev Ram / Joe Salisbury, 6–4, 6–2
Tham khảo
Liên kết ngoài
Erste Bank Open
Vienna Open
Erste Bank Open
|
13512483
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicollette%20Sheridan
|
Nicollette Sheridan
|
Nicollette Sheridan (sinh ngày 21 tháng 11 năm 1963) là một nữ diễn viên, biên kịch và nhà sản xuất phim người Anh.
Thời thơ ấu
Sự nghiệp
Đời tư
Danh sách phim
Điện ảnh
Truyền hình
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1963
Nữ diễn viên Anh thế kỷ 20
Nữ diễn viên Anh thế kỷ 21
Nữ diễn viên điện ảnh Anh
Nữ diễn viên truyền hình Anh
Nhân vật còn sống
Người ăn chay
|
2800665
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fitatsia%20ampingensis
|
Fitatsia ampingensis
|
Fitatsia ampingensis là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Fitatsia
|
15433480
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/NGC%20461
|
NGC 461
|
NGC 461 là một thiên hà xoắn ốc thuộc loại SAB (s) c nằm trong chòm sao Ngọc Phu. Nó được phát hiện vào ngày 25 tháng 9 năm 1834 bởi John Herschel. Nó được Dreyer mô tả là "khá sáng, tròn, dần dần sáng hơn một chút (có lẽ sai 1 °?). "
Tham khảo
Thiên hà xoắn ốc
Chòm sao Ngọc Phu
Thiên thể phát hiện năm 1834
Thiên thể NGC
Thiên hà xoắn ốc có thanh
|
3171221
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20%C4%91o%C3%A0n%20qu%C3%A2n%20s%E1%BB%91%206
|
Tập đoàn quân số 6
|
Tập đoàn quân số 6 là phiên hiệu của một số đại đơn vị cấp tập đoàn quân trong lịch sử quân sự thế giới như:
Đức
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Đức: 6. Armee bzw. Armeeoberkommando 6, viết tắt A.O.K. 6) của Đế quốc Đức, thành lập 1914, tan rã 1919.
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Đức: 6. Armee / Armeeoberkommando 6, viết tắt: AOK 6) của Đức Quốc xã, thành lập 1939, tan rã 1945.
Tập đoàn quân thiết giáp số 6 (tiếng Đức: 6. Panzerarmee / 6. (SS-) Panzerarmee / 6. SS-Panzerarmee) của Đức Quốc xã, thành lập 1944, tan rã 1945.
Nga
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Nga: 6-я армия / Отдельная армия № 6 / Петроградская армия / 6-я полевая армия, viết tắt 6 ОА / 6 А) của Đế quốc Nga, thành lập 1914, tan rã 1917.
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Nga: 6-я армия) của Hồng quân Nga thời Nội chiến, tồn tại từ 1918-1921.
Tập đoàn quân hợp thành 6 (tiếng Nga: 6-я армия / 6-я общевойсковая армия / 6-я общевойсковая Краснознамённая армия, mã hiệu 31807) của Liên bang Nga, thành lập 2010, thuộc Quân khu Tây.
Liên Xô
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Nga: 6-я армия, viết tắt: 6 А)
Tập đoàn quân Cận vệ số 6 (tiếng Nga: 6-я гвардейская армия, viết tắt: 6 Гв.А)
Tập đoàn quân Không quân số 6 (tiếng Nga: 6-я воздушная армия, viết tắt: 6 ВА)
Tập đoàn quân Phòng không - Không quân số 6 (tiếng Nga: 6-я Ленинградская Краснознамённая армия военно-воздушных сил и войск противовоздушной обороны, viết tắt: 6-я армия ВВС и ПВО / 6 А ВВС и ПВО)
Tập đoàn quân Phòng không số 6 (tiếng Nga: 6-я отдельная Краснознамённая армия ПВО / 6-я отдельная армия ПВО, viết tắt: 6 ОКА ПВО)
Tập đoàn quân xe tăng số 6 (tiếng Nga: 6-я танковая армия, viết tắt: 6ТА)
Tập đoàn quân xe tăng Cận vệ số 6 (tiếng Nga: 6-я гвардейская танковая армия, viết tắt: 6 Гв. ТА)
Các quốc gia khác
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Ý: 6a Armata) của Ý
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Pháp: 6eme Armée) của Pháp
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Đức: 6. Armee, tiếng Hungary: 6. hadsereg) của Đế quốc Áo-Hung
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: 6. Ordu / Altıncı Ordu) của Đế quốc Ottoman
Tập đoàn quân số 6 (, Dai-roku gun) của Đế quốc Nhật Bản
Tập đoàn quân số 6 (tiếng Anh: Sixth Army) của Hoa Kỳ
|
19332572
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20M%E1%BA%A1nh%20C%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
|
Trần Mạnh Cường (cầu thủ bóng đá)
|
Trần Mạnh Cường (sinh ngày 27 tháng 1 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Viettel.
Trưởng thành từ câu lạc bộ quê nhà Nam Định, Trần Mạnh Cường có 2 mùa giải thi đấu cho Sài Gòn trước khi gia nhập Viettel ở mùa giải 2023.
Tham khảo
Người họ Trần tại Việt Nam
Người Nam Định
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá nam Việt Nam
Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Nam Định
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Sài Gòn
Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Viettel
|
2927598
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phlogophora%20derufata
|
Phlogophora derufata
|
Phlogophora derufata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phlogophora
|
2751450
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bombyliomyia%20flavitarsis
|
Bombyliomyia flavitarsis
|
Bombyliomyia flavitarsis là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Bombyliomyia
|
2581648
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tetropium%20opacipenne
|
Tetropium opacipenne
|
Tetropium opacipenne là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Tetropium
|
13466054
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cl%C3%A9ber%20Nascimento%20da%20Silva
|
Cléber Nascimento da Silva
|
Cléber Nascimento da Silva (sinh 13 tháng 6 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá Brasil thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho Zlaté Moravce.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp châu Âu của Cléber khởi đầu ở câu lạc bộ Armenia FC Mika. Anh thi đấu ở Cúp UEFA với Petržalka ở vòng hai mùa giải 2007-08. Sau các trận đấu, Petržalka quan tâm và muốn có Cléber. Vào tháng 1 năm 2012, anh được chuyển đến Petržalka. Câu lạc bộ tiếp theo trong sự nghiệp của anh là Slovácko của Cộng hòa Séc. Sau đó, Cléber trở về lại quê hương Brasil, thi đấu 2 năm.
Vào tháng 1 năm 2012, anh đến FC Nitra và ký bản hợp đồng 2,5 năm.
Anh ký hợp đồng với Spartak Trnava vào tháng 8 năm 2014. Anh ra mắt cho đội bóng trước Podbrezová ngày 10 tháng 8 năm 2014.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Futbalnet profile
Fotbal.idnes.cz profile
Sinh năm 1986
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Brasil
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá FC Mika
Cầu thủ bóng đá MFK Petržalka
Cầu thủ bóng đá 1. FC Slovácko
Cầu thủ bóng đá FC Nitra
Cầu thủ bóng đá FC Spartak Trnava
Cầu thủ bóng đá ŠK Slovan Bratislava
Cầu thủ bóng đá FC ViOn Zlaté Moravce
|
19778463
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jasmin%20Open%202022%20-%20%C4%90%C6%A1n
|
Jasmin Open 2022 - Đơn
|
Elise Mertens là nhà vô địch, đánh bại Alizé Cornet trong trận chung kết, 6–2, 6–0.
Hạt giống
Kết quả
Chung kết
Nửa trên
Nửa dưới
Vòng loại
Hạt giống
Vượt qua vòng loại
Thua cuộc may mắn
Kết quả vòng loại
Vòng loại thứ 1
Vòng loại thứ 2
Vòng loại thứ 3
Vòng loại thứ 4
Vòng loại thứ 5
Vòng loại thứ 6
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kết quả vòng đấu chính
Kết quả vòng loại
Jasmin Open
|
19485446
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n%20tho%E1%BA%A1i%20Oppo
|
Điện thoại Oppo
|
Điện thoại Oppo là điện thoại thông minh do công ty Trung Quốc sản xuất Oppo. Họ sản xuất điện thoại trong A Series, Find Series, F Series, N Series và R Series. Oppo cũng sản xuất tai nghe và máy nghe nhạc Blu-ray với thương hiệu Oppo Digital.
Dòng Oppo F
Dòng Oppo F là MediaTek cung cấp các thiết bị lấy ảnh tự sướng, trong đó OPPO sử dụng khẩu hiệu của họ "Selfie Expert "
Dòng Oppo A
TBA
Dòng Oppo Find
TBA
Dòng Oppo N
TBA
Dòng Oppo R
TBA
Dòng Oppo K
TBA
Dòng Oppo Reno
TBA
Comparison of phones of Oppo
Tham khảo
Công ty điện thoại di động
Công ty sản xuất điện thoại di động
Oppo
Điện thoại thông minh
|
2701633
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chrysocatharylla%20oenescentellus
|
Chrysocatharylla oenescentellus
|
Chrysocatharylla oenescentellus là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chrysocatharylla
|
19822982
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Container%20%C4%91a%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20th%E1%BB%A9c
|
Container đa phương thức
|
Container đa phương thức, thường được gọi là container vận chuyển hoặc ISO Container, là loại container lớn được thiết kế để chở hàng trên nhiều phương tiện khác nhau như tàu biển, đường sắt và xe tải mà không cần dỡ hàng ra. Chúng giúp lưu trữ và vận chuyển hàng hóa an toàn và hiệu quả trong hệ thống vận chuyển toàn cầu. Container đa phương thức được dùng để lưu trữ và vận chuyển hàng hóa an toàn và hiệu quả trong hệ thống vận chuyển toàn cầu, còn gọi là hệ thống vận chuyển container hóa. Còn có tên gọi khác như container hàng hóa, container vận chuyển, container biển, container đại dương, container van biển, container can biển, hay cả MILVAN, SEAVAN và RO/RO. Thuật ngữ CONEX (Box) cũng thường được sử dụng, nhưng không chính xác kỹ thuật vì nó xuất phát từ tên của một loại container CONEX thép nhỏ hơn, được sử dụng bởi Quân đội Hoa Kỳ, trước khi container ISO quốc tế ra đời.
Có nhiều loại và kích thước chuẩn cho container đa phương thức, nhưng 90% thuộc loại "container hàng khô" hoặc "container mục đích chung". Chúng là hộp chữ nhật bền vững, làm bằng thép Corten chống gỉ, rộng gần 8 foot (2,44 m), và dài chuẩn là 20 hoặc 40 foot (6,10 hoặc 12,19 m), theo tiêu chuẩn ISO 668:2020. Các chiều cao tiêu chuẩn trên toàn cầu là và - những cái sau được gọi là High Cube hoặc Hi-Cube (HC hoặc HQ) containers. Tùy theo nguồn, chúng còn gọi là TEUs (đơn vị tương đương 20 feet), tượng trưng cho kích thước 20 hoặc 40 feet.
Vào đầu thế kỷ 20, container đa phương thức chiều dài 40 feet xuất hiện và lan rộng vào thập kỷ 1960-1970 thông qua đổi mới của công ty vận chuyển biển Mỹ SeaLand. Giống như hộp bìa cứng và pallet, chúng giúp đóng gói hàng hóa vào lô hàng lớn hơn, tạo đơn vị hóa hàng dễ xử lý, di chuyển, xếp chồng và vận chuyển gọn gàng trên tàu và sân. Các container đa phương thức này có thiết kế chịu áp lực khi vận chuyển đa phương thức, dễ dàng xử lý và xếp chồng, và có thể được nhận biết qua dấu hiệu báo cáo độc nhất ISO 6346.
Năm 2012, có khoảng 20,5 triệu container đa phương thức trên toàn cầu, phù hợp với nhiều loại hàng hóa khác nhau. Chúng đã thay thế một phần lớn hình thức truyền thống về cargo đóng gói theo kiểu bảng - vào năm 2010, container chiếm 60% lưu lượng vận chuyển biển toàn cầu. Các phương thức vận chuyển thay thế chủ yếu cho hàng chất đống bao gồm tàu, xe ô tô và đơn vị nhẹ hơn cho hàng không theo định nghĩa của IATA.
Miêu tả
Chín mươi phần trăm của toàn bộ đội container toàn cầu bao gồm container "hàng khô" hoặc "đa dụng" - cả các kích thước tiêu chuẩn và đặc biệt.
Và mặc dù chiều dài của các container dao động từ , theo hai báo cáo điều tra container năm 2012 khoảng 80% container trên thế giới có chiều dài tiêu chuẩn là hai mươi hoặc bốn mươi feet của thiết kế hàng khô. Những container thông thường này có dạng hộp hình chữ nhật, đóng kín, có cửa ở một đầu và được làm từ thép gân chịu thời tiết corrugated (thông thường được gọi là CorTen) với sàn bằng plywood Mặc dù việc gắn gân vào tấm kim loại dùng cho các bên cạnh và mái của container đóng góp đáng kể vào độ cứng và sức chồng xếp của container, tương tự như trong tấm sắt gân sóng hoặc trong hộp bìa gân sóng, các bên gân sóng gây ra sự cản trở động học và gây mất tới 10% nhiên liệu trong vận chuyển đường bộ hoặc đường sắt, so với xe tải bên ngoài bằng phẳng.
Các container tiêu chuẩn có chiều rộng , chiều cao , mặc dù các đơn vị "High Cube" hoặc "hi-cube" cao hơn với chiều cao đã trở nên rất phổ biến trong những năm gần đây. Vào cuối năm 2013, container 40 feet high-cube đã chiếm hơn 50% trong tổng số đội container hàng hải thế giới, theo báo cáo Điều tra Container của Drewry.
Khoảng 90% tổng số container trên toàn cầu có độ dài là khoảng hoặc theo đơn vị đo lường danh nghĩa, tuy nhiên, Hoa Kỳ và Canada cũng sử dụng các đơn vị dài hơn với độ dài , và . Các container ISO có các bộ phận đúc với lỗ để gắn các khóa xoay (twistlock) ở tám góc, cho phép cầm container từ trên, dưới hoặc bên hông, và chúng có thể xếp lên đến mười container cao.
Mặc dù tiêu chuẩn ISO 1496 của năm 1990 chỉ yêu cầu xếp lên tới chín container cao, và chỉ đối với các container có trọng lượng , nhưng các tàu container cỡ lớn loại Post New Panamax và lớp Maersk Triple E hiện nay xếp chúng lên tới mười hoặc mười một container cao. Hơn nữa, các tàu như tàu Maersk Triple E Marie Maersk không còn sử dụng các ngăn riêng biệt trong khoang hàng, và các ngăn khác trên boong tàu - thay vào đó, chúng tối ưu hóa dung tích bằng cách xếp liên tục từ đáy thân tàu, lên tới 21 container cao. Điều này yêu cầu kế hoạch hóa tự động, trong đó container nặng được duy trì theo hệ thống ở dưới cùng của ngăn xếp, và container nhẹ ở phía trên - không chỉ để ổn định tàu, mà còn để tránh quá tải và sự sụp đổ của các container dưới đáy.
Các container nội địa khu vực, chẳng hạn như container châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ, chủ yếu được vận chuyển bằng đường bộ và đường sắt, và thường chỉ có thể xếp lên đến hai hoặc ba container chất. Mặc dù hai đầu container khá cứng cáp, chúng có chút đàn hồi trong quá trình vận chuyển.
Khả năng chứa của các container thường được đo bằng đơn vị tương đương hồi 20 feet (TEU), hay thường gọi là "teu". Một TEU tương đương với khả năng chứa hàng của một container chuẩn dài 20 feet. Tuy nhiên, đây chỉ là một con số xấp xỉ, không tính đến chiều cao của container. Ví dụ, cả container cao 9 feet 6 inch (loại high-cube) và container 20 feet mà có chiều cao 4 feet 3 inch (loại half-height) đều được tính là một TEU. Tương tự, container dài hơn thường 45 feet thường chỉ tính là hai TEU, không khác gì so với các container chuẩn dài 40 feet. Hai TEU tương đương với một FEU (đơn vị tương đương hồi 40 feet).
Vào năm 2014, tổng số container trên toàn cầu đã tăng lên 36,6 triệu TEU, dựa trên Bản điều tra Container của Drewry Shipping Consultants. Ngoài ra, vào năm 2014, lần đầu tiên trong lịch sử, các container high-cube (cao hơn chuẩn) chiếm phần lớn số lượng container hoạt động, tính theo TEU. Vào năm 2019, công ty khởi nghiệp về phân tích dữ liệu vận tải toàn cầu Upply đã chú ý rằng vai trò của Trung Quốc như 'nhà máy của thế giới' đã thúc đẩy việc sử dụng các container 40 feet, trong khi container 1 TEU chỉ chiếm 20% số lượng trên các tuyến đường hàng hải chủ lực từ đông sang tây, và nhu cầu vận chuyển chúng đang giảm. Trong thế kỷ 21, thị trường đã chuyển dần sang sử dụng nhiều container high-cube dài 40 feet hơn, cả trong việc vận chuyển hàng khô và hàng lạnh. Đơn vị 40 feet đã trở thành tiêu chuẩn đến mức ngành vận tải biển giờ đây chỉ tính ít hơn 30% phí cho việc vận chuyển container 40 feet so với việc vận chuyển container 1 TEU. Mặc dù container 20 feet thường được sử dụng để vận chuyển hàng nặng và đóng góp ổn định cho cả tàu và doanh thu, các hãng vận chuyển thường phạt mạnh việc vận chuyển container 1 TEU hơn.
Đối với nhà sản xuất container, container high-cube dài 40 feet đang chiếm ưu thế trong nhu cầu cả cho hàng khô và hàng lạnh. Giá sản xuất container khô thông thường dao động khoảng từ $1750 đến $2000 Mỹ kim cho mỗi đơn vị tương đương container (CEU), và khoảng 90% số lượng container trên toàn cầu được sản xuất tại Trung Quốc. Độ tuổi trung bình của đội container toàn cầu là hơn 5 năm từ cuối năm 1994 đến cuối năm 2009, điều này có nghĩa là các container vẫn được sử dụng trong hơn 10 năm.
Hầm ống gù
"Hầm ống gù", một đục lỗ trong cấu trúc sàn, phù hợp với phần "ống gù" trên các xe bán trailer container chuyên dụng, là một đặc điểm bắt buộc trong cấu trúc dưới cùng của các container 1AAA và 1EEE (40- và 45-ft high-cube), và tùy chọn nhưng thường thấy trên các container có chiều cao chuẩn, dài 40 feet và hơn.
Các kích thước khác
Container RACE của Úc
Ở Úc, các container RACE cũng rộng hơn một chút để phù hợp với việc sử dụng Pallet tiêu chuẩn Úc, hoặc chúng có chiều dài và chiều rộng để có thể chứa lên đến 40 pallet.
Các container rộng theo tiêu chuẩn châu Âu
Các container rộng theo tiêu chuẩn châu Âu (gọi tắt là PW) rộng hơn một chút và có gân sọc bên hông nông hơn để cung cấp đủ chiều rộng bên trong, cho phép các pallet châu Âu thông thường Euro-pallet có kích thước dài và rộng, được nạp với hiệu suất và dung tích lớn hơn. Với chiều rộng bên trong thông thường khoảng , (tăng khoảng ~ so với chiều rộng thông thường của ISO là ,), các container rộng theo tiêu chuẩn châu Âu tạo ra chiều rộng sàn bên trong có thể sử dụng là , so với trong các container tiêu chuẩn. Điều này cho phép người dùng nạp hai pallet Euro cùng nhau theo chiều rộng hoặc ba pallet theo chiều dọc (nếu pallet được xếp gọn gàng, không tràn ra ngoài), trong khi trong các container tiêu chuẩn ISO, một dải chiều rộng sàn bên trong khoảng không thể được sử dụng bởi các pallet Euro.
Do đó, mặc dù gần như có thể thay thế hoàn toàn:
Một container PW 20-foot có thể nạp 15 pallet Euro – nhiều hơn 4 pallet, hoặc tốt hơn 36% so với 11 pallet thông thường trong một đơn vị 20-foot tiêu chuẩn ISO
Một container PW 40-foot có thể nạp 30 pallet Euro – nhiều hơn 5 pallet, hoặc tốt hơn 20% so với 25 pallet trong một đơn vị 40-foot tiêu chuẩn.
Một container PW 45-foot có thể nạp 34 pallet Euro – nhiều hơn 7 pallet, hoặc tốt hơn 26% so với 27 pallet trong một container 45-foot tiêu chuẩn.
Một số container rộng theo tiêu chuẩn pallet được làm bằng cách hàn thêm bề mặt bên hông, khiến các gân sọc nổi lên ra ngoài thay vì lõm vào bên trong. Một số container rộng theo tiêu chuẩn pallet có chiều rộng chỉ , còn những cái khác có chiều rộng .
Container high-cube rộng theo tiêu chuẩn pallet được sử dụng phổ biến, vì chúng có thể thay thế thân xe đổi chỗ thông thường cho vận chuyển bằng xe tải ở châu Âu. Liên minh châu Âu đã bắt đầu tiêu chuẩn hóa việc đóng container rộng theo tiêu chuẩn pallet trong dự án Đơn vị Tải chồng Tương hợp Châu Âu (EILU).
Nhiều nhà cung cấp vận tải biển ở châu Âu cho phép sử dụng chúng trên tàu, vì chiều rộng bên ngoài của chúng so với các container tiêu chuẩn khá nhỏ, vẫn vừa vặn trong không gian gắn kết thông thường trong khoang tàu, miễn là các mẫu nút góc (cả ở sàn và trên cùng) vẫn phù hợp với các đơn vị 40-foot thông thường để xếp chồng và cố định.
Container ở Bắc Mỹ
Thị trường Bắc Mỹ đã rộng rãi áp dụng container hóa, đặc biệt là cho các lô hàng trong nước cần di chuyển giữa đường bộ và đường sắt. Mặc dù chúng có vẻ tương tự với các container theo tiêu chuẩn ISO, nhưng có một số khác biệt đáng kể: chúng được coi là loại High-Cube dựa trên chiều cao tiêu chuẩn ISO , chiều rộng tương ứng với chiều rộng tối đa của các phương tiện giao thông đường bộ trong khu vực nhưng rộng hơn so với các container tiêu chuẩn ISO, và chúng thường không được xây dựng đủ mạnh để chịu được khắc nghiệt của vận chuyển biển.
Container 48 feet
Các container Bắc Mỹ đầu tiên ra thị trường có chiều dài . Kích thước này được công ty vận tải container American President Lines (APL) giới thiệu vào năm 1986. Kích thước của các container phù hợp với các quy định liên bang mới được thông qua vào năm 1983, cấm các tiểu bang cấm hoạt động của xe rơ moóc đơn dài dưới 48 feet hoặc rộng 102 inches. Với chiều dài và rộng hơn , chúng có dung tích 29% lớn hơn so với container High-Cube tiêu chuẩn dài 40 feet, nhưng chi phí di chuyển bằng xe tải hoặc đường sắt gần như giống nhau.
Container 53 feet
Vào cuối những năm 1980, chính phủ liên bang công bố sẽ một lần nữa cho phép tăng chiều dài của xe rơ moóc lên vào đầu năm 1990. Dự đoán đến sự thay đổi này, container dài 53 feet đã được giới thiệu vào năm 1989. Những hộp lớn này có dung tích lớn hơn 60% so với container dài 40 feet, cho phép người gửi hàng tổng hợp nhiều hàng hóa vào ít container hơn.
Năm 2007, APL giới thiệu các container dài 53 feet đầu tiên có thể chịu được hành trình trên tuyến dịch vụ từ Trung Quốc Nam đến Los Angeles. Năm 2013, APL ngừng cung cấp không gian cho container dài 53 feet trên các tàu chạy quốc tế trên Thái Bình Dương của họ. Năm 2015, cả Crowley và TOTE Maritime đều thông báo xây dựng tàu container và tàu roll-on/roll-off kết hợp lần thứ hai cho thương mại Puerto Rico, với thiết kế cụ thể để tối đa hóa dung tích hàng hóa theo khối bằng cách vận chuyển container dài 53 feet, rộng . Trong lãnh thổ Canada, Oceanex cung cấp dịch vụ container dài 53 feet ra và vào Newfoundland. Container dài 53 feet cũng được sử dụng trên một số tuyến vận chuyển quốc tế châu Á Thái Bình Dương.
Container 60 feet ở Canada
Vào tháng 5 năm 2017, Canadian Tire và Canadian Pacific Railway thông báo triển khai các container nội địa 60 feet đầu tiên tại Bắc Mỹ. Các container này cho phép Canadian Tire tăng khối lượng hàng hóa gửi mỗi container lên 13%.
Container nhỏ
Cho đến nay, tiêu chuẩn ISO 668 chưa bao giờ định chuẩn các container có cùng chiều cao như các container 20- và 40-foot được gọi là "chiều cao tiêu chuẩn", . Theo tiêu chuẩn ISO, container 10-foot (bao gồm cả các loại hộp 5-ft và 6-ft trong quá khứ) chỉ có chiều cao là 8-foot (2.44 m) và không có tên gọi cụ thể. Tuy nhiên, trong ngành công nghiệp, các đơn vị 10-foot thường được làm với chiều cao , để phù hợp hơn, cùng xếp chồng tốt hơn với các container cao 8 ft 6 in trong các tập đoàn container dài hơn. Ngược lại, các đơn vị nhỏ hơn không còn tuân theo tiêu chuẩn, dẫn đến chiều dài không đồng đều, như hoặc , với chiều rộng không tiêu chuẩn lần lượt là 2.20 m / 86.6 in và 1.95 m / in, cùng với chiều cao không tiêu chuẩn lần lượt là 2.26 m / 7 ft 5 in và 1.91 m / 6 ft 3.2 in, phù hợp cho việc lưu trữ hoặc sử dụng ngoài biển.
Quân đội Hoa Kỳ
Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục sử dụng các container nhỏ, rất giống với các container Transporter và Conex từ những năm 1950 và 1960. Chúng chủ yếu tuân theo các kích thước tiêu chuẩn ISO trước đây, hoặc là dẫn xuất trực tiếp từ chúng. Thuật ngữ hiện tại trong lực lượng vũ trang Hoa Kỳ gọi những container nhỏ này là Bicon, Tricon và Quadcon, với kích thước tương ứng với các kích thước tiêu chuẩn ISO 1D, 1E và 1F trước đây. Những container này có chiều cao chuẩn là 8 feet (khoảng 2,4 mét), và có kích thước bề mặt chân lần lượt gấp một nửa (Bicon), một phần ba (Tricon) hoặc một phần tư (Quadcon) so với kích thước của một container 20 feet tiêu chuẩn, còn gọi là một TEU. Với chiều dài tối thiểu là 10 feet (khoảng 3 mét), hai container Bicon được kết nối theo chiều dài tương đương với một container ISO 20 feet. Tuy nhiên, chiều cao của chúng chỉ còn thiếu 6 inch (khoảng 15 mm) so với chiều cao tiêu chuẩn của các container ISO 10 feet thông thường, là 8 feet 6 inch (khoảng 2,6 mét). Container Tricon và Quadcon phải được kết nối theo chiều ngang - ba hoặc bốn cái liên tiếp - để có thể xếp chồng lên các container 20 feet. Chiều dài 8 feet của chúng tương ứng với chiều rộng của một container 20 feet tiêu chuẩn, đó là lý do tại sao có lỗ cắm xe nâng ở cả hai đầu và cả hai bên của những hộp này, và cửa chỉ có một thanh khóa duy nhất. Chiếc Quadcon nhỏ nhất có hai chiều cao khác nhau: 96 inch (khoảng 2,4 mét) hoặc 82 inch (khoảng 2,1 mét). Chỉ có chiều cao 96 inch đáp ứng kích thước tiêu chuẩn ISO-668 (kích thước 1F).
Nhật Bản: Container 12 feet
Trong vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt nội địa tại Nhật Bản, hầu hết các container có chiều dài để phù hợp với kích thước tiêu chuẩn của pallet đặc biệt của Nhật.
Mã báo cáo
Mỗi container được gán một mã báo cáo tiêu chuẩn (mã sở hữu), bao gồm bốn chữ cái kết thúc bằng U, J hoặc Z, theo sau là sáu chữ số và một chữ số kiểm tra. Mã sở hữu cho container đa phương thức được cấp bởi (Văn phòng container quốc tế, viết tắt là B.I.C.) tại Pháp, do đó tên "Mã BIC" cho mã báo cáo container đa phương thức. Cho đến nay, chỉ có mã BIC dài bốn chữ cái kết thúc bằng U.
Các container vận chuyển có các mã nhận dạng như mã nhà sản xuất, mã sở hữu, mã phân loại sử dụng, biển UN cho hàng nguy hại và mã tham khảo cho kiểm soát và bảo mật vận chuyển. Liên minh châu Âu đã bắt đầu dự án Đơn vị Nạp hàng Đa phương thức (ILU) sau khi sử dụng rộng rãi container rộng pallet ở châu Âu. Dự án này cho thấy ưu điểm của vận chuyển đa phương thức container và swap body. Mã ILU mới đã được giới thiệu theo tiêu chuẩn EN 13044, tương tự như mã BIC trước đây. Mã sở hữu của container đa phương thức do Văn phòng container quốc tế BIC cấp kết thúc bằng U, J hoặc Z. Các dấu báo cáo sở hữu cho swap body kết thúc bằng A, B, C, D hoặc K sẽ được cấp bởi Văn phòng phân bổ mới của Liên minh Quốc tế Công ty Vận tải Đường sắt và Đường bộ Kết hợp (UIRR). Từ tháng 7 năm 2011, mã ILU mới có thể đăng ký, và từ tháng 7 năm 2014, tất cả container ISO đa phương thức và swap body đa phương thức phải có mã sở hữu. Từ tháng 7 năm 2019, tất cả chúng phải mang một biển ghi phù hợp theo tiêu chuẩn.
Xử lý
Container di chuyển giữa tàu, xe tải và tàu bằng cần cẩu container tại cảng. Forklift, reach stacker, straddle carrier, container jack và cần cẩu có thể được sử dụng để nạp và dỡ hàng từ xe tải hoặc tàu hỏa ngoài cảng. Swap body, sidelifter, xe tải nâng bằng sàn và xe tải có cần cẩu cho phép chuyển hàng tới và từ xe tải mà không cần thiết bị thêm.
Container tiêu chuẩn ISO có thể được xử lý và nâng bằng nhiều cách thông qua các thiết bị gắn ở góc container, nhưng container dài 45 feet (loại E) có hạn chế trong việc nâng bên hông và không thể nâng bằng forklift, theo tiêu chuẩn ISO 3874 (1997).
Vận tải
Container có thể được vận chuyển bằng tàu container, xe tải và xe tàu hàng trong cùng một hành trình mà không cần gỡ gói hàng. Các đơn vị có thể được cố định bằng các điểm "khóa vặn" nằm ở mỗi góc của container. Mỗi container đều có mã độc đáo BIC được sơn bên ngoài để nhận dạng và theo dõi, và có khả năng chứa lên đến 20-25 tấn. Chi phí vận chuyển được tính theo đơn vị tương đương 20 feet (TEU).
Đường sắt
Trong vận chuyển đường sắt, container có thể được chở trên các toa xe thẳng hoặc toa xe chứa hàng đặc biệt. Những toa xe chứa hàng này được thiết kế đặc biệt để vận chuyển container và có thể chứa nhiều container xếp chồng lên nhau. Tuy nhiên, kích thước tiêu chuẩn của đường sắt có thể hạn chế các phương thức và loại vận chuyển container. Các hệ thống đường sắt ở châu Âu thường có kích thước tiêu chuẩn nhỏ hơn, chỉ cho phép chứa container xếp một tầng. Ở một số nước như Vương quốc Anh, có các phần của mạng lưới đường sắt không cho phép container loại high-cube đi qua, hoặc chỉ có thể đi qua trên các toa xe đặc biệt. Tuy nhiên, Indian Railways vận hành container xếp chồng lên nhau trên toa xe thẳng dưới dây điện 25 kV AC. Dây điện phải cách mặt đường ít nhất 7,45 mét. China Railway cũng vận hành container xếp chồng lên nhau dưới dây điện, nhưng phải sử dụng các toa xe đặc biệt vì dây điện chỉ cách mặt đường 6,6 mét.
Biển
Khoảng 90% hàng hóa không chất đống trên thế giới được chuyển bằng container. Các tàu container lớn nhất có thể mang hơn 19.000 TEU (tương đương số container kích thước 20 feet). Trong giai đoạn từ 2011 đến 2013, trung bình có khoảng 2.683 container bị mất trên biển. Ước tính khác lên tới 10.000 container; trong số này, dự kiến có 10% chứa hóa chất độc hại cho đời sống biển. Có nhiều hệ thống khác nhau được sử dụng để cố định container trên tàu. Tình trạng mất container trên biển thường thấp.
Hàng không
Container cũng có thể được vận chuyển bằng máy bay, nhưng thường ít được sử dụng vì chi phí cao và khó tìm máy bay phù hợp. Có container hàng không đặc biệt, nhỏ hơn, gọi là đơn vị thiết bị tải hàng.
An toàn và bảo mật
Có nhiều cách và vật liệu đã được thiết lập từ lâu để đảm bảo container đa phương thức được ổn định và bảo vệ khi được đặt lên tàu, cũng như bảo vệ hàng hóa bên trong. Các phương pháp và vật liệu truyền thống như dây thép buộc và khối gỗ đỡ đã tồn tại hàng thập kỷ và vẫn được sử dụng rộng rãi. Hiện nay, việc sử dụng dây đeo polyester và dây tổng hợp cũng rất phổ biến. Để giữ hàng hóa cố định, túi đỡ (còn gọi là "túi khí") được sử dụng.
Ngoài ra, các Flexi-bag cũng có thể được đặt trực tiếp và xếp chồng trong các container chất lượng thực phẩm. Thực tế, hình dáng chuẩn của chúng phủ toàn bộ diện tích sàn container ISO 20 ft.
Sử dụng mục đích khác
Thiết bị đóng container
Các đơn vị kích thước container thường được sử dụng để chuyển thiết bị lớn đến các vị trí tạm thời. Các container chuyên dụng đặc biệt hấp dẫn với quân đội sử dụng container để di chuyển hàng hóa. Việc di chuyển thiết bị đặc biệt này giúp đơn giản hóa logistics và ngăn ngừa việc định danh thiết bị có giá trị cao bởi kẻ thù. Hệ thống như này có thể bao gồm cơ sở điều khiển, phòng mổ di động hoặc thậm chí là pháo đài tên lửa (như tên lửa bề mặt-bề mặt 3M-54 Klub của Nga).
Các hệ thống xử lý nước hoàn chỉnh có thể được lắp đặt trong các container và vận chuyển khắp thế giới.
Máy phát điện có thể được lắp đặt cố định trong các container để sử dụng làm nguồn điện di động.
Tái sử dụng
Một nửa số container nhập cảnh vào Hoa Kỳ rời đi trống rỗng. Chúng thường có giá trị thấp hơn tại Hoa Kỳ so với Trung Quốc, nên thường được sử dụng cho các mục đích khác, thường là khi hết cuộc hành trình. Quân đội Hoa Kỳ thường dùng container Conex làm kho chứa tại hiện trường hoặc nhà ở di động cho nhân sự chỉ huy và phòng khám y tế. Gần hết tất cả hơn 150.000 container Conex vận chuyển đến Việt Nam đã ở lại trong nước, chủ yếu dùng làm kho chứa hoặc cơ sở di động khác. Đặt cố định hoặc bán cố định container để làm kho chứa là phổ biến. Một container thông thường có kích thước bốn mươi feet có khoảng thép, cần tới năng lượng để nấu chảy. Tái sử dụng container vận chuyển ngày càng trở thành giải pháp thực tế cho cả vấn đề xã hội và môi trường.
Kiến trúc container vận chuyển sử dụng container cũ làm khung cho ngôi nhà modul, với thép được tích hợp trong thiết kế hoặc che giấu trong ngôi nhà truyền thống. Chúng cũng được áp dụng để tạo cửa hàng tạm thời, quán cà phê, trung tâm dữ liệu máy tính như Sun Modular Datacenter.
Tuy container đa phương thức không đủ mạnh để chuyển đổi thành bunkers ngầm mà không cần thêm cấu trúc cường độ, vì tường không thể chịu được áp lực nằm ngang và có thể gãy. Ngoài ra, sàn gỗ của nhiều container cũ có thể chứa hóa chất diệt côn trùng, khiến chúng không phù hợp cho không gian hạn chế như tù hoặc bunkers. Vệ sinh hoặc thay thế sàn gỗ có thể biến container cũ thành nơi ở, cần quan tâm đến thông gió và cách nhiệt.
Tiêu chuẩn quốc tế
Tiêu chuẩn ASTM D5728-00 Về Phương pháp Đảm bảo An toàn Hàng hóa trong Vận chuyển Bề mặt Đa phương thức và Đơn hướng
Tiêu chuẩn ISO 668:2013 Dành cho Loạt 1 Container Hàng – Phân loại, kích thước và trọng lượng định mức
Tiêu chuẩn ISO 830:1999 Về Container Hàng – Từ vựng
Tiêu chuẩn ISO 1161:1984 Về Loạt 1 Container Hàng – Thiết bị góc – Thông số kỹ thuật
Tiêu chuẩn ISO 1496 – Loạt 1 Container Hàng – Thông số kỹ thuật và thử nghiệm
Tiêu chuẩn ISO 1496-1:2013 – Phần 1: Container hàng đa dụng cho mục đích chung
Tiêu chuẩn ISO 1496-2:2008 – Phần 2: Container nhiệt
Tiêu chuẩn ISO 1496-3:1995 – Phần 3: Container bể dùng cho chất lỏng, khí và hàng khô áp lực
Tiêu chuẩn ISO 1496-4:1991 – Phần 4: Container không áp lực cho hàng khô áp lực
Tiêu chuẩn ISO 1496-5:1991 – Phần 5: Container nền và container dựa trên nền
Tiêu chuẩn ISO 2308:1972 Về Móc nâng Container hàng có dung tích lên đến 30 tấn – Yêu cầu cơ bản
Tiêu chuẩn ISO 3874:1997 Về Loạt 1 Container Hàng – Xử lý và cố định
Tiêu chuẩn ISO 6346:1995 Về Container Hàng – Mã hóa, nhận dạng và đánh dấu
Tiêu chuẩn ISO 9897:1997 Về Container Hàng – Trao đổi dữ liệu thiết bị container (CEDEX) – Mã giao tiếp chung
Tiêu chuẩn ISO/TS 10891:2009 Về Container Hàng – Nhận dạng tần số vô tuyến (RFID) – Thẻ biển giấy phép
Tiêu chuẩn ISO 14829:2002 Về Container Hàng – Xe nâng chân để xử lý container hàng – Tính toán tính ổn định
Tiêu chuẩn ISO 17363:2007 Về Ứng dụng Chuỗi cung ứng của RFID – Container hàng
Tiêu chuẩn ISO/PAS 17712:2006 Về Container Hàng – Dấu niêm phong cơ khí
Tiêu chuẩn ISO 18185-2:2007 Về Container Hàng – Dấu điện tử
Ghi chú
Chú thích
page 8, page 14, page 18, page 20, page 26.
Đọc thêm
Donovan, Arthur & Bonney, Joseph. The Box That Changed the World, East Windsor, New Jersey, Commonwealth Business Media, 2006
George, Rose. Ninety Percent of Everything: Inside Shipping, the Invisible Industry That Puts Clothes on Your Back, Gas in Your Car, and Food on Your Plate (2013), describes typical sea voyage excerpt and text search
International Organization for Standardization (ISO), Freight containers, Volume 34 of ISO standards handbook, International Organization for Standardization, 4th edition, 2006.
Levinson, Marc. The Box: How the Shipping Container Made the World Smaller and the World Economy Bigger, Princeton, N.J. : Princeton University Press, 2006. excerpt and text search
Vận tải
|
3233257
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Galveosaurus
|
Galveosaurus
|
Galveosaurus là một chi khủng long, được Sánchez-Hernández mô tả khoa học năm 2005.
Xem thêm
Danh sách khủng long
Chú thích
Khủng long
Galveosaurus
Động vật tuyệt chủng
Động vật được mô tả năm 2005
Khủng long kỷ Phấn Trắng
Khủng long châu Âu
Khủng long kỷ Jura
Sauropoda
Dự án Khủng long/Theo dõi
|
13515529
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B3%20Havana
|
Chó Havana
|
Chó Havana, một loài thuộc loại chó Bichon, là loài chó quốc gia của Cuba, được phát triển từ giống Chó Blanquito de la Habana, có nghĩa là "con chó trắng nhỏ của Havana", hiện nay đã tuyệt chủng. Chó Blanquito trước đó cũng được phát triển từ giống chó đã tuyệt chủng Bichon Tenerife. Người ta tin rằng giống chó Blanquito cuối cùng đã được lai với các giống chó thuộc loại Bichon khác, bao gồm cả Chó Poodle, để tạo ra giống chó hiện nay được gọi là Havana. Đôi khi chó Havana cũng được gọi là "Chó lông mượt Havana", đây từng là tên gọi khác của Chó Blanquito de la Habana.
Chó Havana có kích thước nhỏ và thân hình cường tráng với một cái đuôi dựng đứng trên lưng, tai buông thả và thường gập lại. Bộ lông của giống chó này dày, dài, mượt mà và có thể có nhiều màu sắc. Chó Havana có một tính cách hung hăng, khuynh hướng tò mò và là dáng đi nẩy lên đáng chú ý của giống chó này, một đặc điểm giúp phân biệt nó với tất cả các giống chó khác. Havana được coi là một vật nuôi gia đình lý tưởng và một con chó đồng hành thực sự. Chúng có khả năng thích ứng cao với hầu hết mọi môi trường. Do tính cách hội nhập mạnh mẽ của chúng, Havana sẽ không phát triển mạnh trong một môi trường mà chúng bị cô lập trong vài giờ mỗi ngày.
Tham khảo
Havana
|
2583698
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Delphyre%20rubricincta
|
Delphyre rubricincta
|
Delphyre rubricincta là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Delphyre
|
2929929
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leucania%20larseni
|
Leucania larseni
|
Leucania larseni là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
L
|
2602137
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chloroclystis%20tridentata
|
Chloroclystis tridentata
|
Đ m wikipedia
Chloroclystis tridentata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Chloroclystis
Động vật đặc hữu Uganda
|
2913301
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apospasta%20venata
|
Apospasta venata
|
Apospasta venata là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Apospasta
|
2933970
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rivula%20inconspicua
|
Rivula inconspicua
|
Rivula inconspicua là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Rivula
Động vật được mô tả năm 1881
|
3197318
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20h%E1%BA%ADu%20Philippines
|
Hoa hậu Philippines
|
Hoa hậu Philippines (Tiếng Filipino: Binibining Pilipinas) là cuộc thi sắc đẹp cấp quốc gia lâu đời và danh giá bậc nhất của Philippines. Người chiến thắng của cuộc thi sẽ đại diện Philippines tham dự Hoa hậu Quốc tế tổ chức vào năm kế tiếp. Cuộc thi Hoa hậu Philippines cũng được quyền cử đại diện đi tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn cầu.
Năm 2019 là năm cuối cùng cuộc thi giữ bản quyền cử thí sinh tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ và Hoa hậu Siêu Quốc gia. Từ năm 2020, cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Philippines (Miss Universe Philippines) sẽ đảm nhiệm việc cử thí sinh tham gia hai cuộc thi này. Người đoạt vương miện Binibining Pilipinas sẽ trở thành đại diện tranh tài tại Hoa hậu Quốc tế. Đến năm 2022, cuộc thi tiếp tục từ bỏ bản quyền Hoa hậu Hòa bình Quốc tế và Hoa hậu Liên lục địa.
Cuộc thi Binibining Pilipinas được tổ chức thường niên từ năm 1964. Chủ tịch của cuộc thi là bà Stella Marquez, Hoa hậu Quốc tế 1960. Đương kim Binibining Pilipinas là Angelica Lopez đến từ Palawan, cô sẽ đại diện Philippines tại Hoa hậu Quốc tế 2024.
Người chiến thắng gần đây
Tham khảo
Cuộc thi hoa hậu cấp quốc gia
Tổ chức thành lập năm 1964
|
3130667
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ochiai%20Hiroshi
|
Ochiai Hiroshi
|
(sinh ngày 28 tháng 2 năm 1946) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản
thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ năm 1974 đến 1980.
Thống kê sự nghiệp
|-
|1974||2||0
|-
|1975||13||3
|-
|1976||15||2
|-
|1977||5||0
|-
|1978||14||3
|-
|1979||9||1
|-
|1980||5||0
|-
!Tổng cộng||63||9
|}
Tham khảo
Liên kết ngoài
National Football Teams
Japan National Football Team Database
Sinh năm 1946
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Cầu thủ bóng đá Urawa Red Diamonds
Cầu thủ bóng đá Hokkaido Consadole Sapporo
Vận động viên Đại hội Thể thao châu Á của Nhật Bản
Nhân vật liên quan đến bóng đá từ Saitama
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản
|
2629897
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Loxofidonia%20obfuscata
|
Loxofidonia obfuscata
|
Loxofidonia obfuscata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Loxofidonia
|
19813506
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ma%20V%C6%B0%C6%A1ng
|
Ma Vương
|
Ma Vương (魔王) có thể là:
Vua của Ác ma, ma tộc, ma vật, một chủng tộc tà ác thường xuất hiện trong các tác phẩm giả tưởng.
Thiên ma Ba tuần, vua của cõi trời Tha Hóa Tự Tại, là cõi trời cao nhất trong sáu cõi trời của Dục giới trong Tam giới.
Maou (Ma vương), nhân vật thường là kẻ đứng đầu phe phản diện trong các tác phẩm anime, manga, light novel; hoặc là trùm cuối trong các trò chơi điện tử.
Ma Vương (phim truyền hình Hàn Quốc) (마왕), phim truyền hình năm thứ 2007.
Ma Vương (phim truyền hình Nhật Bản) (魔王), phim truyền hình năm thứ 2008.
Aoki Shiki (青木志貴), diễn viên lồng tiếng Nhật Bản. Còn được gọi là Ma Vương.
Trương Di Ninh, vận động viên bóng bàn Trung Quốc. Còn được gọi là Đại Ma Vương.
Oda Nobunaga (織田信長), daimyō trong thời kỳ Chiến Quốc của lịch sử Nhật Bản. Ông tự gọi mình là Đệ Lục Tiên Ma Vương (第六天魔王).
Xem thêm
Ngưu Ma Vương (牛魔王), nhân vật phản diện trong bộ truyện kinh điển Tây Du Ký.
Hỗn Thế Ma Vương
Kosaka Daimaou (古坂大魔王), nghệ sĩ hài người Nhật.
Quỷ Vương
|
13908885
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81%20ngh%E1%BB%8B%20m%E1%BB%9Di%20th%E1%BA%A7u%20%28RFP%29
|
Đề nghị mời thầu (RFP)
|
Đề nghị mời thầu (request for proposal - RFP) là tài liệu giới thiệu đề xuất, thường được thực hiện thông qua quy trình đấu thầu, bởi một đại lý hoặc công ty quan tâm đến việc quá trình thu mua hàng hóa, dịch vụ hoặc tài sản có giá trị, cho các nhà cung cấp tiềm năng gửi đề xuất kinh doanh. Nó được nộp sớm trong chu kỳ mua sắm, hoặc ở giai đoạn nghiên cứu sơ bộ, hoặc giai đoạn mua sắm.
Tổng quát
RFP được sử dụng khi yêu cầu đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, khả năng chuyên môn hoặc nơi sản phẩm hoặc dịch vụ được yêu cầu chưa tồn tại và đề xuất có thể yêu cầu nghiên cứu và phát triển để tạo bất kỳ điều gì đang được yêu cầu.
RFP trình bày các yêu cầu sơ bộ đối với hàng hóa hoặc dịch vụ và có thể quy định các mức độ khác nhau về cấu trúc và định dạng chính xác của phản hồi của nhà cung cấp. Các RFP hiệu quả thường phản ánh chiến lược và các mục tiêu kinh doanh ngắn hạn / dài hạn, cung cấp cái nhìn chi tiết mà các nhà cung cấp sẽ có thể đưa ra một quan điểm phù hợp.
Các yêu cầu tương tự bao gồm yêu cầu báo giá (RFQ), theo đó khách hàng có thể chỉ cần tìm báo giá và yêu cầu thông tin (RFI), nơi khách hàng cần thêm thông tin từ nhà cung cấp trước khi gửi RFP. Một RFI thường được theo sau bởi một RFP hoặc RFQ.
Về nguyên tắc, một RFP:
Thông báo cho các nhà cung cấp rằng một tổ chức đang tìm kiếm để mua và khuyến khích họ nỗ lực hết mình.
Yêu cầu công ty xác định những gì cần đề xuất để mua. Nếu phân tích yêu cầu đã được chuẩn bị đúng cách, nó có thể được kết hợp khá dễ dàng vào tài liệu Yêu cầu.
Cảnh báo các nhà cung cấp rằng quá trình lựa chọn là cạnh tranh.
Cho phép phân phối và phản hồi rộng rãi.
Đảm bảo rằng các nhà cung cấp đáp ứng thực tế các yêu cầu đã xác định.
Nói chung, dự kiến sẽ thực hiện theo một đánh giá có cấu trúc và thủ tục lựa chọn, để một tổ chức có thể chứng minh tính công bằng - một yếu tố quan trọng trong việc mua sắm khu vực công.
Thông số kỹ thuật
Một RFP thường liên quan đến nhiều hơn một yêu cầu về giá cả. Các thông tin được yêu cầu khác có thể bao gồm thông tin cơ bản về công ty và lịch sử, thông tin tài chính (công ty có thể cung cấp mà không có nguy cơ phá sản), khả năng kỹ thuật (được sử dụng cho các dịch vụ chính, nơi sản phẩm chưa được thực hiện trước đó hoặc nơi yêu cầu có thể đáp ứng được) các phương tiện kỹ thuật khác nhau), thông tin sản phẩm như khả năng sẵn có và thời gian hoàn thành ước tính và tham khảo khách hàng có thể được kiểm tra để xác định sự phù hợp của công ty (bao gồm cả nền tảng giáo dục và quân sự cho nhân viên của dự án) độ có thể thêm "giá trị" từ nhà thầu).
Internet đã khiến nhiều cơ quan chính phủ chuyển sang trang web do nhà nước hoặc nhà cung cấp điều hành cung cấp danh sách các RFP cũng như RFI và RFQ. Nhiều nhà cung cấp cho phép các nhà cung cấp đăng ký miễn phí để nhận e-mail yêu cầu nói chung hoặc cho các danh mục sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể mà có lợi ích. Trong một số trường hợp, toàn bộ quá trình được thực hiện trực tuyến với các phản hồi như tài liệu được quét hoặc các tệp PDF được tải lên máy chủ; trong các trường hợp khác, hoặc vì lý do pháp lý, một phản ứng phải được gửi dưới dạng bản sao cứng và/hoặc trên đĩa CD / DVD hoặc ổ đĩa flash bằng thư hoặc dịch vụ chuyển phát.
Trong quân đội của nhiều quốc gia, RFP thường được nâng lên để đáp ứng yêu cầu hoạt động (OR), sau đó cơ quan mua sắm quân sự thường đưa ra một đặc tả kỹ thuật chi tiết về các nhà thầu tiềm năng (đấu thầu). Trong sử dụng dân sự, một RFP thường là một phần của một quá trình bán hàng phức tạp, còn được gọi là bán hàng doanh nghiệp.
RFP thường bao gồm các thông số kỹ thuật của sản phẩm, dự án hoặc dịch vụ mà đề xuất được yêu cầu. Chi tiết kỹ thuật càng chi tiết, thì cơ hội mà đề xuất được cung cấp càng chính xác. Nói chung RFP được gửi đến một nhà cung cấp hoặc danh sách nhà cung cấp được phê duyệt.
Các nhà thầu phản hồi đề xuất theo ngày và giờ đã đặt. Các đề xuất trễ có thể hoặc có thể không được xem xét, tùy thuộc vào các điều khoản của RFP ban đầu. Các đề xuất được sử dụng để đánh giá sự phù hợp với tư cách là nhà cung cấp, nhà cung cấp hoặc đối tác thể chế. Thông thường các tổ chức tuân thủ quy trình kiểm tra nhà cung cấp chi tiết để liệt kê ngắn các nhà cung cấp cần được mời tham gia các vòng đàm phán tiếp theo. Quy trình sàng lọc này có thể là mô hình chấm điểm nhà cung cấp hoặc các cuộc thảo luận nội bộ trong tổ chức người mua. Các cuộc thảo luận có thể được tổ chức trên các đề xuất (thường để làm rõ các khả năng kỹ thuật hoặc để lưu ý các lỗi trong một đề xuất hoặc trong nhiều trường hợp để thương lượng về giá). Trong hầu hết các trường hợp, chỉ những nhà thầu được chọn mới có thể được mời tham gia đấu giá tiếp theo hoặc có thể được yêu cầu gửi đề xuất tài chính và kỹ thuật tốt nhất của họ, thường được gọi là Đề nghị cuối cùng và Tốt nhất (BAFO). Những thay đổi tiếp theo có thể được gọi là Đề nghị mua hàng cuối cùng được sửa đổi và tốt nhất (BARFO).
Khi cả hai bên nghĩa là tổ chức người bán và tổ chức người bán đồng ý với điều khoản và điều kiện kỹ thuật và thương mại của đề xuất, họ có thể chuyển sang các bước tiếp theo như ký hợp đồng, tuyên bố công việc sẽ chính thức hóa giao dịch mua.
Ngày nay, nhiều tổ chức đang cộng tác nhiều hơn trong việc phát triển RFP; điều này đặc biệt đúng đối với các trường đại học và các tổ chức công cộng lớn khác đang thực hiện các giao dịch mua công nghệ lớn. Các nhóm phát hành RFP yêu cầu các trường hợp sử dụng cụ thể, thay vì cung cấp danh sách các tính năng và đảm bảo họ có cơ hội bao gồm các cuộc biểu tình, hội thảo trên web và các cuộc họp như một phần của quy trình RFP để đảm bảo họ hiểu rõ về tất cả các sản phẩm cạnh tranh trước khi thực hiện mua hàng.
Các yêu cầu khác
Yêu cầu về hiệp hội (RFA), còn được gọi là yêu cầu hợp tác hoặc yêu cầu liên minh, là một đề xuất từ bên này sang bên kia để cùng nhau hành động (thường là trong kinh doanh) và chia sẻ lợi ích của hành động chung này.
Yêu cầu thông tin (RFI) là đề xuất được yêu cầu từ người bán hoặc nhà cung cấp dịch vụ để xác định sản phẩm và dịch vụ nào có khả năng có mặt trên thị trường để đáp ứng nhu cầu của người mua và biết khả năng của người bán về mặt dịch vụ và thế mạnh của người bán. Các RFI thường được sử dụng trong các vụ mua sắm chính, nơi một yêu cầu có thể được đáp ứng thông qua một số phương tiện thay thế. Tuy nhiên, RFI không phải là lời mời chào giá, không ràng buộc với người mua hoặc người bán và có thể hoặc không thể dẫn đến RFP hoặc RFQ.
Yêu cầu báo giá (RFQ) được sử dụng khi các cuộc thảo luận với nhà thầu không bắt buộc (chủ yếu là khi các thông số kỹ thuật của sản phẩm hoặc dịch vụ đã biết) và khi giá là yếu tố chính hoặc duy nhất trong việc chọn nhà thầu thành công. Một RFQ cũng có thể được sử dụng trước khi phát hành một RFP toàn diện để xác định phạm vi giá chung. Trong kịch bản này, các sản phẩm, dịch vụ hoặc nhà cung cấp có thể được lựa chọn từ các kết quả RFQ để đưa vào nghiên cứu sâu hơn để viết một RFP đầy đủ hơn. Trong thực tiễn kinh doanh thương mại, RFQ là hình thức được sử dụng phổ biến nhất của RFx, với nhiều công ty không hiểu sự khác biệt giữa RFx, và vì vậy mặc định cho RFQ.
Yêu cầu về tiêu chuẩn (RFQ) còn được gọi là Bảng câu hỏi sơ tuyển (PQQ) là một tài liệu thường được phân phối trước khi bắt đầu quá trình RFP. Nó được sử dụng để thu thập thông tin nhà cung cấp từ nhiều công ty để tạo ra một nhóm tiềm năng. Điều này giúp giảm bớt quá trình xem xét RFP bởi các ứng cử viên danh sách ngắn ưu tiên đáp ứng các tiêu chuẩn mong muốn.
Một yêu cầu giải pháp (RFS) tương tự như một RFP, nhưng cởi mở hơn và chung chung hơn. Điều này cho phép nhà cung cấp hoặc nhà cung cấp linh hoạt nhất của tất cả RFx trong việc thể hiện giải pháp của họ hoặc kết hợp sản phẩm và dịch vụ của họ.
Yêu cầu Đấu thầu (RFT), còn được gọi là Mời thầu (ITT), thường được các chính phủ sử dụng nhiều hơn.
Xem thêm
Mời thầu
Hợp đồng A
Đấu thầu điện tử
ERFx
Thông báo cơ hội tài trợ
Thuê ngoài
Phần mềm đề xuất
Lựa chọn dựa trên tiêu chuẩn
Đấu giá ngược
Tuyên bố công việc
Tìm nguồn cung ứng chiến lược
Đấu thầu
Tham khảo
Bán hàng
Đấu già
Thuê ngoài
Quy trình thu mua
|
15008921
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rosmalen%20Grass%20Court%20Championships%202019%20-%20%C4%90%C3%B4i%20n%E1%BB%AF
|
Rosmalen Grass Court Championships 2019 - Đôi nữ
|
Elise Mertens và Demi Schuurs là đương kim vô địch, nhưng Mertens không tham dự giải đấu. Schuurs đánh cặp với Kiki Bertens, nhưng thua ở vòng bán kết trước Lesley Kerkhove và Bibiane Schoofs.
Shuko Aoyama và Aleksandra Krunić là nhà vô địch, đánh bại Kerkhove và Schoofs trong trận chung kết, 7–5, 6–3.
Hạt giống
Kết quả
Kết quả
Tham khảo
Kết quả vòng đấu chính
Rosmalen Grass Court Championships - Đôi
Đôi nữ 2019
|
19638050
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Microsoft%20Holoportation
|
Microsoft Holoportation
|
Microsoft Holoportation là một dự án của Microsoft Research nhằm trình diễn việc giao tiếp ảnh toàn ký theo thời gian thực với Microsoft Hololens. Holoportation được mô tả là "một loại công nghệ ghi hình 3D mới cho phép tái tạo, nén và truyền tải những mô hình 3D chất lượng cao của con người đến với mọi nơi trên thế giới trong thời gian thực. Điều này cho phép người dùng đeo màn hình thực tế ảo hoặc thực tế tăng cường có thể nhìn, nghe và tương tác với những người tham gia từ xa trong không gian 3D, gần như thể họ đang hiện diện trong cùng một không gian vật lý. Từ góc độ nghe nhìn, giao tiếp và tương tác với người dùng từ xa gần với giao tiếp trực tiếp". Tháng 3 năm 2016, Alex Kipman đã trình diễn trực tiếp công nghệ này tại hội thảo TED như một phần trong buổi nói chuyện của mình. Dự án này đi vào hoạt động kể từ năm 2019.
Xem thêm
Thực tế tăng cường
Thực tế ảo
Hiện diện từ xa
Tham khảo
Microsoft
Ảnh toàn ký
|
2789036
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Campoctonus%20belfragei
|
Campoctonus belfragei
|
Campoctonus belfragei là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Campoctonus
|
3235693
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Figulus%20interruptus
|
Figulus interruptus
|
Figulus interruptus là một loài bọ cánh cứng trong họ Lucanidae. Loài này được Waterhouse mô tả khoa học năm 1874.
Tham khảo
Figulus
Động vật được mô tả năm 1874
|
15001727
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Warnowo%2C%20T%E1%BB%89nh%20West%20Pomeranian
|
Warnowo, Tỉnh West Pomeranian
|
Warnowo (German Warnow) là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Wolin, thuộc hạt Kamień, West Pomeranian Voivodeship, ở phía tây bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng phía tây bắc của Wolin, về phía tây Kamień Pomorski và phía bắc thủ đô khu vực Szczecin.
Ngôi làng có dân số 340 người.
Tham khảo
|
2572466
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Psygmatocerus%20pubescens
|
Psygmatocerus pubescens
|
Psygmatocerus pubescens là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Psygmatocerus
|
2916935
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Axiocteta%20rufa
|
Axiocteta rufa
|
Axiocteta rufa là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Axiocteta
|
2650255
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sauris%20asema
|
Sauris asema
|
Sauris asema là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sauris
|
19569270
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%95%20t%C3%A1n%20s%E1%BA%AFc%20b%C6%B0%E1%BB%9Bc%20s%C3%B3ng%20tia%20X
|
Phổ tán sắc bước sóng tia X
|
Phổ tán sắc bước sóng tia X (tiếng Anh: Wavelength-dispersive X-ray spectroscopy, WDS hoặc WDXS) là một phương pháp vi phân tích hóa học trong các thiết bị phân tích sử dụng chùm điện tử (như kính hiển vi điện tử quét, thiết bị chùm vi điện tử,..) bằng cách ghi nhận và phân tích chùm tia X đặc trưng phát ra từ mẫu vật do tương tác với chùm điện tử. WDS là một phương pháp phân tích không phá hủy, cho phép ghi nhận sự có mặt của các nguyên tố hóa học cũng như tỉ lệ phần trăm các nguyên tố này trong mẫu vật với độ chính xác cao.
Nguyên lý làm việc
WDS là phương pháp phân tích bằng cách ghi nhận tia X đặc trưng phát ra từ mẫu vật, tương tự như một phương pháp khác là phổ tán sắc năng lượng tia X (EDS): một chùm điện tử năng lượng cao tương tác với các nguyên tử trong mẫu vật sẽ đi sâu vào trong nguyên tử, tương tác với các lớp điện tử bên trong và phát ra tia X đặc trưng. Điểm khác biệt của WDS so với EDS là thay vì phân tích thông tin bằng cách phân tích năng lượng tán sắc của chùm điện tử, thiết bị này sẽ tán sắc chùm tia X và ghi nhận thông tin đặc trưng theo bước sóng tia X.
Để tán sắc bước sóng theo tia X, tia X phát ra từ mẫu vật thay vì được cảm biến ghi nhận trực tiếp, sẽ được nhiễu xạ trên một tinh thể, còn cảm biến sẽ ghi nhận lại chùm tia X nhiễu xạ theo góc nhiễu xạ đặc trưng bằng cách bố trí mẫu vật, tinh thể và cảm biến trên một đường tròn (gọi là vòng tròn Rowland). Mỗi bước sóng của tia X sẽ nhiễu xạ dưới các góc đặc trưng khác nhau và các vị trí khác nhau của cảm biến (hay đầu thu) sẽ cho phép ghi nhận các bước sóng khác nhau của tia X. Từ việc ghi nhận phổ bước sóng của tia X, thông tin hóa học trong mẫu (bao gồm sự có mặt của các nguyên tố và tỉ lệ phần trăm của chúng) sẽ được phân tích.
Điểm mạnh và điểm yếu
WDS là phương pháp phân tích không phá hủy với độ chính xác cao, có độ phân giải năng lượng tốt hơn nhiều so với EDS (ở EDS là cỡ 120 eV còn ở WDS vào cỡ 20 eV), vì thế nó có khả năng phân biệt các nguyên tố tốt hơn nhiều so với EDS. WDS vì ghi nhận tia X theo từng bước sóng khác nhau nên có khả năng tạo ra tín hiệu mạnh hơn so với EDS, phổ tạo ra có đỉnh sắc nét và rõ hơn. Nhưng điều này cũng tạo ra một điểm yếu cố hữu của WDS: để có thể tạo ra phổ tán sắc theo các bước sóng khác nhau, đầu thu tia X sẽ phải di chuyển liên tục khiến cho việc ghi phổ trở nên tốn nhiều thời gian.
Xem thêm
Phổ tán sắc năng lượng tia X
Kính hiển vi điện tử quét
Liên kết ngoài
Phổ tán sắc bước sóng tia X
X-ray Compositional MicroAnalysis: EDS and WDS
Tham khảo
|
2921537
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fodina%20hypercompoides
|
Fodina hypercompoides
|
Fodina hypercompoides là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Fodina
|
2600886
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chloeres%20rubripunctata
|
Chloeres rubripunctata
|
Chloeres rubripunctata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Chloeres
|
2795550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dyspetes%20curvicarinatus
|
Dyspetes curvicarinatus
|
Dyspetes curvicarinatus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Dyspetes
|
14196724
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Takahashi%20Yutaro
|
Takahashi Yutaro
|
Yutaro Takahashi (sinh ngày 3 tháng 10 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Yutaro Takahashi đã từng chơi cho Vissel Kobe, Cerezo Osaka, Roasso Kumamoto và V-Varen Nagasaki.
Tham khảo
Sinh năm 1987
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Tiền đạo bóng đá
Cầu thủ bóng đá Cerezo Osaka
Cầu thủ bóng đá J1 League
Cầu thủ bóng đá J2 League
Cầu thủ bóng đá Roasso Kumamoto
Cầu thủ bóng đá V-Varen Nagasaki
Cầu thủ bóng đá Vissel Kobe
|
2843823
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onthophagus%20illotus
|
Onthophagus illotus
|
Onthophagus illotus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae).
Chú thích
Liên kết ngoài
I
|
15114532
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dine%20Potter
|
Dine Potter
|
Dine Potter (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1975) là một vận động viên chạy nước rút người Antigua và Barbuda. Bà đã tham gia cuộc thi tiếp sức 4 × 100 mét nữ tại Thế vận hội Mùa hè 1996.
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1975
|
2927441
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hypocoena%20orientalis
|
Hypocoena orientalis
|
Hypocoena orientalis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hypocoena
|
3274269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trinh%20n%E1%BB%AF%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Trinh nữ (định hướng)
|
Trinh nữ trong tiếng Việt có thể chỉ:
Văn hóa
Khái niệm trong đời sống về trinh nữ là người phụ nữ còn trinh tiết.
Trinh nữ Phần Lan: một nhân vật hư cấu, biểu tượng trong đời sống ở Phần Lan.
Thực vật
Phân họ Amaryllidoideae
Chi Crinum: chi náng, chi nàng.
Crinum latifolium: trinh nữ hoàng cung, tỏi lơi lá rộng.
Phân họ Mimosoideae: phân họ trinh nữ.
Chi Mimosa: chi trinh nữ, chi xấu hổ.
Mimosa pudica: trinh nữ, xấu hổ
Mimosa pigra: trinh nữ nhọn, trinh nam, mai dương.
Mimosa diplotricha: trinh nữ móc.
Mimosa scabrella: trinh nữ nhám.
Mimosa invisa: trinh nữ xanh.
|
2659947
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Systatica%20xanthastis
|
Systatica xanthastis
|
Systatica xanthastis là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Systatica
|
14184594
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nakashima%20Ryosuke
|
Nakashima Ryosuke
|
Ryosuke Nakashima (sinh ngày 28 tháng 4 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Ryosuke Nakashima đã từng chơi cho Júbilo Iwata.
Tham khảo
Sinh năm 1988
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
|
3162557
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20Li%C3%AAn%20bang%20Nga
|
Quốc hội Liên bang Nga
|
Quốc hội Liên bang Nga () là cơ quan đại diện và lập pháp tối cao của Liên bang Nga. Chức năng và nhiệm vụ được quy định tại chương 5 Hiến pháp Nga. Theo điều 95 Hiến pháp: "Quốc hội Liên bang bao gồm 2 viện: Hội đồng Liên bang và Duma Quốc gia".
Điều 99 Hiến pháp quy định "Quốc hội Liên bang là cơ quan thường trực". Điều 100 Hiến pháp: "Vị trí của 2 viện khác nhau nhưng có thể tập trung lại nghe thông điệp Liên bang của Tổng thống hoặc thông báo của Tòa án Hiến pháp và lãnh đạo nước ngoài".
Hội đồng Liên bang tức thượng viện Nga. Chủ tịch Hội đồng Liên bang có quyền lực thứ 3 sau Tổng thống và Thủ tướng. Khi Tổng thống và Thủ tướng mất khả năng đảm nhiệm chức vụ, Chủ tịch Hội đồng Liên bang có quyền trở thành Quyền Tổng thống.
Duma Quốc gia tức hạ viện Nga. Duma Quốc gia có quyền: bổ nhiệm Chính phủ, giám sát và quyết định các vấn đề của Chính phủ; Bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm Thống đốc Ngân hàng Trung ương, Chánh văn phòng Kiểm toán và một nửa nhân viên,...công bố lệnh ân xá, luận tội Tổng thống...
Hội đồng Liên bang có thẩm quyền: sửa đổi biên giới của các chủ thể liên bang, phê chuẩn nghị định của Tổng thống về việc thiết quân luật hoặc ban bố tình trạng khẩn cấp, quyết định sử dụng lực lượng vũ trang bên ngoài lãnh thổ Nga, bổ nhiệm Tổng thống thông qua bầu cử, bổ nhiệm Tòa án cấp cao, Tổng công tố, Phó chánh văn phòng Kiểm toàn và một nửa nhân viên.
Cơ cấu
Hội đồng gồm 2 viện. Thành phần và quyền hạn của 2 viện khác nhau. Duma Quốc gia có 450 người, tại Hội đồng Liên bang mỗi chủ thể liên bang cử hai đại diện, bao gồm một đại diện của cơ quan lập pháp và một đại diện của cơ quan hành pháp. Vì vậy một người không thể đồng thời đảm nhiệm ở 2 viện. Duma có nhiệm kỳ là 5 năm, Hội đồng Liên bang không có nhiệm kỳ, chỉ thay đổi thành viên khi chủ thể liên bang thay đổi nhân sự.
Quyền hạn
Quốc hội là cơ quan lập pháp tối cao tại Nga. Tất cả các luật phải được thông qua bởi Quốc hội mới có hiệu lực. Tất cả bản dự thảo luật, ngay cả do Hội đồng Liên bang đề nghị vẫn phải xem xét đầu tiên tại Duma Quốc gia. Sau khi Duma Quốc gia thông qua được xem xét tiếp tục tại Hội đồng Liên bang. Hội đồng có 14 ngày để dự thảo được phê chuẩn hoặc bác bỏ. Hội đồng không có quyền sửa đổi dự thảo do Duma thông qua, chỉ có quyền phê chuẩn hoặc bác bỏ. Nếu Hội đồng bác bỏ sẽ thành lập Ủy ban hòa giải để thỏa hiệp giữa 2 viện.
Duma và Hội đồng Liên bang thường tổ chức riêng. Chỉ họp chung khi nghe thông điệp của Tổng thống, thông báo của Tòa án Hiến pháp và khi lãnh đạo các nước viếng thăm.
Xem thêm
Duma Quốc gia
Hội đồng Liên bang
Tham khảo
Liên kết ngoài
Liên bang Nga ngày nay — Trang chủ chính thức của Quốc hội Liên bang
Tham khảo
Trang web của Quốc hội Liên bang
Tổ chức của Chính phủ: Quốc hội Liên bang
Khởi đầu năm 1993
Nghị viện châu Âu
Nga
Lập pháp lưỡng viện
Chính phủ Nga
|
3116459
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eunephrops
|
Eunephrops
|
Eunephrops là một chi trong Họ Tôm hùm càng được tìm thấy ở Đại Tây Dương:
Các loài
Chi này gồm 4 loài:
Eunephrops bairdii Smith, 1885
Eunephrops cadenasi Chace, 1939
Eunephrops luckhursti Manning, 1997
Eunephrops manningi Holthuis, 1974
Tham khảo
Động vật giáp xác Đại Tây Dương
|
19742295
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20Th%E1%BB%8B%20Song%20An
|
Lê Thị Song An
|
Lê Thị Song An (sinh ngày 11 tháng 10 năm 1977 tại Thủ Thừa, Long An) là một chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng ủy, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Long An. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV nhiệm kì 2021-2026 tỉnh Long An, Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV tỉnh Long An, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Quốc hội.
Sự nghiệp
Bà vào Đảng ngày 2-9-2002
- 9/2000 - 8/2004: Giáo viên công tác tại trường THPT Thủ Thừa, Long An
- 9/2004 - 4/2013: Giáo viên công tác tại trường THPT Lê Quý Đôn, thành phố Tân An, Long An
- 5/2013 - 8/2014: Phó Hiệu trưởng trường THPT Lê Quý Đôn
- 9/2014 - 9/2015: Phó Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Tân An, Long An
- 10/2015 - 12/2019: Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Tân An, Long An
- 1/2020 - 9/2021: Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Long An, Ủy viên BCH Đảng bộ Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Long An
- 7/2021 - nay: Đại biểu Quốc hội khóa XV, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội và Phó Trưởng Đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Long An
Tham khảo
Đại biểu Quốc hội Việt Nam tỉnh Long An
|
10545762
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20Khanh
|
Vũ Khanh
|
Vũ Công Khanh (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1954 tại Hà Nội) thường được biết đến với nghệ danh Vũ Khanh là một ca sĩ Việt Nam hoạt động ở hải ngoại.
Tiểu sử
Vũ Khanh sinh ra trong gia đình 11 anh em và là đứa con duy nhất đi theo nghiệp hát. Anh tốt nghiệp khóa cuối trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn, Mặc dù đam mê âm nhạc, anh cho biết là ở Việt Nam nhà nghèo nên chỉ đủ tiền để theo học kịch nghệ. Vũ Khanh "đi hát từ những quán cà phê, hội quán bình dân, quán ăn suốt mấy năm trời trước khi được bước vào hát ở phòng trà chuyên nghiệp Ritz (1978)" . Anh lần đầu được khán giả biết tới nhiều qua nhạc bản "Cô hàng nước" trình bày tại một đại nhạc hội ở San Diego (Mỹ) năm 1978.
Bạn diễn ăn ý nhất của Vũ Khanh là Ý Lan.
Nhận xét
Nhạc sĩ Từ Công Phụng đánh giá anh là một trong những giọng ca nam xuất sắc nhất tại hải ngoại: “Về nam ca sĩ, hiện nay ở hải ngoại tôi thấy có hai giọng ca có kỹ thuật và có vẻ quyến rũ là Tuấn Ngọc và Vũ Khanh. " Nhiều người so sánh Vũ Khanh với nam danh ca Sỹ Phú, bởi chất giọng, phong cách biểu diễn của cả hai có nhiều nét tương đồng. Anh thể hiện rất thành công các ca khúc nổi tiếng của các nhạc sĩ như Trầm Tử Thiêng, Phạm Duy, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Song Ngọc…
Sự nghiệp
Chương trình thu hình
Trung tâm Mây
Trung tâm Asia
Trung tâm Thúy Nga
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Người Hà Nội
Nam ca sĩ Việt Nam
Người Việt di cư tới Mỹ
Ca sĩ Trung tâm Asia
Ca sĩ Trung tâm Thúy Nga
Nghệ sĩ Công giáo Việt Nam
Tín hữu Công giáo Việt Nam
|
2914009
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Elaphria%20rasilis
|
Elaphria rasilis
|
Elaphria rasilis là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Elaphria
|
2698396
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agassiziella%20kwangtungiale
|
Agassiziella kwangtungiale
|
Agassiziella kwangtungiale là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Agassiziella
|
3346207
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20C%E1%BA%A3nh%20Du
|
Hoàng Cảnh Du
|
Hoàng Cảnh Du (tiếng Trung: 黄景瑜, bính âm: Huáng Jǐngyú, sinh ngày 30 tháng 11 năm 1992) là một nam diễn viên người Trung Quốc. Anh được công chúng biết đến rộng rãi nhờ thủ vai chính Cố Hải trong webdrama Thượng Ẩn được công chiếu vào năm 2016. Cùng năm, anh thành lập Studio Hoàng Cảnh Du, sau đó tuyên bố gia nhập công ty quản lý Càn Trừng (Lucida). Năm 2018 đóng chính trong bộ phim điện ảnh Hành động biển đỏ, bộ phim đạt hơn 3,6 tỷ phòng vé, trong phim cậu đóng vai lính bắn tỉa Cố Thuận, với hình ảnh người lính kiên cường, cùng năm đóng chính trong bộ phim chiếu mạng Kết ái - Mối tình đầu của Thiên Tuế đại nhân, đóng vai Hạ Lan Tĩnh Đình. Đạt giải nam diễn viên xuất sắc nhất tại Giải Hoa Đỉnh lần thứ 24 chủ đề phim truyền hình đương đại, kỷ năng diễn xuất được công nhận.
Thời niên thiếu
Hoàng Cảnh Du là người Đan Đông, Liêu Ninh, Trung Quốc. Khi lớn lên, anh học hỏi và có niềm đam mê nhu thuật Brasil và đã tham gia không ít cuộc thi. Thành tích cao nhất của anh là quán quân trận chung kết giải vô địch SHBJJ của Học viện Nhu thuật Brasil Thượng Hải.
Từng học tại trường Trung học Số 13 thành phố Đan Đông, sau đó vào học viện Liêu Đông học chuyên ngành hàng không. Anh ấy đã từng làm biên tập viên đài phát thanh, phục vụ, học nghề công xưởng, học nghề chuyên viên thí nghiệm đất đai,.v.v.. Vì dáng vóc cao và gương mặt tuấn tú nên sau đó được bạn giới thiệu làm người mẫu.
Sự nghiệp
Năm 2013, Hoàng Cảnh Du nhiều lần xuất hiện với vai trò người mẫu trong chương trình chương trình Tôi là đại mỹ nhân (tiếng Trung: 我是大美人) của Đài Truyền hình Hồ Nam. Tháng 1 năm 2016, anh tham gia đóng vai chính trong webdrama BL học đường Thượng Ẩn, cái tên Hoàng Cảnh Du được đông đảo khán giả hâm mộ và biết tới. Bộ phim đã lọt vào top 10 trên các trang chia sẻ video với số lượt click rất cao. Tính tới ngày 31/03/2016, Weibo của Hoàng Cảnh Du đã đạt đến mốc 3 triệu lượt người theo dõi
Năm 2016 - 2017
Năm 2016, tham gia đóng vai chính trong bộ phim chiếu mạng Thượng Ẩn và chính thức bước vào giới giải trí
Ngày 5/3: Trong chương trình mạng "Ngu Nhạc Hữu Phạn" đã đặt tên cho fandom là Hộ Kình Đoàn
Ngày 16/4: Với tư cách là khách mời đặc biệt, tham gia show diễn của Trương Huệ Muội tại Thái Lan. Còn cùng Trương Huệ Muội hát bài "Em chỉ quan tâm anh"
Ngày 19/4: Trong lễ trao giải thưởng âm nhạc thường niên Phong Vân Bảng, nhận được giải thưởng Thần Tượng Mới, do truyền thông bình chọn.
Ngày 4/5: Đạt vị trí thứ 2 trong Top 10 Diễn viên Châu Á
Ngày 11/5: Thành lập Studio Hoàng Cảnh Du
12/5: Trở thành thành viên cố định trong show Hẹn hò Đại Minh Tinh, chương trình sau 5 ngày phát sóng, đạt hơn 500 triệu lượt xem
17/5: Với tư cách đại sứ trao đổi diễn đàn thanh niên eo biển, nhận được lời mời tham dự diễn đàn trên và được phong là đại sứ trao đổi văn hoá eo biển
24/7: Studio Hoàng Cảnh Du tuyên bố Hoàng Cảnh Du sẽ cùng nhà sản xuất gạo cội Trương Gia Chấn hợp tác, Gia nhập công ty TNHH Văn Hoá Truyền hình Càn Trừng Thượng Hải của Trương Gia Chấn, được thành lập vào tháng 6 cùng năm, trở thành nghệ sĩ hợp đồng của công ty này. Đồng thời trên weibo phát hành hashtag Diễn viên Hoàng Cảnh Du, chính thức bước vào giới diễn viên.
14/11: Tuyên bố là diễn viên chính trong bộ phim điện ảnh Trung Quốc đầu tiên với chủ đề zombie - Thương pháo yêu, diễn vai nam chính A Mông, đây cũng là bộ phim điện ảnh đầu tiên của Hoàng Cảnh Du.
18/12: Netease nhân vật có thái độ - đạt giải thưởng "Thế lực mới của năm - Thần Tượng Toàn Cầu"
21/12: Youku lựa chọn tuổi trẻ - đạt giải "Thần Tượng xu hướng của năm"
30/12: tham gia diễn xuất trong phim "Bán yêu khuynh thành" với chủ đề tình yêu huyền ảo thời dân quốc, trong phim diễn vai Nỗ Nhĩ Cáp Xích - Thanh Thái Tộc
Tháng 2/ 2017: Đóng chính trong bộ phim điện ảnh với chủ đề quân sự yêu nước Hành động biển đỏ của đạo diễn Lâm Siêu Hiền, trong phim anh đóng vai lính bắn tỉa Cố Thuận của đội đột kích Giao Long, và cũng hát chính trong ca khúc chủ đề cùng tên của bộ phim
Tháng 6: Tham dự diễn đàn Thanh Niên Eo Biển lần thứ 15, nhận được danh hiệu Sứ giả trao đổi văn hoá thanh niên. Cùng đoàn phim Thương pháo yêu hoa tham gia liên hoan phim quốc tế Thượng Hải, và tham dự hoạt động Đêm Vạn Đạt. Cùng năm, với tư cách là diễn viên trẻ "Đối tác ngôi sao Netease" tham dự diễn đàn chủ đề "Giải mã cơ hội mới cho phim Trung Quốc" do liên hoan phim Thượng Hải và Netease Entertainment tổ chức. Và nhận thư mời trở thành Tinh Tiểu Biên (biên tập viên) của Netease.
Tháng 7: Phim điện ảnh Hành động biển đỏ đóng máy tại Trạm Giang, cùng tháng, tham gia diễn xuất trong phần ngoại truyện của bộ phim truyền hình Vì em anh nguyện yêu thương cả thế giới, được cải biên từ tiểu thuyết cùng tên của Đường Gia Tam Thiếu. Anh đóng vai siêu anh hùng Trường Cung Uy.
Tháng 8: Đóng vai chính trong bộ phim thần tượng Kết ái - Mối tình đầu của Thiên Tuế đại nhân, Hoàng Cảnh Du trong phim đóng vai chủ tế Hồ Tộc - Hạ Lan Tĩnh Đình.
Tháng 12: Với tư cách là khách mời thường xuyên tham gia ghi hình cho show ngoài trời Vương Giả Xuất Kích của Tencent.
Năm 2018
Ngày 18/1: Tham gia phim truyền hình chống ma tuý "Hành động phá băng" – là dự án thuộc kế hoạch tuyên truyền trọng điểm hàng năm của bộ công an, cục tuyên huấn Trung Quốc , cùng các tiền bối Nhậm Đạt Hoa, Ngô Cương tham gia lễ ra mắt phim tại Quảng Châu.
Ngày 26/02: Bộ phim về lực lượng hải quân "Hành động biển đỏ" chính thức ra rạp. Hoàng Cảnh Du diễn vai Cố Thuận – tay súng bắn tỉa trong phim. Tổng doanh thu của phim đạt 3,6 nhân dân tệ. Diễn xuất của Hoàng Cảnh Du được khẳng định, nhận được sự chú ý của công chúng.
Ngày 9/05: Bộ phim thần tượng mang phong cách lãng mạn giả tưởng mang tên "Kết Ái – mối tình đầu của thiên tuế đại nhân" được chiếu trên mạng Tencent. Trong phim này Hoàng Cảnh Du diễn vai chính Hạ Lan Tĩnh Đình, một thủ lĩnh của Hồ Tộc. Bộ phim gây được tiếng vang rất lớn sau khi phát sóng, một lần nữa làm nóng tên tuổi của Hoàng Cảnh Du sau thành công của "Hồng Hải hành động".
Ngày 22/05: Bộ phim "Kiều mạch phong trường" do Hoàng Cảnh Du thủ vai nam chính khai máy tại Trùng Khánh. Nội dung phim xoay quanh duyên phận kì lạ của 2 cô gái và 1 chàng trai trẻ mới bước vào đời trên con đường tìm kiếm cuộc sống mới tại Thượng Hải. Bộ phim đánh dấu lần đầu tiên Hoàng Cảnh Du hợp tác cùng ảnh hậu Kim Mã Mã Tư Thuần và nữ diễn viên Chung Sở Hy.
Ngày 27/05: Trở thành khách mời cố định của chương trình truyền hình thực tế "Baby, let me go"/ "Bé con, buông anh ra" mùa thứ 3. Sau chương trình anh được biết đến với hình ảnh một anh trai ấm áp.
Ngày 6/08: Xác nhận tham gia bộ phim "Phi trì nhân sinh" của đạo diễn Hàn Hàn với vai tay đua Lâm Trăn Đông. Bộ phim dự kiến được phát hành vào ngày 5/02/2019
Ngày 25/10: đại diện đoàn phim "Hành động biển đỏ" tham gia lễ khai mạc Liên hoan phim Tokyo cùng với nữ diễn viên Hải Thanh (diễn vai phóng viên Hạ Nam trong phim)
Ngày 26/20: Đại diện đoàn phim "Hành động biển đỏ" tham dự lễ trao giải Kim Hạc, một giải phụ bên lề liên hoan phim quốc tế Tokyo và giành được giải cho diễn viên nổi tiếng nhất . Đồng thời, anh cũng tham gia giao lưu với người hâm mộ tại buổi gặp gỡ thuộc khuôn khổ Liên hoan phim Tokyo
Ngày 11/09: Tham dự buổi lễ đề cử giải LHP Bách Hoa lần thứ 34 được tổ chức tại Phật Sơn . Anh được đề cử cho hạng mục "nam diễn viên mới xuất sắc nhất" và tham gia biểu diễn bài hát chủ đề cùng tên trong phim "Hành động biển đỏ".
Tối ngày 9, tham dự lễ trao giải Hoa Đỉnh lần thứ 24 tổ chức tại Hồng Kông và đoạt giải "nam diễn viên xuất sắc nhất" cho "hồ ly đại nhân" Hạ Lan Tĩnh Đình trong bộ phim truyền hình hiện đại "Kết Ái – Mối tình đầu của thiên tuế đại nhân". Annh phát biểu trong lời cảm ơn khi nhận giải "sẽ tiếp tục nỗ lực làm việc trong tương lai và mang đến nhiều vai diễn truyền hình trong năm tới"
Ngày 10/11: Tham dự lễ trao giải LHP Bách Hoa lần thứ 34 cùng đoàn phim "Hồng Hải hành động"
Ngày 30/11: Tổ chức fanmeeting mừng sinh nhật tại Thành Đô mang tên "Cưỡi gió đạp sóng – Du bạn đồng hành"
Ngày 4/12: Khai máy bộ phim tình cảm hài giả tưởng "Alice ngày rằm". Hoàng Cảnh Du đóng vai chính thiên tài âm nhạc Hàn Băng, cùng nữ chính do Quan Hiểu Đồng thủ diễn bắt đầu một chuyện tình yêu kỳ ảo
Ngày 8/12: 2 lần xuất hiện trên thảm đỏ LHP Hoa Biểu lần thứ 17, với tư cách là diễn viên của 2 bộ phim "Hồng Hải hành động" và "Phi trì nhân sinh" , sau đó tham gia biểu diễn "Sân khấu hay nhất" trong vai trò khách mời.
Năm 2019
Ngày 1/01: Trong chương trình đặc biệt mừng năm mới của đài CCTV với chủ đề "Bài ca của thời đại mới", anh cùng dàn diễn viên phim "Phi trì nhân sinh" biểu diễn bài hát "Phụng hiến".
Ngày 12/1: Trở thành đại sứ thanh niên của giải thưởng điện ảnh Châu Á lần thứ 13 .
Ngày 22, vai tay súng bắn tỉa Cố Chuẩn được đề cử tranh giải "nam diễn viên mới xuất sắc nhất" giải thưởng điện ảnh Châu Á lần thứ 13
Ngày 26/01: Nhận vai chính trong bộ phim tình yêu đô thị "3 kiếp may mắn gặp được em" khởi quay tại Thâm Quyến. Trong phim hoàng Cảnh Du diễn vai Hầu Tước, một người vô cùng ưu tú được bảo vệ bởi nhân vật của Vương Lệ Khôn thủ vai, tạo nên một câu truyện tình yêu tuyệt vời về "giá trị của vũ lực".
Ngày 5/02 (mùng 5 Tết): Bộ phim hài đầy cảm hứng "Phi trì nhân sinh" của đạo diễn Hàn Hàn ra rạp. Trong phim, Hoàng Cảnh Du đóng vai tay đua kiệt xuất Lâm Trăn Đông.
Ngày 17/03: Tham dự lễ trao giải thưởng điện ảnh Châu Á lần thứ 13 và xuất hiện trên thảm đỏ cùng Dương Thụ Thành – chủ tịch tập đoàn Anh Hoàng. Ngoài việc trở thành đại sứ thanh niên của giải thưởng, Hoàng Cảnh Du cũng được đề cử cho giải "nam diễn viên mới xuất sắc nhất" nhờ vai diễn trong phim "Hồng Hải hành động", và chiến thắng giải này sau đó
Ngày 29/04: Khai máy bộ phim tình yêu lãng mạn đô thị về đề tài thương mại điện tử "Thanh xuân sáng thế kỷ", bạn diễn là Ngô Cẩn Ngôn. Hoàng cảnh Du đóng vai một "tổng tài" trong ngành bán lẻ.
Ngày 7/05: Bộ phim truyền hình đề tài phòng chống ma tuý do Hoàng Cảnh Du thủ vai Lý Phi – một cảnh sát trẻ đại diện cho chính nghĩa dám đứng lên chống lại các thế lực đen tối – "Hành động phá băng" được phát sóng trên CCTV và iQiyi
Ngày 3/09: Trở thành khách mời thường xuyên của chương trình thực tế mới của đài vệ tinh Chiết Giang "Đuổi theo tôi" – nội dung khám phá đời sống đêm tại thành phố.
Ngày 20/09: Bộ phim lịch sử-tiểu sử "Mao Trạch Đông 1949"/ "Thời khắc quyết thắng" ra rạp. Trong phim Hoàng Cảnh Du đóng vai Trần Hữu Phú - người cận vệ đầy nhiệt huyết của Mao Trạch Đông.
Ngày 20/09: Bộ phim tình cảm đô thị đề tài kinh doanh "Định chế tình yêu cao cấp" đóng cùng nữ chính Địch Lệ Nhiệt Ba chính thức khai máy tại Thượng Hải. Trong phim, Hoàng Cảnh Du thủ vai Tống Lẫm, một tổng tài lạnh lùng và tài giỏi.
Ngày 22/09: Tham dự tuần lễ thời trang Milan với vai trò người phát ngôn mảng thời trang thể thao của nhãn hàng FILA.
Tác phẩm
Phim điện ảnh
Phim dài tập
Chương trình truyền hình
Photobook
Âm nhạc
Ca khúc
Concert
Fanmeeting
Giải thưởng
Vinh danh
Hoạt động từ thiện
Ngày 26/02/2016, Hoàng Cảnh Du được mời tham gia chương trình "Phản đối bạo lực gia đình" phát sóng trực tiếp của NetEase, thực nghiệm hóa trang hiệu ứng đặc biệt "vết thương do bạo lực gia đình" tại hiện trường, kêu gọi công chúng ngày càng chú ý đến vấn đề bạo lực gia đình của một số ít người.
Ngày 22/08/2016, Hoàng Cảnh Du tham dự hoạt động gây quỹ từ thiện Đêm từ thiện Bazaar Star "Vẽ đường sinh mệnh", thu về 12,38 triệu đồng tiền thưởng (123.800 nhân dân tệ) cho hạng mục dự án xe cứu thương của Bazaar, quyên tặng cho quận nghèo Siyuan 02 xe cứu thương, và trong 26 phút phát sóng trực tiếp đã làm mới số liệu lịch sử cùng thời điểm kể từ khi khởi động dự án phúc lợi công cộng này.
Tháng 9 năm 2016, Hoàng Cảnh Du đảm nhiệm hạng mục đại sứ phát triển "Bảo vệ loài tê tê" của Quỹ bảo vệ môi trường Trung Hoa, lấy hành động cụ thể kêu gọi mọi người cùng nhau bảo vệ loài động vật tê tê hiện đang bị đe dọa nghiêm trọng; đồng thời, cậu ấy còn quyên tặng toàn bộ lợi nhuận thu được từ việc bán Photobook đầu tiên của mình là "Trạch hải kình ngư", trong đó 50% tặng cho hạng mục "Kế hoạch đồ dùng học tập ánh mặt trời" của Bazaar công ích, 50% còn lại tặng cho Quỹ bảo vệ môi trường Trung Hoa hạng mục "Bảo vệ loài tê tê"
Ngày 19/12/2016, Hoàng Cảnh Du tham dự "Đêm hội từ thiện thời trang kỹ thuật số" (Digital Fashion Festival Charity Night) với vai trò là khách mời danh dự. Số tiền thu được từ việc bán đấu giá được quyên góp cho Chương trình hỗ trợ học tập cho trẻ em nghèo và trẻ em đặc biệt .
Ngày 17/06/2017, Hoàng Cảnh Du được mời tham dự Diễn đàn thanh niên Eo biển lần thứ 15, và được trao giấy chứng nhận "Sứ giả trao đổi văn hóa thanh niên giữa Phúc Kiến và Đài Loan" .
Ngày 12/09/2017, Hoàng Cảnh Du tham dự "Lễ kỷ niệm 5 năm Ngôi sao thiết kế Bazaar" với tư cách là "Đại sứ ngôi sao công ích", vì công ích mà trợ lực.
Ngày 26/3/2018, Hoàng Cảnh Du nhận lời mời tham gia "Live của Đoàn Đoàn" tại đây anh thẳng thắn chia sẻ quan điểm của mình về trách nhiệm xã hội. Hoàng Cảnh Du bày tỏ: "Nếu chúng ta làm điều gì đó tốt, có thể ảnh hưởng đến nhiều người ở xung quanh chúng ta làm điều tốt. Thật ra đây là sự đóng góp hướng dẫn rất tốt đối với xã hội và sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta vui vẻ hơn, mọi người đều sẽ hạnh phúc hơn. "
Ngày 23/4 đến ngày 30/4/2019, Hoàng Cảnh Du đảm nhiệm làm đại sứ kế hoạch cho chương trình "Kế Hoạch Giải Mộng" cùng với Trần Học Đông, Vương Tử Văn và Lục Định Hạo chuẩn bị kế hoạch tình yêu và xây dựng thư viện cho trẻ em nghèo.
Ngày 1/9/2018, Hoàng Cảnh Du tuyên bố trở thành đại sứ yêu thương của Hiệp hội Trẻ em Trung Hoa và hỗ trợ hạng mục hi vọng về nhà "Kế hoạch bảo vệ Trẻ em" của Hiệp hội Trẻ em Trung Hoa, bảo vệ tất cả trẻ em được phát triển an toàn và hạnh phúc. Vào ngày 5 tháng 9 năm 2018, Hoàng Cảnh Du đã hỗ trợ "Kế hoạch bảo vệ Trẻ em" của Nhóm Dự án Trẻ em Trung Quốc trong Dịch vụ Tài chính và Phúc lợi Công cộng của Alibaba và kêu gọi mọi người tham gia hoạt động tuyên truyền an toàn cho trẻ em, để càng nhiều đứa trẻ được sống trong sự bảo vệ an toàn mà trưởng thành.
Ngày 7/9/2018, Quỹ Bảo vệ Môi trường Trung Quốc đã phát hành dự án từ thiện của Chương trình Shasha Plan, "Góp điều thiện nhỏ, thành yêu thương lớn", cùng minh tinh Hoàng Cảnh Du trải nghiệm Ngày phúc lợi công cộng 99 năm 2018. Tham gia quyên góp sẽ nhận được 10 lần quyên xứng đáng, bảo vệ con đường G7 đẹp nhất và giúp đỡ vành đai xanh.
Ngày 22/9/2018, Hoàng Cảnh Du trên weibo chính thức của bộ phim "Đau thương ngược dòng thành sông" đã lên tiếng cho những người chịu tổn thương do bạo lực học đường, khích lệ các nạn nhân vượt qua nỗi đau.
Ngày 1/11/2018, tham gia Ngôi sao từ thiện của App Baidu quyên tặng năng lượng cho những người nông dân nghèo ở vùng núi Quý Châu, để Việc thiện nhỏ bé phát triển thành ánh sáng to lớn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1992
Nam diễn viên truyền hình Trung Quốc
Nhân vật còn sống
Nam diễn viên điện ảnh Trung Quốc
Nghệ sĩ Trung Quốc sinh năm 1992
|
19721218
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xin%20%C4%91%E1%BB%ABng%20g%C3%A1c%20m%C3%A1y
|
Xin đừng gác máy
|
Xin đừng gác máy (tiếng Trung: 保持通話, tiếng Anh: Connected, Hán-Việt: Bảo trì thành thoại) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hành động - bí ẩn - giật gân do Hồng Kông và Trung Quốc hợp tác sản xuất năm 2008. Là bản làm lại từ bộ phim gốc Cellular của Mỹ ra mắt năm 2004, tác phẩm do Trần Mộc Thắng viết kịch bản, làm đạo diễn và hợp tác sản xuất, với sự tham gia của dàn diễn viên chính gồm Cổ Thiên Lạc, Từ Hy Viên, Trương Gia Huy và Lưu Diệp.
Ý tưởng về tác phẩm này do Hãng phim Warner Trung Hoa, công ty chi nhánh Trung Quốc của hãng phim Warner Bros. đề xướng. Thông qua tác phẩm, hãng phim này cũng mong muốn người dân trên toàn Hồng Kông sẽ sử dụng điện thoại di động nhiều hơn, chính vì thế mà để chuẩn bị chu đáo cho tác phẩm, hãng phim đã mời Trần Mộc Thắng đến để xây dựng và trau chuốt khâu kịch bản cho bộ phim. Với nhiệm vụ được giao, Mộc Thắng cùng với các cộng sự dành hai năm để xem lại bản gốc của bộ phim, rồi sau đó họ sẽ thực hiện viết, sửa, và trau chuốt kịch bản sao cho phù hợp với văn hóa và cách nghĩ của người Trung Quốc, để từ đó hoàn thành cuốn kịch bản hoàn chỉnh. Quá trình quay phim cho tác phẩm được diễn ra tại Hồng Kông từ cuối năm 2007 và chính thức đóng máy vào đầu năm 2008.
Phim chính thức ra mắt tại Hồng Kông từ ngày 25 tháng 9 năm 2008. Tại Việt Nam, phim được BHD và Saigon Movies Media mua bản quyền và chính thức ra mắt tại các cụm rạp trên toàn quốc từ ngày 7 tháng 11 năm 2008. Dù được các nhà phê bình phim đánh giá khá cao, nhưng bộ phim này chỉ thu được 13.64 triệu HKD so với kinh phí sản xuất lên đến 45 triệu HKD. Bộ phim đã giành giải Dựng phim xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 28 và giải Kim Mã lần thứ 45, ngoài ra phim còn được đề cử các hạng mục cá nhân tại giải, trong đó có hạng mục Đạo diễn xuất sắc nhất.
Nội dung
Chuyện phim xoay quanh ba con người với những hoàn cảnh khác nhau: Vương Hải Tình (Từ Hy Viên) là một nữ kỹ sư máy tính và là bà mẹ đơn thân của cô con gái nhỏ, A Bang (Cổ Thiên Lạc) là một ông bố trẻ “gà trống nuôi con” chuyên sống bằng nghề đòi nợ thuê, và Dư Chấn Huy (Trương Gia Huy), một viên cảnh sát hình sự đã “về vườn”.
Vương Hải Tình đang lái xe trên đường thì bị một nhóm người bắt cóc. Nhóm bắt cóc, dẫn đầu bởi Hoắc Đức Năng, đưa cô đến một căn nhà hoang. Hải Tình đã sửa chữa một chiếc điện thoại rồi liên lạc được với A Bang, một người bố đơn thân làm nghề đòi nợ thuê. A Bang đã hứa sẽ gặp con trai mình ở sân bay trước khi cậu bé lên máy bay sang Úc.
Nhận được cuộc gọi của Hải Tình, A Bang đồng ý giúp cô. Đức Năng giết một người bạn của em trai Hải Tình, rồi đi bắt cóc Phương Như Đình, con gái cô. Hải Tình thuyết phục A Bang đến trường học đón Như Đình trước khi nhóm của Đức Năng đến, nhưng anh đã chậm một bước, Như Đình đã bị bắt đi. A Bang đuổi theo nhóm bắt cóc thì bị mất dấu. Sau đó anh tìm thấy khẩu súng của một người đồng nghiệp trong xe mình.
Thấy điện thoại sắp hết pin, A Bang vào cửa hàng điện thoại để mua bộ sạc pin. Anh bắn một phát súng xuống sàn để thúc giục người nhân viên bán hàng và lấy bộ sạc đi. Khi hình ảnh của A Bang bị quay lại bởi máy quay giám sát ở trường học và cửa hàng điện thoại, viên cảnh sát Dư Chấn Huy liền đến nhà Hải Tình để tìm hiểu sự việc. Tại đây, anh nói chuyện với Michelle, người đóng giả Hải Tình và cũng là thành viên trong nhóm bắt cóc. Trong khi đó, Đức Năng truy tìm Vĩ Kiện, em trai của Hải Tình, hiện đang nằm trong bệnh viện.
Chấn Huy thử gọi điện đến nhà Hải Tình, nhận ra Hải Tình là người nói tiếng Quan thoại trong khi người phụ nữ giả mạo lại nói tiếng Quảng Đông. Tại bệnh viện, A Bang phát hiện ra nhóm bắt cóc chính là đặc vụ Interpol. Chúng đã bắt được Vĩ Kiện và đưa anh ta đến một ngọn đồi nơi anh ta giấu một máy quay phim. A Bang xông vào giật chiếc máy quay và bỏ chạy, lúc này anh đã mất liên lạc với Hải Tình.
Chấn Huy lẻn vào nhà Hải Tình và bắn chết Michelle sau một trận ẩu đả với cô ta. Tại nhà hoang, Hải Tình giết được một tên đặc vụ rồi dẫn con gái bỏ chạy nhưng đã bị bắt lại. A Bang xem đoạn phim trong máy quay thì thấy cảnh Đức Năng hành quyết bọn tội phạm buôn ma túy và cướp số hàng của chúng, việc này cho thấy nhóm của hắn là cảnh sát bẩn. Vụ việc trên được Vĩ Kiện quay phim lại, và bây giờ bọn đặc vụ muốn hủy bằng chứng và thủ tiêu nhân chứng. A Bang gọi cho Đức Năng, bảo hắn gặp anh ở sân bay để trao đổi bằng chứng và con tin.
Tại sân bay, A Bang yêu cầu Đức Năng thả gia đình Hải Tình ra trước. Anh bị nhóm của Đức Năng truy đuổi, Chấn Huy cũng đến giúp anh bỏ chạy. Nhóm của Đức Năng sau đó bị bắt giữ bởi lực lượng cảnh sát do Thanh tra Trương dẫn đầu. A Bang đưa chiếc máy quay cho Trương, rồi nhận ra hắn có thông đồng với Đức Năng, vụ bắt giữ chỉ là màn kịch đánh lừa anh. A Bang và Chấn Huy cùng nhau chiến đấu chống lại bọn cảnh sát bẩn. Chấn Huy bắn chết Trương khi hắn dùng xe nâng hạ tấn công anh. Đức Năng chết do rơi khỏi giàn giáo. Trước đó A Bang đã sao chép đoạn phim vào điện thoại của mình rồi gửi nó đến đồn cảnh sát. Ở bãi đậu xe, các cảnh sát tìm thấy gia đình Hải Tình. Chấn Huy tạm biệt A Bang và ra về. A Bang và Hải Tình gặp nhau trực tiếp lần đầu tiên, Hải Tình nói lời cảm ơn A Bang. A Bang gặp con trai mình, giữ đúng lời hứa với cậu bé.
Diễn viên
Cổ Thiên Lạc trong vai A Bang
Từ Hy Viên trong vai Vương Hải Tình
Trương Gia Huy trong vai Dư Chấn Huy
Lưu Diệp trong vai Hoắc Đức Năng
Trương Triệu Huy trong vai Thanh tra Trương
Trần Tuệ San trong vai chị của A Bang
Phàn Thiếu Hoàng trong vai Đặc vụ Đường
Trần Gia Lạc trong vai Vương Vĩ Kiện
Trần Thi Huệ trong vai Phương Như Đình
Ankie Beilke trong vai Michelle
Cung Bội Tất trong vai vợ của Dư Chấn Huy (vai diễn khách mời)
Vương Tổ Lam trong vai nhân viên cửa hàng điện thoại (vai diễn khách mời)
Cốc Đức Chiêu trong vai người lái xe mui trần (vai diễn khách mời)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim năm 2008
Phim Hồng Kông
Phim tiếng Quảng Đông
Phim tiếng Quan thoại
Phim hành động Hồng Kông
Phim làm lại
Phim về bắt cóc
Phim về tham nhũng
Phim về khủng bố
Phim lấy bối cảnh ở trường học
Phim lấy bối cảnh ở Hồng Kông
Phim quay tại Hồng Kông
Phim hành động thập niên 2000
Phim giật gân thập niên 2000
Phim hành động giật gân thập niên 2000
Phim lấy bối cảnh ở thập niên 2000
Phim lấy bối cảnh năm 2008
|
13476812
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Padm%C3%A9%20Amidala
|
Padmé Amidala
|
Padmé Amidala Naberrie là một nhân vật trong loạt phim Chiến tranh giữa các vì sao, xuất hiện trong ba phần tiền truyện, diễn xuất bởi Natalie Portman. Sau khi thời gian làm nữ hoàng của Naboo, cô trở thành một thượng nghị sĩ của Thượng viện Cộng hòa, một nhà hoạt động phản chiến tích cực, và đồng sáng lập tổ chức mà sau này sẽ trở thành Liên minh Nổi dậy. Cô là người vợ bí mật của Jedi Anakin Skywalker, và là mẹ ruột của anh em Luke Skywalker - Leia Organa.
Ý tưởng và sự hình thành
Trong những bản thảo ban đầu của câu chuyện trong Chiến tranh giữa các vì sao, nhân vật mẹ của Luke và Leia không được phát triển nhiều. Theo như Dale Pollock, Luke Skywalker vốn có tên là Luke Starkiller, "Leia là con của Owen Lars và vợ ông, Beru, và có vẻ cô là em họ của Luke – cùng nhau, họ đi thăm mộ cha mẹ Luke, những người đã bỏ mạng trên một hành tinh bị hủy diệt bởi Ngôi sao Tử thần. Trong một cuộc phỏng vấn với George Lucas, khi trả lời những câu hỏi liên quan tới các nhân vật như Obi-Wan Kenobi, Luke, Leia; mẹ của họ không phải là một yếu tố quan trọng:
Phiên bản đầu tiên nói về một cô công chúa và một vị lão tướng. Phiên bản thứ hai bao gồm một người cha cùng con trai và con gái của ông, đứa con gái là người hùng của bộ phim. Giờ thì người con gái đó đã trở thành Luke Skywalker, nhân vật do Mark Hamill thể hiện. Cũng có một phiên bản khác về hai anh em trai, mà sau này tôi đã đổi người em trai thành em gái. Cậu anh trai bị giam cầm, nên cô em gái phải giải cứu anh ta và đưa anh về với cha của họ.
Sử gia phim ảnh Laurent Bouzereau ghi nhận rằng kịch bản thứ hai của phim Sự trở lại của Jedi có bao gồm một đoạn hội thoại trong đó Obi-Wan Kenobi tiết lộ cho Luke về người em gái song sinh của cậu. Cô bé và mẹ của họ đã "nương náu những người bạn ở một hệ sao xa xôi. Người mẹ mất sớm, còn em gái Luke thì được nhận nuôi bởi vợ chồng một người bạn của Ben, thống đốc hành tinh Alderaan." Trong cuốn Star Wars: The Annotated Scripts (1997) Lucas đã nói:
Tôi chưa bao giờ thực sự xây dựng cái chết của mẹ Luke và Leia. Tôi từng nghĩ đến câu chuyện riêng của nhân vật này, nhưng nó chưa bao giờ được sử dụng. Khi làm đến phần Jedi, tôi muốn một trong hai đứa trẻ có một chút ký ức về mẹ mình, bởi cô ấy sẽ là nhân vật then chốt trong những tập phim mới mà tôi đang viết. Nhưng tôi đã thực sự cân nhắc xem liệu Leia có nên nhớ được mẹ của cô không.
Sự báo thù của người Sith không giải thích vì sao Leia có thể nhớ được "mẹ thật" của mình. Nhà phê bình phim Peter Travers của tờ Rolling Stone hoan nghênh những nỗ lực gắn kết sáu tập phim trong những cảnh cuối cùng của Sự báo thù của người Sith, nhưng nói thêm, "Nó quá ít ỏi và quá muộn màng." Ông giải thích, "Ngợi ca Sự báo thù của người Sith như một cây cầu nối đủ làm vừa lòng người hâm mộ không chỉ là trò chơi Bộ quần áo mới của Hoàng đế, nó còn là một sự xúc phạm tới những gì ba phần phim gốc đã làm được."
Khi phác thảo kịch bản cho Bóng ma đe dọa, Lucas đã hình dung ra "một mối liên kết giữa Padmé và Công chúa Leia, người con gái đã theo đuổi sự nghiệp của mẹ mình." Theo Natalie Portman, "Chắc chắn vai diễn của tôi sẽ có nhiều điểm tương đồng với nhân vật mạnh mẽ, thông minh mà Carrie Fisher đã thể hiện, bởi tôi nghĩ rằng những đứa con sẽ được thừa hưởng rất nhiều từ bố mẹ chúng. Tôi nghĩ George đã sáng tạo ra Amidala như vậy, nhưng cũng thật vinh dự khi có được một người tiền bối từng thể hiện nhân vật của bà theo cách mạnh mẽ như vậy." Paul McDonald chỉ ra rằng có những "điểm tương đồng không thể không nhận ra" giữa hai nhân vật: "cả hai đều xiêu lòng trước những phi công cá tính, cùng thi thoảng nói những câu giọng Anh không tự nhiên." Mặc dù là những nhà ngoại giao, nhưng hai người đều là những tay súng giỏi nhất trong ba phần phim của mình, hiếm khi bắn trượt.
Tuyển chọn diễn viên
George Lucas, Rick McCallum, và đạo diễn Robin Gurland đã tuyển chọn trong hơn 200 diễn viên cho vai Padmé Amidala. Họ chọn Natalie Portman, khi ấy 16 tuổi, cho vai diễn. Theo những tư liệu trong quá trình sản xuất Bóng ma đe dọa, "Vai diễn yêu cầu một người phụ nữ trẻ, đủ chững chạc để có thể được tin tưởng là người đứng đầu cả một hành tinh, nhưng vẫn nhạy cảm và cởi mở." Màn trình diễn của Portman trong các phim The Professional (1994) và Beautiful Girls (1996) đã gây ấn tượng với Lucas. Ông nói rằng, "Khi đó tôi tìm kiếm một người trẻ và mạnh mẽ giống như Leia vậy. Ở Natalie hội tụ đủ tất cả những phẩm chất đó và thâm chí còn nhiều hơn thế."
Việc lựa chọn Natalie Portman cho vai Amidala là một điều khác thường bởi cô không biết đến Chiến tranh giữa các vì sao. "Những đứa em họ tôi thì phát cuồng vì loạt phim này, còn tôi thậm chí chưa xem phần nào trước khi nhận được vai diễn," cô nói. "Khi các em tôi biết về việc nhận vai, chúng đã kêu lên, 'Ôi Chúa ơi, chị ở trong Star Wars nè!'" Cô nói với một phóng viên của CNN, "Tôi thực sự đã không nhận ra Star Wars được yêu thích đến mức nào... và khi những bộ phim đó, mặc dù rất thích, tôi vẫn không hiểu vì sao chúng lại có nhiều người hâm mộ cuồng nhiệt đến vậy." Dù vậy, Portman đã rất hào hứng với vai diễn nữ hoàng Naboo, nhân vật mà cô hy vọng sẽ trở thành một hình mẫu lý tưởng: "Thật tuyệt vời khi được thể hiện một nữ hoàng trẻ với nhiều quyền lực tới vậy. Tôi nghĩ sẽ là một điều tốt nếu các bạn gái thấy được hình ảnh một người phụ nữ mạnh mẽ, hành động, thông minh và có khả năng lãnh đạo."
Trong tập Hiểm họa bóng ma, Portman phải diễn một nhân vật ít tuổi hơn mình. Tuy nhiên trong Cuộc tấn công của người vô tính, nhân vật của cô đã già đi mười tuổi, trong khi ở ngoài đời mới có 3 năm. Cô bình luận, "[Lucas] muốn đảm bảo rằng nhân vật của tôi phải hơn tuổi Anakin trong Cuộc tấn công của người vô tính, để cô ấy có thể sai bảo cậu ta và cậu ta thì bực dọc đôi chút. Padmé vẫn coi Anakin như một cậu bé, ít nhất là trong nửa đầu của bộ phim."
Portman ký hợp đồng nhận vai Padmé trong ba phần tiền truyện. Phản ứng của các nhà phê bình đối với nhân vật của cô là vô cùng tiêu cực. James Berardinelli gọi diễn xuất của cô trong Bóng ma đe dọa là "thiếu sức sống" trong khi Annlee Ellingson của tờBox Office Magazine cho rằng "Vai diễn của Portman cứng đơ và tẻ nhạt, có thể là do những bộ trang phục đẹp đẽ nhưng cồng kềnh." Mike Clark của tờ USA Today phàn nàn về Portman và Hayden Christensen, người đóng Anakin; ông viết, "Việc cả hai nói giọng đều đều đã khiến hiệu ứng họ mang lại trở nên tệ gấp đôi, mặc dù khi không phải chịu đựng người bạn diễn của mình, Christensen có vẻ đã tìm lại được cảm xúc trong ngữ điệu." Một bài phê bình về Sự trở lại của người Sith ở tờ The Village Voice đổ lỗi cho "các nhân vật máy tính như tên người máy phản diện ho hen, Tướng Grievous và người máy phun lửa R2-D2" vì đã "biểu cảm chân thực hơn cả Natalie Portman lẫn Hayden Christensen." Mặc dù vậy, Mick LaSalle của tờ San Francisco Chronicle miêu tả màn trình diễn của Portman trong tập III là "đẹp và đáng thương cảm."
Các nhà phê bình cũng chỉ trích gay gắt biên kịch và đạo diễn Lucas. Ví dụ, Roger Ebert cho rằng trong "Cuộc tấn công của người vô tính" "quas nhiều thời lượng của bộ phim đã bị lãng phí vào mối tình giữa Padmé và Anakin mà trong đó, họ không được nói gì ngoài những câu thoại lãng mạn cơ bản, nhàm chán và sáo rỗng, coi mối tình đó như một thứ cần được chịu đựng nhiều hơn là nâng niu ấp ủ." Đối với Sự báo thù của người Sith, ông phê phán tương tự: "Nói George Lucas không thể viết được một cảnh lãng mạn là còn nhẹ; thậm chí những tấm thiệp mừng còn thể hiện nhiều sự trìu mến hơn."
Todd McCarthy của tờ Variety cũng than phiền rằng "Sự thiếu khả năng của Lucas trong việc biên kịch và đạo diễn những cảnh gần gũi giữa hai người" đã phá hỏng diễn xuất của Portman.
Trang phục
Rất nhiều bộ trang phục khác nhau đã được các họa sĩ và nhà thiết kế ở Lucasfilm tạo ra cho Padmé Amidala. Giống như Leia Organa, một trong những nguồn cảm hứng cho Padmé là nhân vật Dale Arden trong bộ truyện tranh Flash Gordon. Phục trang trong Hiểm họa bóng ma được thiết kế bởi họa sĩ Iain McCaig và nhà thiết kế Trisha Biggar; họa sĩ Dermot Power Tham gia cùng hai người trong Cuộc tấn công của người vô tính.Dermot Power Biography, at Star Wars.com ; last accessed August 5, 2006. Biggar thiết kế phục trang cho cả ba phần tiền truyện. Rất nhiều trong số đó lấy cảm hứng từ trang phục hoàng gia của nhiều nền văn hóa khác nhau. Ví dụ, trong Hiểm họa bóng ma, bộ váy mà Amidala mặc khi phát biểu trước Thượng viện được dựa trên trang phục của hoàng hậu Mông Cổ Dondogdulam, vợ Bogd Khan, và nhiều triều đại tồn tại vào đầu thế kỷ XX. Chiếc áo choàng đi đường của Padmé trong Cuộc tấn công của người vô tính thì lại dựa trên những bức ảnh chụp Công nữ Xenia Alexandrovna của Nga trong Vũ hội Romanov năm 1903.
Trang phục của các phần tiền truyện được thiết kế công phu, một cách chủ định, hơn là ba phần chính truyện. Lucas khẳng định rằng xã hội thiên hà trong ba phần tiền truyện phức tạp hơn. Bình luận về sự khác biệt giữa hai thời kỳ, Carrie Fisher nói vui rằng, "Harrison Ford mặc một bộ quần áo cho cả ba phim, còn tôi thì phàn nàn rằng tôi mặc những sáu bộ. Và mẹ tôi thì sao – Natalie Portman ấy – cô mặc hẳn những ba triệu bộ. Mỗi khi tới một cảnh mới, cô ấy lại thay một bộ trang phục khác nhau. Như thể một Liberace của việc thay đổi trang phục trong cái bộ phim viễn tưởng này vậy." Trisha Biggar tiết lộ rằng theo kế hoạch ban đầu, chỉ có ba bộ trang phục được thiết kế cho Amidala trong Hiểm họa bóng ma, nhưng "[Lucas] quyết định rằng mỗi lần chúng ta thấy cô ấy trên màn ảnh, trang phục của cô ấy sẽ khác." Lucas giải thích, "Một người sống trong thế giới phát triển như vậy sẽ tự động thay đổi quần áo cho phù hợp với hoàn cảnh."
Ngoài mục đích thẩm mỹ, trang phục cũng là cách biểu lộ sự tiến triển của kịch bản. Trong Cuộc tấn công của người vô tính, Lucas muốn trang phục của Padmé phải phản ánh được yếu tố lãng mạn trong câu chuyện. Ông gợi ý rằng cô nên ăn mặc một cách "quyến rũ tự nhiên." Trisha Biggar nói Lucas muốn Padmé xuất hiện "gợi cảm, lộng lẫy, và trẻ trung trong những bộ trang phục khêu gợi." Portman đùa rằng, "Tôi đã quá 18 tuổi, có thể lộ bụng được rồi đây, tôi đoán vậy.", Đối với Sự báo thù của người Sith, Biggar nói, "Chúng ta biết rằng Padmé sẽ mang thai trong cả bộ phim, và không người ngoài nào biết được điều đó. Bởi cô ấy mang thai, tôi muốn những bộ trang phục được thiết kế bởi những chất liệu mềm mại hơn."
Một vài phục trang của nhóm thiết kế Biggar không xuất hiện trong phiên bản cuối cùng của phim. Ví dụ, trong "Sự báo thù của người Sith" chiếc áo dài "Peacock" nhiều màu và một bộ áo choàng nhung xanh lá mà Padmé mặc trong một cảnh có Phái đoàn 2000 đã bị cắt trong giai đoạn hậu kỳ. Biggar nói rằng chiếc áo dài Peacock là một trong những bộ trang phục ưa thích của bà và rất nhiều thời gian, tiền bạc đã đổ vào ấu trình thiết kế những bộ váy đó. Cuối cùng, áo dài Peacock được dùng cho áp phích chiếu rap của phim, còn chiếc áo choàng nhung xanh thì được tái sử dụng cho một cảnh quay lại, do đó xuất hiện trong phim, và trên bìa đĩa DVD.
Nhiều bộ trang phục của Padmé trong "Hiểm họa bóng ma được đăng trên tạp trí High Fashion của Nhật năm 1999, còn trang phục trong "Cuộc tấn công của người vô tính thì xuất hiênn trên tạp chí Vogue năm 2002. Trang phục của cả ba phim được trưng bày tại triển lãm Dressing A Galaxy: The Costumes of Star Wars tại Fashion Institute of Design & Merchandising (FIDM) ở Los Angeles năm 2005. Trisha Biggar nhận hai giải Saturn Award cho thiết kế trang phục xuất sắc, một vào năm 2000 cho Hiểm họa bóng ma và một vào năm 2003 cho Cuộc tấn công của người vô tính. Bà cũng được đề cử năm 2006 cho Sự báo thù của người Sith, nhưng thua Isis Mussenden, nhà thiết kế của Biên niên sử Narnia: Sư tử, phù thủy và cái tủ áo (2005).
Tổng quan về nhân vật
Padmé Amidala xinh đẹp và duyên dáng. Trong tác phẩm Cloak of Deception của James Luceno, cô được miêu tả là có "dáng người mảnh khảnh và gương mặt nữ tính dịu dàng." Cô trưởng thành, nghiêm nghị trước tuổi, cho thấy sự nghiêm túc trong việc thực hiện trách nhiệm của mình. Trong tiểu thuyết "Hiểm họa bóng ma", Terry Brooks đã ghi lại ấn tượng của Nute Gunray với ngoại hình Padmé như sau: "Cô ta được cho là xinh đẹp, Gunray đã nghe người ta nói vậy, nhưng hắn ta không biết gì về vẻ đẹp của con người và theo tiêu chuẩn của người Neimoidian cô ta chỉ đơn giản là nhỏ bé và nhợt nhạt." Cũng trong cuốn sách này, Padmé hiện lên với những tính từ "trẻ, đẹp, và trầm lặng."
Star Wars Databank mô tả cô là "một trong những người Naboo xuất chúng nhất" và "quan tâm tới việc phục vụ cộng đồng." Cô cống hiến cả tuổi thơ và thời niên thiếu cho cộng đồng, đặc biệt quan tâm đến những số phận thiệt thòi và thiếu thốn trong thiên hà. Trong tiểu thuyết Cuộc tấn công của người vô tính, Sola Naberrie, chị gái của Padmé, đã nói với cô rằng, "Em quá ràng buộc bản thân vào trách nhiệm, đến độ ngó lơ những khát vọng của riêng mình."
Padmé dựa trên ngoại giao để giải quyết các tranh chấp, thường hành động như một người yêu chuộng hòa bình. Dù vậy, cô không ủng hộ sự nhượng bộ, sẵn sàng sử dụng "thương lượng bằng bạo lực (aggressive negotiations)" để gìn giữ nền dân chủ. Theo miêu tả ở Star Wars Databank, "Dù ban đầu phản đối việc thành lập quân đội Cộng hòa, Padmé vẫn chiến đấu bên cạnh những người lính vô tính trong cuộc chiến với đội quân người máy của phe Ly khai. Các nhà phê bình phim Dominique Mainon và James Ursini miêu tả cô là một "nữ chiến binh Amazon thời hiện đại," chỉ các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp.
Kỹ năng chiến đấu của cô dần dần được thể hiện theo thời gian trong vũ trụ Chiến tranh giữa các vì sao. Trong Cuộc tấn công của người vô tính, cô đấu súng tay đôi với những người máy. Cô còn là một thiện xạ; trong một tập Chiến tranh giữa các vì sao: Cuộc chiến vô tính, cô đánh bại được tay thợ săn tiền thưởng Aurra Sing.
Là một người cai trị, một chính trị gia, Padmé không tin tưởng những kẻ quan liêu, phản đối tham nhũng, tin tưởng vào nền dân chủ và sự điều hành bằng pháp luật. Cô từng nói với Anakin, "Những luật lệ phổ biến ngày nay không phải là dân chủ… Nó cho người dân những thứ họ muốn, không phải những thứ họ cần." Theo Mainon và Ursini, "cô ấy ra sức thuyết phục và thỏa hiệp bằng lý lẽ, nhưng những sự xáo trộn trong nền Cộng hòa đã khiến cô nghi ngờ tính hiệu quả của thượng viện. " Padmé trung thành với nền Cộng hòa cho tới khi nó không còn đại diện cho những nguyên tắc dân chủ cô theo đuổi. Trong cuốn tiểu thuyết Sự báo thù của người Sith, Padmé dặn dò Bail Organa và Mon Mothma, những người sáng lập nên tổ chức mà sau này sẽ trở thành Liên minh Nổi dậy, rằng "Hãy là những thượng nghị sĩ bé nhỏ ngoan ngoãn. Để ý thái độ của mình và luôn nhớ phải cúi đầu. Và tiếp tục làm những công việc... mà ta không thể nói được ở đây."
Padmé cũng có những khi trở nên bí ẩn và lừa dối. Trong tiểu thuyết Hiểm họa bóng ma của Terry Brooks, cô được miêu tả "có khả năng biến hóa như tắc kè hoa, che giấu bản thân trước thế giới và chỉ tin tưởng những người hầu thân cận." Việc kết hôn với Anakin và những cuộc trao đổi bí mật với những thượng nghị sĩ khác về Palpatine cho ta thấy nhiều mặt hơn trong tính cách của cô. Paul F. McDonald từ Space.com nhận định, "Amidala... biểu hiện rất nhiều khía trái ngược trong Tập I— chiến đấu và hòa giải, nữ hoàng và thường dân, kiểu cách và giản dị. Không như các nhân vật có nhân cách mâu thuẫn và thường phải đấu tranh với chính mình, những nét tính cách trái ngược đó của [Padmé] đem lại nhiều cái lợi." Ông giải thích, "Cô có thể là một Amidala, lạnh lùng ra lệnh khi cần, hoặc là một Padmé ấm áp và đầy yêu thương."
Tháng 2/2018, Natalie Portman tái hiện hình ảnh Padmé Amidala trong một tập Saturday Night Live.
Xuất hiện
Phim điện ảnh
Chính truyện
Sự trở lại của JediSự trở lại của Jedi, tập cuối cùng trong bộ ba chính truyện, có ám chỉ tới Padmé. Khi ở làng Ewok trên mặt trăng Endor, Luke Skywalker hỏi Leia Organa liệu cô có còn nhớ "mẹ thật" của họ. Leia đáp rằng "bà ấy mất khi em còn rất nhỏ" và rằng "bà rất đẹp... hiền từ... nhưng buồn bã", trong khi Luke nói anh không còn chút ký ức nào về mẹ. Một cảnh mở rộng của Sự trở lại của Jedi giải thích thêm về số phận của mẹ hai người (khi đó còn chưa có tên). Khác với tiền truyện, ở đây bà giả làm người hầu của Bail Organa để chạy trốn khỏi Anakin Skywalker, khi đó đã sa ngã vào mặt tối của Thần Lực, và sống với Leia cho tới khi cô bốn tuổi.
Tiền truyện
Hiểm họa bóng ma (1999)
Padmé Amidala xuất hiện lần đầu trên màn ảnh rộng trong Hiểm họa bóng ma. Cô được giới thiệu là nữ hoàng 14 tuổi mới nhậm chức của Naboo, quyết tâm kết thúc sự chiếm đóng hành tinh của Liên đoàn Thương mại. Cô nỗ lực chống lại tổng trấn liên đoàn Nute Gunray, người buộc cô phải ký hiệp ước hợp pháp hóa sự chiếm đóng của Liên đoàn Thương mại ở Naboo, quê hương cô. Padmé trốn khỏi Naboo với sự trợ giúp của sư phụ Jedi Qui-Gon Jinn và Padawan Obi-Wan Kenobi, nhưng họ phải dừng lại ở hành tinh sa mạc Tatooine do động cơ bị hỏng. Trong khi cải trang thành một người hầu gái, Padmé gặp cậu bé Anakin Skywalker 9 tuổi và mẹ cậu Shmi. Anakin tặng cô một chiếc vòng mà cậu tự tay chạm khắc. Padmé đã có mặt ở cuộc thi Podrace tại Boonta Eve Classic mà ở đó, chiến thắng của Anakin đã vừa giúp cho nhiệm vụ của cô, vừa mang lại tự do cho cậu bé.his freedom.
Khi tới Coruscant, Padmé thảo luận với thượng nghị sĩ Palpatine, người khuyến khích cô yêu cầu Thượng viện để giải quyết tranh chấp giữa Naboo với Liên đoàn Thương mại. Palpatine thuyết phục cô kêu gọi Thượng viện tước bỏ chức vụ Đại pháp quan Finis Valorum, vai trò mà sau đó Palpatine đã được bầu cử thay thế. Padmé trở về Naboo để chiến đấu, với sự giúp đỡ từ đội quân người Gungan của Jar Jar Binks. Trong khi người Gungan đánh lạc hướng đám người máy chiến đấu khỏi cung điện, Padmé dẫn người của cô đến bắt giữ tổng trấn Gunray, buộc ông ta phải chấm dứt việc chiếm đóng của Liên đoàn Thương mại vô thời hạn. Một buổi lễ được tổ chức để đánh dấu hòa bình giữa Naboo và người Gungan.
Cuộc tấn công của người vô tính (2002)
Mười năm sau sự kiện trong Hiểm họa bóng ma, Padmé giờ đây đã trở thành Thượng nghị sĩ của đại diện cho Naboo trong Thượng viện thiên hà và dẫn đầu một nhóm các chính trị gia phản đối gay gắt việc thành lập quân đội cho nền Cộng hòa - mà sau này được biết đến là đội quân vô tính - do những căng thẳng gây ra bởi việc ly khai của hàng nghìn hành tinh. Khi Padmé đang ở Coruscant để kêu gọi cho sự phản đối này, Liên đoàn Thương mại đã thực hiện một vụ ám sát cô, nhưng bất thành. Hiệp sĩ Jedi Obi-Wan Kenobi và Padawan Anakin Skywalker được cử đi bảo vệ Padmé. Đại pháp quan Palpatine đề nghị Padmé về ẩn náu tại Naboo một thời gian, với Anakin hộ tống. Giữa Padmé và Anakin nảy sinh tình yêu, nhưng họ đều cố gắng chối bỏ bởi những vai trò, công việc còn dang dở của mình. Trong một cảnh quay bị cắt, Padmé giới thiệu Anakin với gia đình mình và kể với anh về những ngày cô tham gia Chiến dịch Cứu trợ Người tị nạn, được điều hành bởi một tổ chức nhân đạo toàn thiên hà.
Khi Anakin có những giấc mơ tiên tri về mẹ cậu trong cơn nguy hiểm, Padmé cùng anh trở về Tatooine, nhưng không kịp cứu thoát Shmi khỏi tay bọn người Tusken Raiders. Anakin trở về với xác mẹ trong tay và thú nhận, trong đau đớn, với Padmé rằng anh đã giết cả bộ tộc Tusken để trả thù cho mẹ. Padmé tuy không đồng tình, nhưng vẫn an ủi Anakin. Sau đó, họ nhận được một tin nhắn từ Obi-Wan trên hành tinh Geonosis, và vội vàng tới giải cứu vị Hiệp sĩ Jedi, để rồi cả ba bị bắt giữ và buộc phải chiến đấu với đám quái vật trong đấu trường của người Geonosian với sự chứng kiến của Bá tước Dooku, thủ lĩnh Ly khai và đồng thời cũng là một Chúa tể Sith. Trước khi bị đưa ra pháp trường, Padmé và Anakin thổ lộ tình yêu với nhau. Trong khi chiến đấu, họ được các sư phụ Jedi Mace Windu, Yoda và một đội quân lính vô tính giải cứu, mở đầu cho Cuộc chiến vô tính giữa phe Cộng hòa và phe Ly khai. Ở cuối phim, Padmé và Anakin tổ chức lễ cưới bí mật ở Naboo với hai người máy R2-D2, C-3PO làm chứng.
Sự báo thù của người Sith (2005)
Ba năm sau sự kiện trong Cuộc tấn công của người vô tính, trong lúc tái ngộ với Anakin sau khi anh thành công giải cứu Đại pháp quan Palpatine từ tay Tướng quân Grievous, Padmé thông báo với anh rằng cô đang mang thai. Anakin bắt đầu có những giấc mơ tiên tri về việc Padmé sẽ chết trong lúc sinh con. Nỗi sợ mất cô đã khiến anh sa ngã vào mặt tối của Thần Lực và trở thành Darth Vader, học trò của chúa tể Sith Darth Sidious, lâu nay vẫn ẩn dưới lớp mặt nạ Đại pháp quan Palpatine. Trong lúc đó, nghi ngờ của Padmé đối với Palpatine cũng ngày càng gia tăng khi hắn ta lợi dụng Cuộc chiến vô tính để củng cố quyền lực của mình trong Thượng viện cũng như Tòa án thiên hà. Trong một cảnh quay bị cắt, Padmé, cùng với các thượng nghị sĩ Bail Organa, Mon Mothma và Bana Breemu là những người chống đối lại chính phủ của Palpatine và gieo những hạt giống đầu tiên cho sự hình thành và phát triển của Liên minh nổi dậy.
Khi chứng kiến Palpatine tuyên bố sự thành lập của Đế chế Thiên hà thay thế cho Cộng hòa, Padmé đã nói với Bail Organa: "Vậy ra đây là cách mà nền tự do kết thúc – với những tràng pháo tay vang rền". Palpatine tự xưng Hoàng đế, ra lệnh tìm diệt tất cả các Jedi với tội danh phản bội. Obi-Wan, giờ đây đang bị truy đuổi, tìm đến chỗ Padmé và nói với cô rằng Anakin đã sa ngã và chính anh là người đã tàn sát các Jedi ở Điện thờ. Không tin vào điều đó, Padmé đi tìm Anakin, lúc này đã trở thành Vader, ở hành tinh núi lửa Mustafar (với Obi-Wan lén lên tàu mà cô không hay biết). Padmé van xin Vader thoát khỏi tay Palpatine và chạy trốn với cô, nhưng Vader khăng khăng rằng họ có thể lật đổ Palpatine và cùng nhau thống trị thiên hà. Padmé lùi lại trong sợ hãi, nhưng vẫn cố thuyết phục hắn từ bỏ mặt tối. Khi Obi-Wan bước xuống từ tàu của Padmé, Vader buộc tội Padmé đã đưa Obi-Wan tới đây để giết hắn, và dùng Thần Lực bóp cổ cô đến bất tỉnh.
Sau khi đánh bại Vader trong một cuộc đấu gươm ánh sáng, Obi-Wan đưa Padmé tới vành đai tiểu hành tinh Polis Massa. Mặc cho những nỗ lực cứu chữa của người máy y tế, Padmé chết sau khi sinh Luke và Leia. Trước khi nhắm mắt, cô trăn trối với Obi-Wan rằng cô biết "vẫn còn có sự lương thiện" trong Anakin. Xác của cô được đưa về quê nhà Naboo, ăn mặc như vẫn đang mang thai, trong khi hai đứa trẻ được Yoda và Obi-Wan chia tách để tránh sự dòm ngó của Darth Vader và Hoàng đế Palpatine: Leia được Thượng nghị sĩ Organa và vợ ông, Nữ hoàng Organa của Alderaan nuôi nấng như một công chúa, trong khi Luke được đưa đến Tatooine, sống cùng với gia đình hai người bác Owen và Beru Lars.
Hoạt hình
Cuộc chiến vô tính (2008 - 2014)
Trong bộ phim Cuộc chiến vô tính, trong khi Anakin Padawan của anh, Ahsoka Tano, tìm kiếm Rotta, đứa con trai mất tích của Jabba the Hutt, Padmé tìm gặp chú của Jabba, Ziro the Hutt, ở cung điện của hắn trên hành tinh Coruscant, để thuyết phục hắn giúp đỡ các Jedi, nhưng không ngờ lại bị hắn bắt giam. Sau khi trốn thoát, cô vạch trần kế hoạch của Ziro trước mặt Bá tước Dooku và phe Ly khai: giết Rotta đế đổ tội cho các Jedi, buộc Jabba phải trả thù, đưa Ziro trở thành lãnh đạo của tộc Hutt. Khi âm mưu đã bị bại lộ, Dooku gợi ý Ziro hãy lấy đầu Padmé về để nhận tiền thưởng. Khi bị đám người máy chiến đấu tịch thu bộ đàm và súng, Padmé lừa được một tên kích hoạt bộ đàm, liên hệ được với C-3PO, trước khi nó bị đám người máy dẫm nát. C-3PO dẫn một nhóm các lính gác Coruscant tới giải cứu cô. Padmé sau đó đã liên lạc với Jabba ngay khi hắn chuẩn bị xử tử Anakin và Ahsoka, buộc Ziro phải thú tội trước Jabba. Padmé tiếp tục thương lượng và đã lập ra được một liên minh giữa Cộng hòa với tộc Hutt, giúp tàu chiến phe Cộng hòa có thể sử dụng những tuyến đường siêu không gian của người Hutt mà trước nay họ chưa từng biết tới.
Trong loạt phim hoạt hình sau đó, Padmé xuất hiện chủ yếu thông qua công việc của cô ở Thượng viện - một người tích cực tìm kiếm giải pháp hòa bình, mặc dù trong một số tập cô cũng chiến đấu chống phe Ly khai cùng với Anakin, Ahsoka và Jar Jar Binks. Cô xuất hiện tổng cộng ở 31 tập trong toàn bộ loạt phim, trong đó có 7 tập mùa 1, 4 tập mùa 2, 7 tập mùa 3, 9 tập mùa 4, 1 tập mùa 5 và 3 tập mùa 6.
Thần Lực của Số mệnh (2017 - 2018)
Padmé xuất hiện trong loạt phim ngắn Star Wars: Forces of Destiny và tiếp tục được lồng tiếng bởi Catherine Taber. Cho đến nay cô đã xuất hiện trong 2 tập của mùa 1 và 2 tập mùa 2.
Tiếp nhận
Năm 2017, báo Rolling Stone xếp Padmé Amidala ở vị trí thứ 45 trong danh sách 50 nhân vật Star Wars'' tuyệt vời nhất mọi thời đại.
Chú thích
|
2924362
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hemipachnobia%20monochromatea
|
Hemipachnobia monochromatea
|
Hemipachnobia monochromatea là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hemipachnobia
|
2575861
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amastus%20elongata
|
Amastus elongata
|
Amastus elongata là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Amastus
|
15335080
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vinpearl%20Air
|
Vinpearl Air
|
Vinpearl Air là một hãng hàng không Việt Nam đã đóng cửa. Hãng được thành lập và cấp Giấy chứng nhận người khai thác tàu bay (AOC), đăng ký kinh doanh ngày 22/04/2019 với tên chính thức Công ty cổ phần Hàng không Vinpearl Air, mã số thuế 0108712524, tiền thân là Công ty cổ phần Phát triển Du lịch VinAsia, một công ty con của Tập đoàn Vingroup.
Vinpearl Air tuyên bố đóng cửa, rút khỏi lĩnh vực kinh doanh vận tải hàng không vào ngày 14 tháng 01 năm 2020 khi chưa một lần cất cánh.
Trụ sở
Trụ sở của hãng nằm tại: Tầng 2, khu phức hợp hội nghị cao cấp Almaz Market, đường Hoa Lan, khu đô thị Vinhomes Riverside, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội.
Tài chính
Dự án có tổng vốn đầu tư 4.700 tỷ đồng; trong đó vốn chủ sở hữu là 1.300 tỷ đồng, vốn vay và vốn huy động hợp pháp khác là 3.400 tỷ đồng. Thời gian hoạt động của dự án là 50 năm.
Tới thời điểm hiện tại, về nguồn vốn góp chủ sở hữu, Vinpearl Air có 3 cổ đông góp vốn là CTCP Vinpearl góp 1.040 tỷ đồng, chiếm 80% vốn điều lệ, ông Phạm Khắc Phương góp 195 tỷ đồng chiếm 15% vốn điều lệ, ông Hoàng Quốc Thủy góp 65 tỷ đồng chiếm 5% vốn điều lệ. Bộ Tài chính cho biết báo cáo kiểm toán năm 2018 của CTCP Vinpearl, đơn vị nắm giữ 80% vốn điều lệ Vinpearl Air cho thấy Công ty Cổ phần Vinpearl đang có nghĩa vụ thanh toán công nợ rất lớn, điều này có thể dẫn đến rủi ro trong việc thực hiện nghĩa vụ theo cam kết hỗ trợ tài chính đối với Công ty cổ phần Vinpearl Air.
Đại diện pháp luật kiêm chủ tịch HĐQT là bà Nguyễn Thanh Hương.
Vận hành
Hãng dự kiến vận hành vào tháng 7 năm 2020 với sân bay chính là sân bay quốc tế Nội Bài. Khi bắt đầu hoạt động, Vinpearl Air sẽ đồng thời thuê khô (không tổ lái) và thuê ướt (có tổ lái) tàu bay. Bắt đầu với đội bay gồm 6 máy bay thân hẹp, trung bình hãng sẽ tăng khai thác thêm 6 máy bay/năm và đến năm 2024 đội bay của hãng sẽ đạt 30 chiếc (bao gồm 21 máy bay thân hẹp và 9 máy bay thân rộng). Đến năm 2026, con số dự kiến là 42 chiếc.
Chỗ đậu tàu bay
Vinpearl Air dự kiến dùng cảng Nội Bài làm sân bay căn cứ và dự kiến đỗ tàu qua đêm trong năm đầu tiên khai thác (2020) tại Nội Bài 2 tàu bay và tại Cam Ranh, cát bi, Đà Nẵng và Vân đồn mỗi cảng 1 tàu bay. Tuy nhiên, đối với giai đoạn sau 2020, Nội Bài sẽ hết vị trí đỗ và Tân Sơn Nhất cũng không còn vị trí đỗ tàu bay, slot khai thác trong giai đoạn đến năm 2022.
Tuyên bố đóng cửa
Ngày 14/01/2020, Tập đoàn Vingroup khẳng định rút khỏi lĩnh vực kinh doanh vận tải hàng không, đóng cửa Vinpearl Air khi chưa một lần cất cánh.
Trường Đào tạo nhân lực kỹ thuật cao ngành hàng không VinAviation
Mặc du tuyên bố hãng sẽ đóng cửa, tuy nhiên Trường Đào tạo nhân lực kĩ thuật cao ngành Hàng không - VinAviation vẫn sẽ tiếp tục hoạt động, duy trì hoạt động theo cam kết với các học viên. Trước đó, ngày 24/7/2019, tập đoàn Vingroup công bố hợp tác với tập đoàn CAE (Canada) trong việc đào tạo phi công, kỹ thuật bay và các nhân sự khác trong lĩnh vực hàng không.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hãng hàng không Việt Nam
Khởi đầu năm 2019
Tập đoàn Vingroup
|
15115230
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gmina%20Inowroc%C5%82aw
|
Gmina Inowrocław
|
Gmina Inowrocław là một gmina nông thôn (khu hành chính) ở quận Inowrocław, Kuyavian-Pomeranian Voivodeship, ở phía bắc miền trung Ba Lan. Khu vực hành chính của nó là thị trấn Inowrocław, mặc dù thị trấn không phải là một phần của lãnh thổ của gmina.
Gmina có diện tích và tính đến năm 2006, tổng dân số của nó là 11.106 người.
Làng
Gmina Inowroclaw bao gồm các làng và các khu định cư như Balczewo, Balin, Batkowo, Borkowo, Cieślin, Czyste, Dulsk, Dziennice, Gnojno, Góra, Jacewo, Jaksice, Jaksiczki, Jaronty, Karczyn-Wies, Kłopot, Komaszyce, Kruśliwiec, Krusza Duchowna, Krusza Podlotowa, Krusza Zamkowa, Łąkocin, Latkowo, Łojewo, Marcinkowo, Marulewy, Miechowice, Mimowola, Olszewice, Oporówek, Orłowo, Ostrowo Krzyckie, Piotrkowice, Pławin, Pławinek, Popowice, Radłówek, Sikorowo, Sławęcin, Sławęcinek, Słońsko, Sójkowo, Stefanowo, Strzemkowo, Trzaski, Tupadły, Turlejewo, Turzany, Witowy và alinowo.
Gmina lân cận
Gmina Inowrocław giáp với thị trấn Inowrocław và với các gmina khác như Dąbrowa Biskupia, Gniewkowo, Janikowo, Kruszwica, Pakość, Rojewo, Strzelno và Złotniki.
Tham khảo
Số liệu dân số chính thức của Ba Lan 2006
Gmina của Ba Lan
|
2702520
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crambus%20monostictus
|
Crambus monostictus
|
Crambus monostictus là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Crambus
|
3427620
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Clearnet
|
Clearnet
|
Clearnet là mạng Internet thông thường không mã hóa và có thể dùng công cụ truy vấn dữ liệu để tìm kiếm các trang web trên đó. Thuật ngữ này được dùng để phân biệt với Darknet và có thể được xem là đồng nghĩa với surface web.
Mạng Internet này tuy nhiên không nặc danh, vì các trang web có thể biết được địa chỉ IP của người dùng vào trang của họ. Muốn dấu tên, người ta phải dùng phần mềm máy tính có chức năng xóa dấu vết, ẩn địa chỉ IP xuất xứ của máy như Tor.
Chú thích
Không gian mạng
Thuật ngữ Internet
World Wide Web
Kiến trúc mạng
|
2603593
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Colotois%20lugubrata
|
Colotois lugubrata
|
Colotois lugubrata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Colotois
|
3350820
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%C3%AAn%20mao%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Tiên mao (định hướng)
|
Tiên mao trong tiếng Việt có thể dẫn tới:
Tiên mao: một bộ phận của một số tế bào sinh vật nhân sơ (prokaryote) và sinh vật nhân thực (eukaryote).
Curculigo orchioides: loài thực vật có tên sâm cau, tiên mao.
Hypoxis aurea: loài thực vật có tên hạ trâm, tiên mao.
|
15116678
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Henriette%20Youanga
|
Henriette Youanga
|
Henriette Youanga (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1958) là một cung thủ đến từ Cộng hòa Trung Phi. Bà đại diện cho Cộng hòa Trung Phi trong môn bắn cung tại Thế vận hội Mùa hè 2000 ở Sydney, Úc.
Thế vận hội
Youanga kết thúc thứ 63 trên 64 trong vòng xếp hạng. Cô thua 166-126 trước hạt giống thứ hai Natalia Valeeva ở vòng 64.
Liên kết ngoài
Henriette Youanga
Henriette Youanga
Henriette Youanga
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1958
|
2642726
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Physocleora%20pygmaeata
|
Physocleora pygmaeata
|
Physocleora pygmaeata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Physocleora
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.